Đề tài Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay

Trong xu thế phát triển chung hiện nay, những thuật ngữ như “hội nhập”, “toàn cầu hóa” đang được nhắc đến liên tục trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quan hệ trên thế giới đang có sự giao thoa mạnh mẽ, mỗi quốc gia không thể bó hẹp mình trong phạm vi lãnh thổ mà phải tham gia một cách tích cực, chủ động mới có thể hội nhập và phát triển đất nước. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động gia nhập vào các tổ chức, diễn đàn lớn trên thế giới và thể hiện được vai trò của mình như Liên Hợp Quốc, WTO, Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Châu á-Thái Bình Dương(APEC), Diễn đàn á- Âu (ASEM) đồng thời với các thời cơ mới, thử thách mới là nhiệm vụ phải “đảm bảo sự thống nhất của Luật, các quy định dưới luật và các quy tắc hành chính với các nghĩa vụ của mình ”

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3385 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, bác yêu cầu của bị đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất cả các yêu cầu đó đều bắt đầu phát sinh từ đương sự hay đương sự là người bắt đầu hoạt động chứng minh. Theo nguyên tắc chung, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì nội dung của đơn kiện chỉ coi là hợp lệ khi có “tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp” (điểm i khoản 2 Điều 164 BLTTDS), nếu không đáp ứng điều kiện này thì đơn khởi kiện sẽ không được tòa án chấp nhận và tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo căn cứ tại Điều 169 BLTTDS. Như thế, hoạt động chứng minh đã được bắt đầu và hoạt động chứng minh này được thực hiện bởi nguyên đơn. Khi bị đơn, người thứ ba có yêu cầu thì cũng phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp theo nguyên tắc tại điều 79 BLTTDS: “1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứnh minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.” Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên nguyên – bị, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. Vì thế cần thiết phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết và điều hòa lợi ích giữa các bên – trọng trách này được giao cho nhà nước và thể hiện cụ thể là tòa án có thẩm quyền với quyền lực cưỡng chế cũng như tính trung lập sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của tòa án cũng chỉ được thực hiện khi đương sự có yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhận thức của tòa án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự. Là người đưa ra yêu cầu, phát động tranh chấp nên thông thường đương sự là người bắt đầu của hoạt động chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của đương sự sẽ giới hạn hoạt động chứng minh không chỉ của đương sự mà còn của tòa án và những chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Ví dụ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà. Nguyên đơn phải chứng minh mình có căn cứ cho yêu cầu hủy hợp đồng. Nếu bị đơn không đồng ý, họ sẽ phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra hợp đồng đã được xác lập là có hiệu lực pháp luật hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này sẽ bắt đầu khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và được tòa án thụ lý. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung cấp những chứng cứ như hợp đồng vô hiệu, bị đơn vi phạm nghĩa vụ đã cam kết… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ xoay quanh hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên nguyên – bị. Mặc dù bị đơn có thể có yêu cầu phản tố như yêu cầu bồi thường thiệt hại… nhưng nó cũng có liên quan mật thiết với việc chứng minh hợp đồng trên có hay không hiệu lực pháp luật. 2.2.2 Đương sự – chủ thể chứng minh chủ yếu Khi nguyên đơn xử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì cũng là lúc vụ án được phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm hai loại chính là người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Mỗi người một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó, hầu hết đều liên quan đến hoạt động chứng minh nhưng hoạt động chứng minh của đương sự là chủ yếu bởi một số điểm như sau: 2.2.1 Đương sự là người thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung cấp chứng cứ Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự là một nghĩa vụ có tính lịch sử. Kế thừa điều đó, BLTTDS 2004 đã quy định đương sự là người thu thập cung cấp chứng cứ chủ yếu, tòa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trường hợp như như lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 87 BLTTDS), đối chất khi thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 88 BLTTDS), định giá tài sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS )[24]. Còn lại, các biện pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS – chứng cứ và chứng minh, đều thuộc về đương sự như: đương sự có quyền được khai báo (Điều 86), yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều 87), yêu cầu đối chất (Điều 88), giám định, giám định bổ xung (Điều90), yêu cầu định giá tài sản (Điều 92), yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b khoản 2 Điều 58)… Đương sự có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thông qua hai cách là tự mình thu thập hoặc nhờ tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 85: “Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ: a) lấy lời khai của người làm chứng b) Quyết định định giá tài sản c) Xem xét, thẩm định tại chỗ đ) ủy thác thu thập chứng cứ e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự” Nhìn chung, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu của mình, họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, yêu cầu thu thập. Tuy nhiên không thể nói là việc thu thập không có sự can thiệp của nhà nước bởi nếu không can thiệp sẽ gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập được không có giá trị pháp lý. BLTTDS đã quy định đầy đủ trình tự và điều kiện để đương sự thực hiện quyền năng này, đây chính là vấn đề về thủ tục. Khi vi phạm về thủ tục luật định thì chứng cứ do đương sự thu thập được cũng sẽ không được chấp nhận, tạo ra tính công bằng giữa các bên. Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp chứng cứ cho tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và trách nhiệm của tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định thành một nguyên tắc tố tụng “ Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án” (Điều 6) áp dụng chung cho cả các cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền lợi cho người khác. Người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án theo quy định tại Điều 165 BLTTDS “Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn “Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1 Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1 Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ. 2.2.2 Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố “tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án. Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS: “1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. 2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị của từng chứng cứ.” Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này. Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự có một số quyền như: Đương sự có quyền “được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương. Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh. Đây luôn là phần hấp dẫn nhất của một phiên tòa khi mà các bên được tự do thể hiện ý chí, quan điểm của mình, vận dụng những hiểu biết pháp lý và kinh nghiệm tố tụng để bảo vệ quan điểm đó. Sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án giải quyết vụ việc. 2.2.3 Vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Chủ thể của hoạt động chứng minh là những người bằng hành vi của mình tham gia vào quá trình xác minh có hay không những tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Chủ thể của hoạt động chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều người khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trò của những chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trò chứng minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự. 2.2.3.1 Người đại diện của đương sự Người đại diện của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS), người được tòa án chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS). Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia thay mình. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điều 74 BLTTDS: “1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện. 2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.” Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt. Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn. 2.2.3.2 Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền: “2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” (Điều 64 BLTTDS). Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được “nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể không có mặt tại phiên tòa ( Điều 203 BLTTDS ). Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ cùng thuộc nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự. 2.2.3.3 Viện kiểm sát Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến (điểm b khoản 1 Điều 271, khoản 1 Điều 295, Điều 310)… Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế của nhà nước – đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt động chứng minh của mình. 2.2.3.4 Tòa án Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ cụ thể của tòa án khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án – thể hiện cụ thể trong một vụ án dân sự là thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ trung lập (bởi đây là những tranh chấp mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ tùy thuộc vào việc có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích của việc chứng minh là khác nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra phải công bằng với cả hai bên trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự lại chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay phản yêu cầu của đương sự bên kia. Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ như: tự mình tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh. Yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi “xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết” (khoản 1 Điều 85). Theo yêu cầu của đương sự tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối chất… có quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 96, 97 BLTTDS, đây là điều hiển nhiên vì tòa án là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải quyết. Tại phiên tòa, HĐXX có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự, người làm chứng… Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu, đánh giá chứng cứ mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã làm rõ, không có giai đoạn thu thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên cũng không thể nào nói rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự thực hiện mỗi người một nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng cứ tại phiên tòa cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa án cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau nhưng vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh được hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của tòa án “lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án đã cho thấy, việc không chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc ra một quyết định không có cơ sở làm sâm phạm đến quyền lợi của các bên đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ”[26]. Như vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự. 2.3. Cơ sở luận giải cho vai trò chứng minh quan trọng nhất của đương sự trong hoạt động chứng minh 2.3.1 Lý luận về tính lợi ích trong các tranh chấp Theo C. Mac thì “ con người trước hết phải ăn uống ở và mặc rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật”,[27] các nhu cầu thiết yếu này của con người phải thỏa mãn thông qua các giao dịch dân sự. Do vậy, trong quan hệ pháp luật dân sự, khi tham gia điều mà các chủ thể hướng tới để xác lập các quyền và nghĩa vụ chính là lợi ích. Lợi ích ở đây có thể là các lợi ích về vật chất hoặc có thể là lợi ích về tinh thần, đặc biệt trong một số trường hợp mặc dù “đau đớn không thể đổi ra tiền bạc được” nhưng việc thừa nhận những lợi ích về mặt tinh thần có thể làm xoa dịu đi nỗi đau cũng như sự mất mát của các chủ thể (tranh chấp về việc nuôi hay thăm nom con sau khi ly hôn…). Các quan hệ dân sự gắn bó mật thiết với lợi ích lợi ích là định hướng cho hoạt động của con người trong các mối quan hệ với cộng đồng, với xã hội. Cho dù có bị chi phối bởi các yếu tố về đạo đức, tín ngưỡng, phong tục tập quán hay bất kỳ một yếu tố nào khác thì vấn đề về lợi ích luôn được quan tâm đầu tiên. Có nhiều loại lợi ích khác nhau cùng tồn tại như lợi ích của cá nhân, lợi ích của cộng đồng, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài.. Nhưng trong đó, lợi ích cá nhân bao giờ cũng là quan trọng và dễ nhận biết nhất bởi nó đáp ứng ngay chính nhu cầu cá nhân của con người và nó là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy con người hoạt động. Trong lợi ích của cá nhân cụ thể lại có nhiều loại lợi ích khác nhau như lợi ích về kinh tế, lợi ích về tinh thần, lợi ích về chính trị…Nhưng lợi ích về mặt kinh tế luôn rõ ràng và được quan tâm hơn cả vì nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu mang tính chất sống còn của cá nhân. Chính vì vậy, coi lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của con người là một quan điểm đúng đắn. Khi có tranh chấp dân sự sảy ra và yêu cầu tòa án giải quyết cũng đồng nghĩa với việc một bên đương sự cho rằng lợi ích của mình đang bị xâm hại bởi hành vi trái pháp luật của người khác như việc kiện đòi bồi thường thiệt hại, kiện đòi tài sản cho vay, kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng… Nguyên đơn chứng minh có lợi ích tồn tại cũng chính là việc có sự “suy diễn” trách nhiệm từ phía bị đơn buộc bị đơn phải tham gia tố tụng tích cực. Việc thừa nhận quyền lợi của bên đương sự này cũng đồng nghĩa phát sinh một nghĩa vụ của đương sự còn lại và họ sẽ phải từ bỏ một phần lợi ích mà mình đang có. Chính vì việc bảo vệ lợi ích của mình mà các bên đương sự tham gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự việt nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan