Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn: Thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn

Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), thị trường nông thôn Việt Nam (tỉnh lẻ và các vùng nông thôn gọi chung là thị trường nông thôn) đang chiếm 70% lượng tiêu thụ hàng hóa nói chung, số hộ gia đình và số lượng các cửa hàng bán lẻ cũng phân bổ tập trung ở vùng nông thôn với 70%. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống bán hàng của doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa bao kín và hoạt động có hiệu quả ở thị trường này. Cả nước hiện có hơn 400 siêu thị, trung tâm thương mại thì hầu hết tập trung tại các thành phố, thị xã. Ngay cả một số mặt hàng thiết yếu như muối, dầu hỏa đôi khi cũng là hàng hiếm với bà con một số nơi ở vùng sâu, vùng xa và dù có tới hơn 8.000 chợ các loại nhưng không phải tất cả người dân nông thôn đều dễ tiếp cận với các mặt hàng nhu yếu phẩm với giá hợp lý nhất.

Thực tế tại nông thôn cho thấy cần xóa bỏ quan niệm thị trường nông thôn chỉ dành cho các sản phẩm rẻ tiền và mãi lực yếu. Theo một Nghiên cứu mới đây của Công ty Nghiên cứu thị trường TNS thì có tới 95% gia đình nông thôn được hỏi cho biết sẵn sàng mua tivi, 92% có thể mua bếp điện hoặc gas, 33% có thể mua máy cassette/radio, 30% muốn mua tủ lạnh, máy giặt và 9% muốn mua máy vi tính Các con số thống kê riêng lẻ cũng cho thấy, hiện số người có thu nhập trên 1,5 triệu đồng/tháng ở nông thôn ngày càng tăng, do đó nhu cầu mua sắm thực phẩm, nhu yếu phẩm cũng tăng theo.

 

doc35 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4015 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn: Thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu kinh tế nông thôn nhằm phấn đấu giảm tỷ trọng nông nghiệp, HTX đầu tư thành lập một trại giống để làm nơi thực nghiệm áp dụng kiến thức khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi trước khi chuyển giao con giống cho xã viên. Tính chung trong 3 năm qua đã có hơn 200 hộ nhận con giống từ HTX cung cấp với mức thu nhập bình quân từ 2.000.000 - 4.000.000 đồng. Trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường, HTX đẩy mạnh công tác phòng trừ sâu bệnh trong trồng trọt và xây dựng hầm ủ phân Bioga kiên cố trong chăn nuôi, góp phần giải quyết tốt môi trường và tận dụng được khí đốt góp phần làm tăng kinh tế thu nhập gia đình... Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, HTX Bình Thành đã từng bước đi lên và trưởng thành, ngay cả trong khó khăn của thời kỳ đổi mới của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển vững mạnh ấy được xuất phát từ tinh thần đoàn kết, gắn bó trong nội bộ Đảng ủy, Ban chủ nhiệm và các xã viên. Các cán bộ, xã viên trong HTX luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ qua từng thời kỳ. Trong những năm tới, HTX chú trọng tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý điều hành như là một nhiệm vụ trọng tâm. Trong định hướng phát triển nông nghiệp, HTX Bình Thành vẫn tiếp tục theo chiến lược phát triển đa ngành nghề, tiếp tục cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, đáp ứng thị trường nội địa và xuất khẩu. Có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý làm tăng thu nhập cho xã viên, giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Ngoài ra, HTX chú trọng hơn đến các chế độ xã hội cho xã viên như bảo hiểm xã hội, ưu tiên cho các gia đình chính sách, hộ nghèo; có kế hoạch dành một phần quỹ đào tạo, khuyến học, cấp học bổng toàn phần cho con em hộ xã viên nghèo hiếu học, học giỏi. 2.2 Các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu ở nông thôn. - Lĩnh vực dịch vụ thương mại: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác... Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy, dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa. Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học công nghệ. Hiện nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển. Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và thương mại phát triển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị trường thu hút các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường. - Dịch vụ ngân hàng và tín dụng. Mạng lưới ngân hàng và các tổ chức tín dụng mấy năm gần đây phát triển mạnh mẽ, các cơ sở giao dịch của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn rộng khắp trên tất cả các huyện của các tỉnh trong cả nước. Hoạt động của các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hết công suất và rất có hiệu quả. Theo báo cáo của các ngân hàng này thì mỗi năm họ đều vượt chỉ tiêu đặt ra từ 5-7%. Doanh thu của ngân hàng đáng kể, đồng thời dịch vụ này đã đáp ứng được một lượng vốn lớn cung cấp, tạo điều kiện cho nhiều hộ nông dân phát triển kinh tế nông thôn. Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng đi vào hoạt động khá hiệu quả, các tổ chức này có nhiều hình thức vay vốn phù hợp với điều kiện khó khăn về tài sản, tài chính của một số người dân. - Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp: Hệ thống dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp được áp dụng rất hiệu quả, đáp ứng được phần thiếu kiến thức về kỹ thuật, công nghệ trong nông nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng năng suất, sản lượng cho các lĩnh vực nông nghiệp. - Dịch vụ vận tải và các loại dịch vụ khác cũng đã phát huy mọi khả năng sẵn có của các vùng, địa phương. Việc thực hiện các dịch vụ này đã góp phần không nhỏ vào tiến trình phát triển nông thôn. Ngoài ra còn nhiều loại dịch vụ cũng có tác động không nhỏ tới phát triển nông thôn như: tiêu thụ sản phẩm, phục vụ đời sống sản xuất của người dân; cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước; dịch vụ thông tin liên lạc, quảng cáo, tuyên truyền tư vấn, bảo dưỡng máy móc thiết bị; giáo dục y tế; dịch vụ khách sạn du lịch, văn hóa giải trí... 2.3 Thực trạng hoạt động của các loại hình dịch vụ nông thôn: Kết quả, những năm gần đây chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển dịch vụ ở nông thôn nhằm đáp ứng đầy đủ những điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Các hoạt động dịch vụ thu hút khoảng 14% việc làm ở nông thôn, 11,2% số hộ làm dịch vụ, tỷ trọng GDP từ hoạt động dịch vụ nông thôn chiếm 13,8% trong cơ cấu kinh tế nông thôn đã góp phần làm giảm đáng kể tính thuần nông trong kinh tế nông thôn . các loại hình dịch vụ của khu vực kinh tế nhà nước, hợp tác xã và tư nhân cùng song song phát triển đáp ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhân dân. Cung cấp hàng hóa và các điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, văn hóa, tinh thần cho người dân và đáp ứng du khách trong và ngoài nước về du lịch giải trí…ở nông thôn Việt Nam. Một số loại hình dịch vụ được nhà nước trợ giá hoặc ưu đãi cho người dân nông thôn như trợ giá vật tư nông nghiệp khi giá thị trường lên cao, giảm giá điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khuyến nông, cấp không cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao thuốc chữa bệnh, dầu đốt, sách giáo khoa phổ thông, muối ăn…. Tuy nhiên theo đánh giá chung tính đồng bộ còn thấp mối quan hệ giữa các tổ chức đơn vị trong hệ thống vẫn còn nhiều bất cập nhất là lợi ích kinh tế xã hội của từng hoạt động dịch vụ cũng như tổ chức. Hệ thống dịch vụ: Tạo ra một hệ thống từ trung ương tới cơ sở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong hệ thống, có những loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân. Các loại hình dịch vụ trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay: - Tiêu thụ sản phẩm, bán hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống , xuất nhập khẩu hàng hóa: Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm bán hàng hóa phục vụ sản xuất đời sống ở nông thôn nước ta ngày càng đa dạng và phong phú. Như hoạt động dịch vụ tiêu thụ cho các mặt hàng sản phẩm công nghiệp như hàng thiết yếu. ngoài ra còn các sản phẩm thường ngày phục vụ cho đời sống người dân như: áo quần, giày dép, đồ dùng cần thiết…hay những dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn như dịch vụ phân bón, giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc gia cầm… Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), thị trường nông thôn Việt Nam (tỉnh lẻ và các vùng nông thôn gọi chung là thị trường nông thôn) đang chiếm 70% lượng tiêu thụ hàng hóa nói chung, số hộ gia đình và số lượng các cửa hàng bán lẻ cũng phân bổ tập trung ở vùng nông thôn với 70%. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống bán hàng của doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa bao kín và hoạt động có hiệu quả ở thị trường này. Cả nước hiện có hơn 400 siêu thị, trung tâm thương mại thì hầu hết tập trung tại các thành phố, thị xã. Ngay cả một số mặt hàng thiết yếu như muối, dầu hỏa… đôi khi cũng là hàng hiếm với bà con một số nơi ở vùng sâu, vùng xa và dù có tới hơn 8.000 chợ các loại nhưng không phải tất cả người dân nông thôn đều dễ tiếp cận với các mặt hàng nhu yếu phẩm với giá hợp lý nhất.   Thực tế tại nông thôn cho thấy cần xóa bỏ quan niệm thị trường nông thôn chỉ dành cho các sản phẩm rẻ tiền và mãi lực yếu. Theo một Nghiên cứu mới đây của Công ty Nghiên cứu thị trường TNS thì có tới 95% gia đình nông thôn được hỏi cho biết sẵn sàng mua tivi, 92% có thể mua bếp điện hoặc gas, 33% có thể mua máy cassette/radio, 30% muốn mua tủ lạnh, máy giặt và 9% muốn mua máy vi tính… Các con số thống kê riêng lẻ cũng cho thấy, hiện số người có thu nhập trên 1,5 triệu đồng/tháng ở nông thôn ngày càng tăng, do đó nhu cầu mua sắm thực phẩm, nhu yếu phẩm cũng tăng theo.   Tiềm năng của thị trường nông thôn là rất lớn, cần được khai thác đúng mức nhưng có thể nói chưa có doanh nghiệp nội địa nào thực sự làm chủ được thị trường này, trở thành thương hiệu sáng giá, giữ ưu thế tuyệt đối trên thị trường nông thôn. Theo bà Vũ Kim Hạnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA): Đối với doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam, được xem là thành công nhất trong khai thác thị trường nông thôn thì chỉ có khoảng 10-15 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng nhanh như: Unilever, P&G, ICP, Pepsico VN, Coca Cola VN, Tân Hiệp Phát, Vinamilk, Kinh Đô, Mỹ Hảo, Vina Acecook… với doanh số bán lẻ tại đây cũng chỉ chiếm khoảng 20-25% tổng doanh số của công ty. Còn lại đa số là hàng Việt địa phương, hàng Trung Quốc, không nhãn mác.   Ngoài việc tập trung vào xuất khẩu và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài tại các thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, tỉnh lỵ thì một nguyên nhân khác khiến các doanh nghiệp ít bán hàng về nông thôn là vì sợ lỗ. Nhiều doanh nghiệp vẫn có quan niệm nông dân là đối tượng có thu nhập thấp nên nhu cầu tiêu thụ hàng hoá chưa nhiều, chưa cao. Để đáp ứng nhu cầu của người nông dân, phải có các mặt hàng giá tương đối “mềm”. Trong khi đó, nguyên liệu để sản xuất hàng dù nhập ngoại hay trong nước đều có giá thành cao. Nếu đưa hàng về bán ở nông thôn, doanh nghiệp cầm chắc sẽ lỗ.  Theo nhiều doanh nghiệp một khó khăn khác cản trở đưa hàng về nông thôn là địa bàn nông thôn trải rộng, khoảng cách giữa các khu dân cư xa xôi, sức mua yếu, trong khi thị hiếu mua hàng ở nông thôn tương đối khác với ở đô thị. Thêm vào đó, chi phí để thiết lập, duy trì mạng lưới phân phối khá lớn... Những trở ngại trên dẫn đến phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa có tâm lý ngại đưa hàng về nông thôn, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chi phí đầu vào tăng cao do giá xăng dầu, điện... đều tăng.  Tuy nhiên, điều không thể phủ nhận là trên phương diện tiếp thị, các doanh nghiệp thiếu đầu tư trong nghiên cứu thị trường, thiếu am hiểu người tiêu dùng nông thôn, chưa xây dựng được mối liên hệ tin cậy với khách hàng của mình. Ví dụ, người tiêu dùng nông thôn có mức độ tin và xem quảng cáo tivi khá cao nhưng chiếm tuyệt đối đa số quảng cáo trên tivi hiện nay là nhãn hiệu nước ngoài. Ngược lại, sản phẩm nội địa có giá hợp túi tiền người tiêu dùng thì không được quảng cáo. Các doanh nghiệp cũng chưa đầu tư đồng bộ, lâu dài về dịch vụ hậu mãi, bảo trì, sửa chữa bên cạnh khâu bán hàng ở thị trường nông thôn. Do vậy, người tiêu dùng ở đây rất bất tiện trong quá trình sử dụng sản phẩm, nhất là sản phẩm công nghệ cao như máy vi tính, máy giặt... Người tiêu dùng nông thôn không mặn mà với hàng hóa nội địa còn vì một nguyên nhân rất đáng phê phán khác là nhiều doanh nghiệp đã đem về đây sản phẩm tồn kho, hàng lỗi, cận date, quá date... về nông thôn. Hơn thế, lợi dụng khoảng cách về thông tin và nhận thức, nhiều doanh nghiệp làm ăn cẩu thả, gian dối, đã biến khách hàng nông thôn thành đối tượng lừa mị của mình…    Hiện nay, ở nước ta, dịch vụ này ở nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp triển khai nhằm quảng bá thương hiệu, kích cầu tiêu dùng. Nhằm kích cầu cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp không chỉ đưa hàng về tiêu thụ tại thị trường nông thôn mà còn tổ chức các hoạt động khuyến mại nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, thu hút và khuyến khích người tiêu dùng sử dụng hàng Việt Nam. Chẳng hạn Tổng công ty Thương mại Hà Nội có chương trình giảm giá 10% cho một số mặt hàng thực phẩm chế biến; tặng quà cho mỗi hóa đơn thanh toán trị giá từ 50.000 đ trở lên…Nhằm khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đưa hàng về nông thôn, Sở Công thương đã có văn bản đề nghị UBNDTP có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Theo đo, thành phố sẽ hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí vận chuyển hàng hóa với mức 500.000 đ/xe. Hỗ trợ kinh phí trong việc xây dựng điểm bán hàng cũng như kinh phí tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đưa về nông thôn. Đảm bảo an ninh trật tự an toàn tiền hàng và con người trong quá trình kinh doanh lưu động. - Cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước : Theo đánh giá tại đề án, hiện nay tất cả các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp nông thôn như cơ khí, hóa chất, năng lượng, dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, … đều chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản chế biến còn thấp, việc chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Khu vực công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn chưa tạo ra nhiều cơ hội việc làm để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn đã được tăng cường nhưng vẫn còn yếu kém, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Cụ thể, với ngành cơ khí sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ xây dựng, nâng cấp các cơ sở chuyên ngành chế tạo máy nông nghiệp, lựa chọn một số nhóm sản phẩm ưu tiên để hỗ trợ phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, từng bước xuất khẩu. đáp ứng nhu cầu trong nước tiến tới xuất khẩu. Những nhóm có tiềm năng tiêu thụ lớn sẽ có chính sách tiếp nhận chuyển giao công nghệ nước ngoài để thiết kế, chế tạo trong nước. Có chính sách kích cầu cho các sản phẩm dịch vụ công nghiệp, nông nghiệp nông thôn. Dịch vụ năng lượng điện được đưa đến tận các thôn, xóm bản, vùng sâu xa…ngày nay, điện thắp sáng đã đến với từng nhà, điện trong sinh hoạt, trong sản xuất tưới tiêu cho nông nghiệp, công nghiệp nông thôn. Việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp như tưới tiêu đáp ứng đầy đủ tiêu chí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, góp phần phát triển nông thôn. Trong sản xuất công nghiệp ở nông thôn, việc cung cấp năng lượng điện rất cần thiết. Hiện nay, ngành điện hoạt động chuyên nghiệp hơn, trong thời gian qua, hoạt động của các HTX kinh doanh và dịch vụ điện nông thôn đã góp phần không nhỏ trong việc quản lý, cung cấp điện và giải quyết việc làm cho một bộ phận dân cư. Song, hiện tại, phần lớn lưới điện ở đây đã bị xuống cấp nghiêm trọng, trong khi đó, vốn đầu tư của HTX lại bị thiếu nên ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp điện cho nhân dân. Vì vậy, để chủ trương của Chính phủ sớm đi vào cuộc sống thì hiện tại, ngoài sự nỗ lực của ngành Điện, còn rất cần sự đồng thuận và hỗ trợ tích cực từ các cấp chính quyền địa phương cũng như người dân, và nhất là bản thân các HTX. Do đó dịch vụ cung cấp năng lượng nhiên liệu, cấp thoát nước hiện nay đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về sản xuất cũng như tiêu dùng của người dân. Hạn chế ở đây chỉ là chưa đưa vào được những vùng sâu, vùng xa. - Giao thông vận tải, thuê mướn tài sản: Hiện nay dịch vụ về giao thông vận tải, thuê mướn tài sản rất đa dạng và phong phú, dịch vụ này đáp ứng tương đối một lượng lao động đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất hoặc thiếu vốn để đầu tư mua tài sản, phương tiện vận chuyển với nhiều hình thức như: dịch vụ vận tải hành khách công cộng thuận lợi từ trung tâm huyện về các trung tâm xã, tạo điều kiện đi lại thuận tiện cho người nông dân sống ở khu vực nông thôn, góp phần giảm phương tiện cơ giới cá nhân. Về giao thông làm đường giao thông nông thôn ở nước ta được các UBND tỉnh, huyện, xã và nhân dân quan tâm. Việc bê tông hóa đường sá kênh mương trên địa bàn nông thôn cả nước đã triển khai hầu hết. Nhiều gia đình tự nguyện hiến đất để mở rộng mặt đường liên thôn, liên xã. Nhờ hệ thống giao thông nông thôn, kinh tế giữa các vùng trong tỉnh phát triển đồng đều, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên nhiều xã có đường rất nhỏ, chật hẹp, việc đi lại khó khăn. Ví dụ về phát triển giao thông nông thôn ở tỉnh Ninh Bình: Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình Bùi Văn Thắng, Phó Trưởng ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở Ninh Bình, khẳng định: "Chúng tôi xác định GTNT chính là động lực để phát triển sản xuất, là nền tảng quan trọng xây dựng nông thôn mới". Tỉnh có hơn 900 km đường liên xã, trục xã với nền đường rộng từ năm đến sáu mét, mặt đường rộng từ ba đến năm mét. Từ nhiều nguồn vốn của Trung ương, tỉnh, huyện và nhân dân, Ninh Bình đã cứng hóa mặt đường hơn 827 km, trong đó, mặt đường bê-tông và trải nhựa là 484 km. Ngoài ra, toàn tỉnh có gần 1.300 km đường trục thôn, xóm với nền đường rộng từ 3 - 5m, mặt đường rộng 2,5 - 3 m được cứng hóa bằng bê-tông và trải nhựa gần 800 km. Liên tục từ năm 2001 đến nay, tổng nguồn kinh phí đầu tư cho hệ thống GTNT ở Ninh Bình đạt hơn 1.400 tỉ đồng. Trong đó, nguồn vốn Trung ương cấp gần 700 tỉ đồng, ngân sách tỉnh 105 tỉ đồng, số còn lại do nhân dân và các doanh nghiệp đóng góp. Tuy nhiên, hệ thống GTNT ở Ninh Bình còn bộc lộ nhiều bất cập, đó là mặt đường chưa bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật do Bộ Giao thông vận tải đề ra, mặt đường hẹp không đáp ứng nhu cầu sử dụng cơ giới hóa nông nghiệp và vận chuyển hàng hóa giữa các vùng ở khu vực nông thôn. Một số huyện lựa chọn phương án đầu tư chưa thích hợp, có nơi quá vững chắc, lại có chỗ quá giản đơn, xây dựng đường, cống một cách ồ ạt trong thời gian ngắn, khiến chất lượng không bảo đảm. Có nơi xã chỉ đạo chậm chưa nắm bắt kịp phong trào làm GTNT cho nên bỏ lỡ thời cơ. Cũng có xã làm quá nhiều đoạn đường trong khi khả năng kinh phí có hạn, dẫn tới tình trạng nợ đọng kéo dài. Không ít đoạn đường chỉ đạt tiêu chuẩn GTNT loại B cho nên phần lớn tuyến đường liên xã vừa làm xong đã xuất hiện biển báo "cấm xe tải trọng lớn" hoặc có ba-ri-e chắn đường, làm hạn chế lưu thông giữa các vùng. Bên cạnh đó, kinh phí đầu tư cho duy tu, bảo dưỡng đường GTNT chưa có cho nên chỉ sử dụng nhân công vào việc phát cây, thoát nước mặt đường, khơi thông cống rãnh là chủ yếu. Thiếu kinh phí đầu tư cho việc mua vật tư gồm xi-măng, nhựa đường để vá ổ gà, xây lát lại đường cũ, nhiều xe có tải trọng lớn đi vào, càng ngày đường càng xuống cấp. Giám đốc Sở Giao thông vận tải Ninh Bình Nguyễn Ngọc Thạch chia sẻ: "Mặc dù khó khăn, Ninh Bình cũng đề ra chỉ tiêu đến năm 2015 có 37 xã (tương đương với 35% số xã trong tỉnh) đạt tiêu chuẩn nông thôn mới về giao thông nông thôn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải. - Thông tin, liên lạc, tuyên truyền, quảng cáo, tư vấn: Thông tin, liên lạc, tuyên truyền,quảng cáo hay tư vấn rất cần ở nông thôn. Như chúng ta đã biết thì ở nông thôn dân đa số dân số làm nông nghiệp, nên dịch vụ tư vấn cho người dân về các kiến thức về dịch vụ nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp, giống mới, các phương pháp kỹ thuật gieo trồng hay chăn nuôi là rất cần thiết. Ví dụ về hướng dẫn kỹ thuật trong nông nghiệp: Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và PTNT), do nhu cầu lớn nên lượng thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu vào nước ta tăng nhanh. Nếu như năm 2008, giá trị nhập khẩu ước đạt 472 triệu USD thì năm 2010 tăng lên 537 triệu USD; riêng 7 tháng đầu năm 2011, con số này đạt ngưỡng 386 triệu USD, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường hiện có 3.008 tên thương mại các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật đã được đăng ký (trong đó thuốc trừ cỏ có 450 loại, thuốc trừ sâu 930 loại, thuốc trị bệnh thực vật 661 loại), tăng gấp 3 lần so với cách đây 10 năm. Từ chỗ chỉ có 4-5 hoạt chất và hỗn hợp hoạt chất được đăng ký từ năm 1996 thì đến năm 2011, Việt Nam đã có 800 hoạt chất và các hỗn hợp hoạt chất được đăng ký nhập khẩu. Con số này vượt xa số lượng các hoạt chất được đăng ký sử dụng tại Trung Quốc, nơi cung cấp hơn 90% lượng thuốc cho Việt Nam, hiện mới có 630 hoạt chất được đăng ký sử dụng.   Điều đáng nói là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách sẽ gây nguy hại tới môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản xuất. Xét ở góc độ ý thức người dân, những con số mà Cục Bảo vệ thực vật cung cấp khiến chúng ta lo ngại hơn về mức độ an toàn trên đồng ruộng và trên từng sản phẩm. Có đến 81,4% số người mua thuốc để ngay trong nhà, 16% để ngoài vườn và 7% để trong... chuồng lợn; 94% số hộ sử dụng thuốc không có hướng dẫn; chỉ có 20% hiểu biết về tính chất độc hại của thuốc; 70% số người pha chế và sử dụng thuốc không theo hướng dẫn; 50% dùng tay pha chế thuốc... Ở các nước có nền nông nghiệp phát triển, mỗi ngành nghề đều có hiệp hội, người nông dân khi muốn nuôi hay trồng con gì, cây gì đều có hiệp hội giúp đỡ định hướng nên trồng cây gì và nuôi con gì? đầu ra ra sao? Còn ở Việt Nam ta hiện chưa được như thế, mỗi người nông dân Việt Nam khi quyết định chọn nuôi con gì hay trồng cây gì? chủ yếu là chạy theo phong trào và thị trường hiện tại, cái gì có giá cao là nuôi và trồng. Điều này rất dễ dẫn đến thất bại nhất là đối với những người mới tham gia. Nông dân Việt Nam giống như người đi trong đêm tối mà không có người hướng đạo, tự phán đoán và định hướng để không đi sai đường, ai phán đoán và định hướng tốt sẽ có cơ hội thành công cao hơn. - Ngân hàng, tài chính, tín dụng. Ở nông thôn, dịch vụ ngân hàng tài chính, tín dụng ngày nay đang phát triển rất mạnh, do xu thế của đất nước và sự phát triển của nhân loại nên người dân ở nông thôn có ý thức làm giàu và thoát khỏi đói nghèo rất lớn. Muốn làm giàu hay thoát nghèo thì phải có phương pháp làm ăn và vốn. Thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư vào các hoạt động sản xuất, hoạt động kiếm tiền của người dân nông thôn là phổ biến. Do yêu cầu đó nên ngân hàng ở nông thôn phát triển khá mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện, Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp TW được hình thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn.doc
Tài liệu liên quan