Đề tài Vai trò của gia đình trong hoạt động giáo dục tri thức cho trẻ em (Qua khảo sát tại địa bàn xã Tân Lập - Huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La)

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được tăng cường, các chương trình y tế quốc gia được thực hiện nghiêm túc. Mạng lưới y tế từ xã đến bản được củng cố, việc sơ cứu, cấp cứu tại trạm xá xã được quan tâm, công tác vệ sinh phòng bệnh được chú trọng. Trong những năm qua toàn xã không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác truyền thông dân số và kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ. Số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đều tích cực thực hiện tốt các biện pháp tránh thai do vậy tỷ lệ tăng dân số của xã Tân Lập trong những năm qua giảm.

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của gia đình trong hoạt động giáo dục tri thức cho trẻ em (Qua khảo sát tại địa bàn xã Tân Lập - Huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào và bất cứ nền văn hoá nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi. Và sự biến đổi đó trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này làm cho ta nhận thấy sự bíên đổi đó không còn là mới mẻ, nó sẽ trở nên dường như chuyện thường ngày. Có nhiều quan niệm về sự biến đổi xã hội. Một cách hiểu rộng nhất, cho đó là một sự thay đổi so sánh với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước. Trong một phạm vi hẹp hơn, người ta cho rằng sự biến đổi xã hội được đề cập đến sự biến đổi về cấu trúc xã hội (hay tổ chức của xã hội nào đó) mà sự biến đổi này ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn thành viên của một xã hội. Còn những biến đổi chỉ tác động đến một số ít cá nhân thì ít được các nhà xã hội học quan tâm, chú ý. Biến đổi xã hội là một quá trình quá đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian. * Thao tác hoá khái niệm: + Khái niệm gia đình + Khái niệm giáo dục + Khái niệm vai trò. * Tổng quan những vấn đề nghiên cứu. Vấn đề xã hội chính là vấn đề khách quan tồn tại ngoài ý muốn con người. Theo Baker: vấn đề xã hội là những cái rắc rối mà chúng ta gặp trong cuộc sống. Trước sự tác động về biến đổi kinh tế, xã hội, con người phải không ngừng nâng cao tri thức, và giáo dục trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi gia đình. Ngoài sự giáo dục về nhân cách, lối sống, giáo dục tri thức cùng giữ vai trò quan trọng để hình thành một con người có ích cho xã hội. Và ngoài sự giáo dục của nhà trường, gia đình cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc giáo dục tri thức cho trẻ em. * Phương pháp nghiên cứu. - Phân tích tài liệu - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn + Phỏng vấn bảng hỏi + Phỏng vấn sâu - Giả thuyết nghiên cứu. - Trẻ em đến độ tuổi đi học được đi học đầy đủ. - Trẻ em được đầu tư về cơ sở vật chất để đi học (sách vở, quần áo, tiền học...) - Trẻ em được tạo điều kiện về thời gian cho việc học hành. - Trẻ em được quan tâm giáo dục toàn diện về thể chất và tri thức - Trẻ em được định hướng về trình độ học vấn (Trung học, cao đẳng, đại học...). - Bình đẳng nam nữ trong giáo dục. * Khung lý thuyết Vai trò của gia đình Giáo dục tri thức cho trẻ em Cơ sở vật chất giáo dục Định hướng bậc học Đầu tư tiền học Đầu tư thời gian VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU - Về kinh tế + Sản xuất nông nghiệp: Trong những năm qua, đảng bộ xã Tân Lập đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác khuyến nông, tuyên truyền trong cán bộ đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, tác dụng của việc thâm canh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất, chủ động phối hợp với trạm khuyến nông của huyện, mở các lớp tập huấn về kỹ thuật cho nông dân, trong nhiệm kỳ xã đã mở được 17 lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp cho 1720 lượt người, trong đó mở 8 lớp ở 8 điểm tái định cư cho 490 lượt người về công tác bảo vệ thực vật, chăm sóc lúa, ngô, chè; cải tạo ruộng đất; chăn nuôi bò sữa, cá, gà, lợn... để nhân dân biết kỹ thuật trồng, chăm sóc, và thâm canh đạt kết quả cao. Nhờ đó, từ một xã luôn thiếu đói về lương thực những năm trước đây nay đã có lương thực bán ra thị trường. + Sản xuất lâm nghiệp Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ, chính quyền các cấp, công tác giao đất, giao rừng đã được tiến hành rất sớm. Từ năm 2001 đến nay xã đã hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho 584 hộ, hàng năm đã triển khai hoàn thành kế hoạch trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán trong nhân dân theo chỉ tiêu được giao. + Thương mại, dịch vụ. Trong những năm qua, hoạt động thương mại, dịch vụ của xã Tân Lập phát triển mạnh, mạng lưới kinh doanh dịch vụ được mở rộng đến khắp các bản vùng sâu, vùng xa, góp phần cung ứng đầy đủ các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác phát triển đã tạo thêm công ăn việc, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần vào việc tăng thu ngân sách cho địa phương. - Về văn hoá - xã hội + Giáo dục Công tác giáo dục được đảng bộ, chính quyền và nhân dân quan tâm, duy trì, củng cố và phát triển. Năm 1997 xã đã được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học, xoá mù chữ. Năm 2003 được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và đến năm 2004 xã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Công tác xã hội hoá giáo dục được toàn thể nhân dân trong xã chăm lo. + Văn hoá thông tin Trong 5 năm qua cấp ủy, chính quyền xã Tân Lập tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao và tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn xã, triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt, học tập NQTW 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. + Y tế Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được tăng cường, các chương trình y tế quốc gia được thực hiện nghiêm túc. Mạng lưới y tế từ xã đến bản được củng cố, việc sơ cứu, cấp cứu tại trạm xá xã được quan tâm, công tác vệ sinh phòng bệnh được chú trọng. Trong những năm qua toàn xã không có dịch bệnh lớn xảy ra. Công tác truyền thông dân số và kế hoạch hoá gia đình có tiến bộ. Số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đều tích cực thực hiện tốt các biện pháp tránh thai do vậy tỷ lệ tăng dân số của xã Tân Lập trong những năm qua giảm. + Về công tác xã hội Trong 5 năm qua Tân Lập đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh mục tiêu xoá đói giảm nghèo, thông qua các dự án cho vay hỗ trợ việc làm, vay để đầu tư phát triển sản xuất. Thông qua các chương trình dự án và với sự giúp đỡ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể cộng với sự cố gắng của từng hộ gia đình năm 2005 toàn xã không còn hộ đói, tỉ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn 8,3% giảm 1,4% so với năm 2000. Công tác xã hội, công tác nhân thọ, từ thiện được quan tâm, đặc biệt là đối với các gia đình chính sách, các hộ nghèo, trẻ mồ côi, người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa... được thường xuyên quan tâm, giúp đỡ. Đời sống nhân dân các dân tộc trong xã từng bước được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Toàn xã có 1761 hộ gia đình được dùng điện lưới quốc gia, chiếm tỉ lệ 96% so với tổng số hộ trong xã. Có 1400 hộ được xem tivi chiếm tỉ lệ 78,1%. 20 hộ có điện thoại chiếm 1,1%. 775 hộ có đài catset, toàn bộ xã có 800 xe máy, 24 ô tô vận tải, 4 máy kéo, 150 máy cày tay. - Về chính trị: Đảng bộ đã tổ chức triển khai phổ biến, quán triệt học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cho đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức, quan điểm, lập trường tư tưởng, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Bộ đã xây dựng được quy chế làm việc và duy trì thực hiện theo đúng quy chế, duy trì thường xuyên chế độ sinh hoạt của BCH và chế độ sinh hoạt của chi bộ, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phát huy trí tuệ tập thể trong việc tham gia đóng góp xây dựng nghị quyết, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận các tổ chức chính trị, xã hội. Các bộ máy chính trị như HĐND, UBND, Mặt trận xã được củng cố, kiện toàn. Công tác quốc phòng, an ninh được chú trọng đẩy mạnh, giữ vững an ninh chính trị, củng cố quốc phòng. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội - chính trị ở địa bàn xã còn ở một số thiểu số, khuyết điểm. + Kinh tế của xã tuy có bước phát triển nhưng chưa vững chắc, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chậm, tư tưởng sản xuất theo kiểu quảng canh vẫn còn. Việc xây dựng mô hình, nhân điển hình sản xuất giỏi còn rất hạn chế. Việc phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm, chưa phát huy tiềm năng, lợi thế của xã. + Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là nhân dân vùng sâu, vùng xa trung tâm xã còn nhiều khó khăn. Tình trạng lén lút tái trồng cây thuốc phiện, tình trạng nghiện hút, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán các chất ma tuý còn tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định chính trị. Giáo dục có bước tiến bộ nhưng chưa bền vững, tình trạng học sinh bỏ học có chiều hướng gia tăng. Công tác quản lý, đặc biệt là quản lý nội trú còn yếu, chất lượng học tập của học sinh còn chưa cao. + Một số cấp uỷ cơ sở chưa coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, việc bổ sung, điều chỉnh quy chế làm việc của cấp uỷ cơ sở chưa kịp thời. Tinh thần trách nhiệm của một số đảng viên chưa cao, có đảng viên chưa thực sự gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, vi phạm phẩm chất, lối sống của người cán bộ đảng viên. Đấu tranh phê bình và tự phê bình 2 trong chi bộ chưa mạnh, năng lực của một số cán bộ, nhất là các hộ cơ sở chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của Đảng trong tình hình mới. Thực trạng bậc học của trẻ em. Nhìn chung, công tác giáo dục của xã Tân Lập được đảng bộ và chính quyền, nhân dân duy trì, củng cố và phát triển. Năm 1997 xã đã được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học, xoá mù chữ; Năm 2003 được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và đến năm 2004 xã được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Theo điều tra thực tế tại một số bản ở xã Tân Lập, các gia đình cũng cho con em mình đi học đúng độ tuổi. Tuy nhiên cũng có gia đình cho con em mình bỏ học. Ta lấy điển hình người con thứ nhất của các gia đình để nghiên cứu: Đã bỏ học Total Có Không Đánh giá mức sống của gia đình Rất nghèo 26 42 68 Nghèo 12 20 32 Trung bình 0 5 5 Khá 1 5 6 39 72 111 Bảng 1: Thống kê số trẻ em bỏ học Qua bảng điều tra ta thấy trong tổng số 111 gia đình được hỏi về người con đầu tiên trong độ tuổi đi học thì có 39 người đã bỏ học (chiếm 35,1%) và còn 72 người (chiếm 64,9%). Số liệu cho thấy thực trạng trẻ em bỏ học ở xã Tân Lập khá cao, đặc biệt ở các hộ nghèo. Về lý do bỏ học, ta thấy có cả lý do về chủ quan và khách quan. Theo điều tra thì các lý do chủ yếu sau: - Không đủ tiền cho con đi học: 71% số gia đình - Con học lực yếu: 8,9% - Ý muốn của con: 20% - Bổ sung vào lao động gia đình: 42% - Trường học quá xa nhà: 24,4%. - Phải trông em nhỏ: 6,7% Như vậy ta thấy có 4 trên 6 lý do chính của việc trẻ em bỏ học có xuất phát từ phía gia đình. Hầu hết trẻ em bỏ học ở trong các gia đình nghèo. Do không đủ tiền cho con đi học và do thiếu lao động trong gia đình. Theo điều tra về định hướng bậc học cho con em trong từng gia đình, ta có số liệu sau: Đối với con trai: Định hướng bậc học cao nhất Total Hết PTTH THCN Cao đẳng Đại học Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 35 6 1 18 60 Hỗn hợp 22 1 1 12 36 Phi nông nghiệp 8 0 0 11 19 Total 65 7 2 41 115 Đối với con gái: Định hướng bậc học cao nhất Total Hết PTTH THCN Cao đẳng Đại học Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 38 6 1 15 60 Hỗn hợp 13 0 1 10 24 Phi nông nghiệp 7 1 0 6 14 Total 58 7 2 31 98 Số liệu trên cho thấy theo điều tra 115 hộ gia đình có con trai thì đa số chỉ định hướng cho con em mình học hết PTTH (chiếm 56,5%). Số gia đình định hướng cho con em mình đi học cũng chiếm phần nhiều: 41/155 (chiếm 35,6%) số còn lại là THCN (6,0%) và cao đẳng (1,7%). Đối với các gia đình có con gái thì ta cũng có những số liệu tương tự: Điều tra 98 gia đình có con gái thì có 58 gia đình định hướng cho con em mình học hết PTTH (chiếm 59,2%) 7 gia đình định hướng cho con em mình học THCN (chiếm 7,1%), 2 gia đình định hướng cho học cao đẳng (chiếm 2,0%) và có 31 gia đình định hướng cho con em mình đi học đại học (chiếm 31,6%). Như vậy ta thấy đa số các gia đình đã có định hướng cho con em mình trong việc học hành. Và việc định hướng này phần nào nói lên vai trò của gia đình đối với việc giáo dục tri thức cho trẻ em. Và như ta thấy ở đây không có sự bất bình đẳng giữa con trai và con gái trong gia đình trong việc định hướng bậc học, đó là điều đáng mừng ở một xã nghèo thuần nông như xã Tân Lập. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục tri thức. Như đã nói ở trên, việc giáo dục tri thức cho trẻ em thì ngoài công tác giáo dục ở nhà trường, vai trò giáo dục của mỗi gia đình cũng góp một phần quan trọng. Theo điều tra về nhận thức của mỗi gia đình trong việc giáo dục tri thức thì đa số các gia đình có mức sống trung bình trở lên có nhận thức tốt hơn so với các gia đình nghèo. Theo phỏng vấn sâu chị Lò Thị Dung ở bản Nậm Tân - xã Tân Lập (một gia đình có mức sống khá) thì chị luôn muốn con của mình sẽ vào đại học và sau này có cuộc sống ổn định, làm công chức. Mặc dù con của chị chỉ mới học lớp 2 nhưng nhận thức về việc định hướng bậc học cho con đã có nhiều tiến bộ. Còn theo phỏng vấn sâu anh Vi Văn Toan ở hạn Hoa II (một gia đình nghèo) thì anh chỉ định hướng cho con mình học hết phổ thông rồi ở nhà làm nông nghiệp. Với định hướng như vậy, anh đã cho con cả nghỉ học từ năm lớp 9 để phụ giúp gia đình trong sản xuất nông nghiệp. Còn người con thứ 2 đang học lớp 4 thì anh vẫn cố gắng cho đi học tiếp (theo anh nói thì bởi vì nhà nước khong thu tiền học trong bậc tiểu học). Như vậy ta thấy có sự định hướng khác nhau ở mỗi hoàn cảnh gia đình khác nhau. Hành động của gia đình trong việc giáo dục tri thức. Theo số liệu điều tra bằng bảng hỏi thì hầu hết các thành viên trong gia đình đều dành thời gian trong ngày để giáo dục con cái: Đối với người chồng: Giáo dục con cái Total Có Không Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 123 4 127 Hỗn hợp 55 0 55 Phi nông nghiệp 31 2 33 Total 209 6 215 Như vậy theo điều tra 215 người đàn ông trong gia đình thì 209 người trả lời là có dành thời gian cho việc giáo dục con cái (chiếm 97,2%). Đối với người vợ. Giáo dục con cái Total Có Không Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 115 6 121 Hỗn hợp 44 3 52 Phi nông nghiệp 25 3 28 Total 189 12 201 Theo điều tra 201 người phụ nữ trong gia đình thì có 189 người dành thời gian để giáo dục con cái (chiếm 94%) Như vậy mỗi thành viên trong gia đình đều có ý thức giáo dục con cái. Ngoài thời gian đi làm, mỗi ngày họ thường dành khoảng 2 tiếng đồng hồ cho việc giáo dục con cái (theo số liệu điều tra). Tuy nhiên việc giáo dục tri thức cho trẻ em ở trong gia đình lại cho chỉ số rất thấp. Điển hình trong việc kèm con học: Kèm con học Total Có Không Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 28 130 153 Hỗn hợp 8 60 68 Phi nông nghiệp 1 41 42 Total 12 231 263 Ta thấy ở đây theo điều tra 263 hộ gia đình thì chỉ có 32 hộ có kèm cặp con em mình trong việc học hành (chiếm 12,16%). Như vậy việc thu nhận kiến thức của trẻ em hầu hết là ở trường học. Gia đình chỉ có vai trò định hướng, đầu tư và giáo dục nhân cách cho trẻ em. Như ta đã biết, Tân Lập là một xã còn nghèo nhưng công tác giáo dục và xã hội hoá giáo dục được toàn thể nhân dân trong xã chăm lo. Từ năm học 2002 đến nay, toàn xã đã huy động được 257.116.000 đồng cho việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp học. Do điều kiện một số nơi thiếu giáo viên, xã đã huy động nhân dân đóng góp được 25860000đồng để trả tiền công cho giáo viên dạy học. Theo quan sát của chúng tôi, mỗi ban đều có nhà văn hoá và đây là nơi học tập chính cho trẻ em trong bản. Tuy nhiên, điều kiện vật chất như sách vở, đồ dùng học tập của trẻ em theo như chúng tôi quan sát thì còn thiếu rất nhiều. Khi học tập thì hầu hết các em phải dùng chung sách giáo khoa. Khi được hỏi về điều kiện vật chất cho việc học của các em, chúng tôi thu được nhũng số liệu sau: Sách vở, đồ dùng học tập khi tới trường Total Đủ Tương đối đủ Thiếu Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 37 46 5 88 Hỗn hợp 17 15 8 40 Phi nông nghiệp 8 16 2 26 Total 62 77 15 154 Như vậy ta có thể thấy đa số gia đình chỉ lo tương đối đầy đủ đồ dùng học tập cho các em. Qua khảo sát 154 gia đình thì có 62 gia đình lo đầy đủ dụng cụ học tập cho các em (chiếm 40,2%). Có 77 gia đình chỉ lo tương đối đầy đủ dụng cụ học tập cho các em (chiếm 50%) còn lại 15 gia đình không lo đủ dụng cụ học tập cho các em (chiếm 9,8%). Ở nước ta, bậc tiểu học được nhà nước hỗ trợ miễn phí tiền học. Còn bậc trung học trở lên thì phải đóng khoảng 100.000đồng cho một năm học. Tuy nhiên một số loại tiền như xây dựng trường lớp, quỹ lớp, học thêm, mua sách vở đồ dùng học tập cũng chiếm một khoản lớn trong các gia đình. Theo số liệu điều tra, một gia đình có một đứa con đi học thì phải đóng góp khoảng 500000 một năm. Nếu gia đình đông con trong độ tuổi đi học thì con số này phải nhân lên nhiều lần. Đối với các gia đình nghèo thì việc lo cho con cái đi học quả thật là rất vất vả. Ngoài thời gian đi học, các em còn phải phụ giúp gia đình trong các việc nhà như nấu cơm, trông em nhỏ. Nếu lớn hơn các em phải đóng góp sức lao động trong việc làm nương rẫy. Như vậy thời gian học bài và làm bài ở nhà của các em rất ít. Theo điều tra thì đa số các em chỉ dành khoảng 2 tiếng học bài và làm bài vào buổi tối. Thời gian đó có lẽ là không đủ để các em ôn lại những kiến thức đã học. Vì thế theo quan sát của chúng tôi thì các em bị hổng kiến thức rất nhiều. Như chúng tôi quan sát thì 98% các hộ gia đình trong địa bàn xã có tivi. Và như chúng ta đã biết, các chương trình tivi luôn có phần giáo dục. Nhưng theo chúng tôi nhận thấy thì rất ít gia đình quan tâm đến mảng giáo dục trên tivi. Total Có Không Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 5 143 148 Hỗn hợp 22 63 65 Phi nông nghiệp 2 39 41 9 245 254 Như ta thấy theo điều tra 251 hộ gia đình thì chỉ có 9 gia đình quan tâm đến các chương trình giáo dục (chiếm 3,5%) còn lại là các gia đình chỉ quan tâm đến các chương trình khác như thời sự, giải trí, phim ảnh... Như vậy càng khẳng định thêm là hầu hết các gia đình giao phó việc giáo dục tri thức cho nhà trường, vì nếu họ quan tâm đến các chương trình giáo dục, họ cũng có thêm nhiều kiến thức để dạy bảo con cái. Việc này cũng có ảnh hưởng tới sức học của trẻ em trong xã. Theo phỏng vấn sâu về trình độ của một số người lớn ở trong xã thì thấy rằng đa số họ chỉ qua những lớp xoá mù chữ, thậm chí một số người còn chưa biết chữ, tiếng Kinh chỉ vừa đủ giao tiếp. Do đó việc kèm cặp con cái học ở nhà đối với họ là rất khó khăn. Hơn nữa, chương trình giáo dục hiện nay rất đa dạng, được cải biên và nâng cao rất nhiều, do đó kể cả những người đã từng đi học cũng rất khó kèm cặp con em mình học với những chương trình mới này. Từ đó càng khẳng định thêm rằng vai trò của gia đình đối với việc giáo dục tri thức cho trẻ em chỉ ở mức đầu tư thời gian, tiền bạc, cơ sở vật chất cho việc học tập của trẻ. Hầu hết các gia đình trên địa bàn xã Tân Lập đều là các gia đình thuần nông. Vậy khi giáo dục cho con em mình, họ quan tâm đến vấn đề gì? Vấn đề quan tâm nhất về giáo dục Total Tri thức kiến thức Lao động Giới tính SKSS Đạo đức ứng xử Khác Nghề nghiệp của hộ gia đình Thuần nông 64 17 1 14 5 101 Hỗn hợp 33 4 0 5 0 42 Phi nông nghiệp 25 5 0 0 0 30 122 26 1 19 5 173 Như vậy ta có thể thấy đa số các gia đình quan tâm đến trình độ, tri thức, kiến thức của con em mình. Theo điều tra 173 hộ gia đình có trẻ em đang ở độ tuổi đi học thì có 122 hộ trả lời là quan tâm đến tri thức, kiến thức của con em mình (chiếm 70,5%). Con số này rất đáng mừng vì khi họ quan tâm đến vấn đề tri thức, kiến thức thì họ sẽ có định hướng tốt hơn cho con em mình. Ngoài tri thức ra thì có 26 người quan tâm tới vấn đề lao động của trẻ em (chiếm 15%) nghĩa là họ chỉ quan tâm trẻ em được giáo dục sẽ lao động như thế nào con số này tập trung nhiều ở các hộ thuần nông. Về giới tính và sức khoẻ sinh sản thì có rất ít người quan tâm. Theo điều tra 173 hộ gia đình thì chỉ có 1 hộ quan tâm đến vấn đề giới tính và sức khoẻ sinh sản (chiếm 0,6%). Con số này cũng rất đáng lo ngại. Theo chúng tôi quan sát thì độ tuổi lập gia đình ở đây rất sớm khoảng 15 - 18 tuổi là đã lấy chồng, lấy vợ và sinh con. Vì theo quan niệm của họ thì lấy vợ về để có thêm lao động trong gia đình. Về đạo đức, ứng xử thì có 19 người quan tâm trong giáo dục con em mình (chiếm 11%). Vấn đề đạo đức là vấn đề rất quan trọng trong giáo dục nhưng theo điều tra thì cũng chỉ có 7 người quan tâm. Ngoài ra còn có 5 người quan tâm đến các vấn đề khác (chiếm 2,9%). Một vấn đề rất ảnh hưởng tới việc giáo dục trẻ em ở xã Tân Lập. Đó là mối quan hệ qua lại giữa các hộ gia đình tái định cư và các hộ gia đình bản địa đã sinh sống ở đây từ lâu. Theo phỏng vấn sâu các hộ gia đình ở đây thì giữa dân tái định cư và dân bản địa ở đây có mâu thuẫn nặng nề, mà trẻ em tái định và trẻ em bản địa lại học cùng trường, cùng lớp nên hay xảy ra đánh nhau. Ngoài ra các em ở xa trường học cũng rất hay bị chặn đánh ở dọc đường đi học. Do đó các em ở các hộ tái định cư luôn có tâm lý sợ đi học và rất dễ bỏ học giữa chừng. Hơn nữa do ở địa bàn miền núi nên đường đi lại rất khó khăn. Có nhiều chặng đường rất nhiều đèo, dốc, vắng vẻ, có nhiều nơi trẻ em phải vượt suối để đi học và còn rất nhiều khó khăn khách quan khác. Vì vậy các gia đình lại có vai trò động viên, khuyến khích con em mình vượt qua khó khăn để tiếp tục đi học. Theo phỏng vấn sâu ông trưởng bản Hoa II thì chính con gái của ông khi đi học đã từng bị ném đá làm bị thương ở đầu nhưng ông vẫn động viên con tiếp tục đi học. Đây là một điển hình, gương mẫu trong việc chăm lo cho giáo dục tri thức cho trẻ em. Nhiều gia đình còn dành nhiều thời gian đưa đón con em mình đi học. Đó cũng là sự động viên cho trẻ em tiếp tục đến trường. Tuy nhiên, cũng vì những lý do trên, một số gia đình đã chiều ý con, cho con bỏ học giữa chừng. Các gia đình này chiếm khoảng 35% tổng số các gia đình có con em đang ở độ tuổi đi học trong toàn xã. Như gia đình anh Lò Văn Bản ở bản Nậm Tân. Theo phỏng vấn sâu thì anh có 2 đứa con trai đều bỏ học giữa chừng vì hay đánh nhau với bạn trong lớp. Theo anh thì không đi học thì ở nhà đi nương, đi rẫy càng kiếm được nhiều tiền. Như đã nói ở trên, việc giáo dục ở xã Tân Lập không có sự phân biệt nam và nữ. Trẻ em trai và gái ở đây đều được đi học giống nhau, và sự quan tâm của gia đình tới các em cũng không có gì phân biệt. Theo điều tra sự quan tâm của gia đình đối với các vấn đề giáo dục giữa trẻ em nam và nữ ở xã Tân Lập cho thấy. Vấn đề quan tâm nhất về giáo dục Total Tri thức Kiến thức Pháp luật Giới tính SKSS Đạo đức Giới tính Nữ 65 5 2 0 7 79 Nam 108 9 0 1 13 131 Total 173 14 2 1 20 210 Ta thấy rằng số trẻ em nam và nữ được quan tâm ở đây tuy có chênh lệch nhưng cũng không đáng kể. Theo như phân tích định hướng về học tập cho con trai và con gái ở trên thì ta thấy dường như không có sự chênh lệch. Và theo như chúng tôi quan sát trên địa bàn xã thì sự giáo dục của các em trai và gái trong các gia đình ở đây rất đồng đều. Rất ít thấy sự bất bình đẳng nam nữ trong giáo dục. Khi được hỏi về việc lo cho con trai và con gái trong gia đình, người dân ở đây còn bảo rằng vật chất để lo cho một người con gái trong gia đình người dân tộc Tháo còn nhiều hơn lo cho một người con trai. Có lẽ đây là tục lệ lâu đời của người Thái. Với những con số trên ta thấy rất đáng mừng, vì đối với những dân tộc ở các vùng miền xa xôi của tổ quốc, việc trọng nam khinh nữ ở nhiều nơi còn rất nặng nề. Tuy nhiên ở xã Tân Lập, các gia đình đã có những suy nghĩ tiến bộ và ít thấy có sự bất bình đẳng trong cuộc sống nói chung và trong giáo dục nói riêng. Đây là điều rất đáng khích lệ. Có lẽ còn nhiều điều nói lên vai trò của các gia đình trong địa bàn xã Tân Lập đối với việc giáo dục tri thức cho trẻ em. Nhưng vì thời gian khảo sát tại địa bàn không cho phép để chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu cụ thể. Tôi chỉ đưa ra một số nội dung chính nhằm làm sáng tỏ phần nào những giả thuyết của mình. Và trên đây là những số liệu khảo sát dựa trên các phương pháp nghiên cứu xã hội học. Trong quá trình điều tra vẫn còn nhiều bất cập chưa được làm sáng tỏ. Mong các thầy cô thông cảm. KẾT LUẬN Giáo dục luôn là sự quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa của tổ quốc, giáo dục tuy có gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ có những đường lối, chính sách của Đảng, việc giáo dục ở các vùng này đã có sự phát triển vượt bậc so với những năm trước đây.Tầm quan trọng của giáo dục đã được phổ biến rộng rãi trong từng gia đình, giúp họ cho mọi người ý thức được sự cần thiết của tri thức trong thời đại mới. Từ đó mỗi thành viên trong mỗi gia đình sẽ có những sự giúp đỡ cụ thể trong việc học hành của con em mình. Đối với các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các xã nghèo, thuần nông như xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, việc giáo dục còn gặp nhiều khó khăn thì việc phổ biến cho người dân về vai trò của từng thành viên trong gia đình đối với việc giáo dục cho con em họ cũng là một chính sách quan trọng. Theo khảo sát trên địa bàn xã thì cho thấy xã đã hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Trẻ em ở trong độ tuổi đi học được đến lớp đày đủ. Việc xã hội hoá giáo dục được toàn thể nhân dân trong xã chăm lo. Tuy nhiên trong địa bàn xã vẫn còn nhiều trẻ em bỏ học giữa chừng vì các lý do khác nhau. Vì vậy chưa thể nói rằng toàn bộ trẻ em trong địa bàn xã được đi học đầy đủ. Đây là vấn đền cần tới các cơ quan quản lý giáo dục giải quyết. Việc đầu tư cho giáo dục cho trẻ em như sách vở, quần áo, tiền học... cũng được các gia đình quan tâm nhưng phần nhiều chỉ là tương đối đủ. Số gia đình l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1941.doc
Tài liệu liên quan