Đề tài Vai trò của gia đình trong việc giáo dục hình thành nhân cách trẻ em trong gia đình

Gia đình là môi trường quan trọng trong việc dạy các giá trị đạo đức truyền thống

cho các thế hệ, có ý nghĩa trong việc xây dựng cái gốc của nhân cách con ng ười.

Vìthế các gia đình Việt Nam luôn coi trọng việc dạy đạo đức cho con em, coi đó

là việc làm, thường xuyên. Những giá trị này được thể hiện đậm nét trong lối sống,

trong nề nếp gia đình và truyền thống dòng họ. Vì vậy, có tới 73.3% các gia đình

ủng hộ việc cần phải giáo dục trẻ em tính lễ phép và 67.8% gia đình cho rằng cần

phải giáo dục trẻ em tính trung thực trong các quan hệ x ã hội.

pdf29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5202 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của gia đình trong việc giáo dục hình thành nhân cách trẻ em trong gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g muốn con cái hiếu thảo mong muốn con cái khiêm tốn mong muốn con cái biết tôn trọng mong muốn con cái biết quan tâm Đức tính Đức tính II/ QUAN NIỆM CỦA GIA ĐÌNH VỀ SỰ GIÁO DỤC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH TRẺ EM Kết quả nghiên cứu của một số đề tài nghiên cứu khoa học gấn đây về gia đình cho biết phần lớn các gia đình đều đặt kỳ vọng vào sự trưởng thành sau này của con cái. Ví dụ két quả nghiên cứu khoa học của đề tài “ Vị trí, vai trò của gia đình trong sự nghiệp bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em” do UBBVCSTEVN tiến hành trong hai năm 1999-2000 cho biết, có đến 86,2% các bậc cha mẹ mong muốn con cái có những đức tính giản dị, tiết kiệm, 74,6% mong muốn con cái hiếu thảo, 69,3% mong muốn con cái khiêm tốn, 78,6% mong muốn con cái biết tôn trọng mọi người, 82,1% mong muốn con cái biết quan tâm đến ngưòi khác. Thậm chí trong các gia đình có trẻ em hư thì gia đình cũng đạt rất nhiều kỳ vọng tốt đẹp ở con cái. Hình 1: Mong muốn của cha mẹ với con cái Kết quả khảo sát 211 gia đình có trẻ em hư độ tuổi từ 11 đến < 16 tuổi tại 09 phường thuộc 06 quận nội thành Hà Nội vào thời điểm tháng 3-4 nắm 2001 thấy nổi bật có một số kỳ vọng của gia đình đối với con cái với tỷ lệ rất cao như: học hành có bằng cấp cao, sống trung thực, lương thiện; trở thành người hữu ích cho xã hội; hiếu thảo; có nghề nghiêp làm ăn. Trong khi đó có một số kỳ vọng như: sự giàu có; quyền hành; sự nổi tiếng, những đièu mà ở một số người đã trở thành khát vọng cháy bỏng, lại có tỷ lệ rất thấp. Đa số các gia đình quan niệm giáo dục con cái hướng về truyền thống và cội nguồn, hướng về các giá trị xã hội tốt đẹp dã được xã hội thừa nhận và hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Từ việc tìm hiểu kỳ vòng đối với con cái cũng như quan niệm trong giáo dục con cái của các nhóm gia đình đã cho thấy:: Thứ nhất, Đa số các gia đình đều đặt kỳ vọng vào con cái ở những mong muốn rất nhân văn, nhân đạo: mong muốn con cái sau này học hành đến nơi đến chốn, có bằng cấp cáo, có nghề nghiệp, sống lương thiện. có ích cho xã hội và hiếu thảo với bố mẹ ông bà. Điều đó phản ánh đúng bản chất tâm lý con người Việt Nam và truyền thống văn hóa của các gia đình Việt Nam Thứ hai. Những kỳ vọng đối vói con cái về địa vị xã hội, sự nổi tiếng cũng như về sự giáu có và quyền bình đẳng không phải là những kỳ vòng thiêt tha trên hết đối với đa số các gia đình Thứ ba. Quan niệm của gia đình đối với việc giáo dục con cái đã có xu hướng rõ nét. Chỉ giữ lại những truyền thống có giá trị vình cửu như đạo hiếu, đạo nghĩa, không có chú ý nệ cổ ( duy trì gia giáo, gia phong của gia đình, dòng họ, tô tiên). Có xu hướng cải biến rõ rệt. Vừa theo truyền thống, vừa bổ sung thêm những nội dung tiến bộ trong việc giáo dục con cái. Thứ tư. Những kỳ vọng đối với con cái và những quan niệm về giáo dục con cái của các nhóm gia đình thể hiện sự nhận thức tích cực trong việc định hướng giáo dục trẻ em. Đây là những điểm cần khai thác động viên khích lệ để các gia đình có trách nhiệm hơn, phát huy tích cực hơn vai trò của mình trong việc giáo dục, xã hội hoá trẻ em trong gia đình. Theo nguyên cứu : “ Vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi THCS ở Hà Nội hiện nay “của TS- Nguyễn Thị Tố Quyên – Hv Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh cho thấy : Nhìn chung chung hầu hết các bậc cha mẹ đã ý thức được sự ảnh hưởng của lối sống của mình tới con cái và quan tâm đến thái độ của con đối với những ứng xử hành vi riêng của bản thân. Qua khảo sát cho thấy , thời gian mà cha mẹ giành đề giáo dục cho con phần lớn là dưới 1h/ngày ( chiếm 44.5 %) số gia đình và giáo dục con với thời lượng khoang 3h / ngày chỉ có 3.5% . Như vậy hiện nay cha mẹ không có nhiều thời gian để dạy con học rèn rũa giáo dục con . Như vậy với thời lượng là dưới 1h thì liệu cha mẹ có quan tâm được đến những giáo dục đạo đức trí thể , mĩ , kĩ cho con hay không? Thời lượng giáo dục 2-3h / ngày cũng chỉ rất nhỏ ( chỉ 10.5 %). Bận rộn với công việc với những mối quan hệ gắng sức xây dựng cơ sở vật chất nhưng lại không dành thời gian phù hợp với những chức năng xã hội hóa gia đình giảng giải , 66.3 nêu gương , 47khen thưởng , 38.8 rèn luyện thói quen , 38 trách phạt , 22.5 giảng giải nêu gương khen thưởng rèn luyện thói quen trách phạt Hình 2: Hình thức giáo dục của cha mẹ Số liệu phân tích cho thấy giảng giải (66.3%) nêu gương ( 47%) là 2 phương pháo được các cha mẹ cho là sử dụng nhiều nhất . Bên cạnh đó . 38.8 % cha mẹ thường xuyên khen thưởng , 38 % dung phương pháp rèn luyện thói quen 22.5 % cha mẹ dung phương pháp trách phạt . Như vậy cha mẹ dung phương pháp giảng giải là nhiều nhất Khảo sát điều tra hơn 1000 gia đình có con đang học tiểu học và trung cơ sở đã có 7,2% cha mẹ quan niệm việc giáo dục con cái là do nhà trường hoàn toàn đảm nhiệm, gia đình chỉ chịu một phần nhỏ. Nhưng trên thực tế, đã có tới 25,5% các bậc cha mẹ thừa nhận đã khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường1. Thả nổi việc giáo dục con, đến khi con cái mắc khuyết điểm lại phạm vào tội che dấu khuyết điểm của con. Khảo sát trên cũng cho thấy, khi nhà trường yêu cầu các bậc cha mẹ đánh giá xếp loại 210 học sinh là con cái họ mà nhà trường đánh giá hạnh kiểm chưa đạt yêu cầu, thì đã có tới 63,4% số học sinh thuộc danh sách trên được bố mẹ các em nâng nên loại hạnh kiểm khá và tốt. Các bậc cha mẹ đã không dám nói thật khuyết điểm của các em với nhà trường, sợ ảnh hưởng đến kết quả học tập của con em mình!2. Bỏ mặc, khoán trắng cho nhà trường, đến khi con cái mắc lỗi lầm thì bố mẹ lại rơi vào tâm trạng hẫng hụt, phàn nàn về sự bất lực của mình đã không dạy bảo được con. Hậu quả tất yếu là nhiều bậc cha mẹ đã nổi cáu, dẫn đến đánh đập trẻ, vi phạm quyền trẻ em. Nhiều bậc cha mẹ đã bộc lộ quan điểm của mình, cho rằng không dùng roi vọt thì không giáo dục được trẻ. Phổ biến, các bậc cha mẹ cũng thừa nhận là không hiểu được, không nắm được các phương pháp giáo dục trẻ. CHƯƠNG 3 NỘI DUNG HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CHO TRẺ EM I. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC 1. Giáo dục ứng xử: Theo cuộc khảo sát 800 mẫu với cha mẹ và con cái trong huyện Từ Liêm – Hà Nội của TS – Nguyễn Thị Tố Quyên – HV Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết : Hầu hết các cha mẹ đều hiểu rõ về nội dung giáo dục cách ứng xử mà họ truyền tải., Những tỷ lệ chọn cách nội dung giáo dục đều rất cao. Sự lễ phép chiếm nhiều ý kiến nhất (94%) . Cha mẹ nào cũng muốn con cái mình ngoan ngoãn , lễ phép với người lớn biết giúp đỡ ông bà cha mẹ . Điều này phản ánh đúng với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. Trong gia đình Việt Nam tính tôn ti trật tự luôn được đề cao và là một nội dung rất quan trọng . Một trong những tiêu chuẩn của người con ngoan là biết lễ phép ,kính trọng với người trên . Trong xã hội hiện đại có rất nhiều vấn đề kỉ cương , phép nước được tôn trọng và giáo dục phép tắc . lễ nghĩa với trẻ em là hướng tới giáo dục công dân biêt tuân thủ pháp luật trong tương lai Từ một vài dữ liệu thu thập được tại 3 địa phương (Thái Bình, Hà Tây, Hà Nội), phần phân tích dưới đây đề cập đến sự tham gia của ông bà vào quá trình giáo dục con cháu, cách thức, lĩnh vực mà họ thường làm cũng như thái độ của con cái trưởng thành đối với việc ông bà dạy dỗ các con của họ. Tất cả các thông tin này đều thể hiện qua sự đánh giá của những người con đã trưởng thành. Với mẫu chọn trong nghiên cứu này, số gia đình 3 thế hệ cùng chung sống nói chung là 37,6% với tỉ lệ ở khu vực nông thôn cao hơn so đô thị. Nói cách khác, gần 1/2 số gia đình sống ở khu vực nông thôn và hơn 1/3 số gia đình sống ở khu vực đô thị là các gia đình từ 3 thế hệ trở lên. Như vậy, cứ 10 gia đình thì ít nhất trong 3 gia đình, ông bà có thể tham gia trực tiếp vào quá trình nuôi dạy con cháu nếu họ muốn. Đó là một tỉ lệ rất đáng kể. Do đặc điểm của gia đình có nhiều thế hệ, ông bà có nhiều cách thức tham gia vào quá trình giáo dục con cháu theo đánh giá của các con trưởng thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cách thức giáo dục các cháu mà ông bà hay sử dụng nhiều nhất là mang tính chất “tư vấn”, khuyên bảo cha mẹ cách dạy dỗ con trẻ (92,8%). Trực tiếp dạy dỗ các cháu cũng là cách rất hay được sử dụng (77%). Hai cách thức được dùng nhiều nhất trên đây khẳng định vai trò truyền thống, quan trọng và trực tiếp của ông bà trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Phù hợp với cách thức chủ đạo của ông là “khuyên bảo”, “tư vấn” (chứ không đưa ra quyết định giống như cha mẹ) nên dù có thể không đồng ý với cách dạy dỗ, nhưng hình thức “không can thiệp” chiếm tỉ lệ đáng kể (20.4%). Nhưng điều đó không có nghĩa là “không quan tâm”. Ít quan tâm, để tuỳ cha mẹ giáo dục các cháu là cách được lựa chọn ít thường xuyên nhất (9.9%). Điều này khẳng định một lần nữa, hầu hết những người được hỏi đều thống nhất về vai trò tích cực, không thể thiếu của ông bà trong việc giáo dục con trẻ: “Khi ông bà còn sống thì ông bà cũng hay bảo các cháu khi đi học về thì có việc gì giúp đỡ, đỡ đần bố mẹ. Ông bà cũng luôn luôn khuyên bảo các cháu…” (Đ.T.M, nữ, tỉnh Thái Bình). Khía cạnh mà ông bà quan tâm dạy dỗ các cháu nhiều hơn cả là cách ứng xử với mọi người (91.6%), đứng thứ hai là chuyện học hành (80.3%) và vấn đề đáng được quan tâm thứ ba là cách đi đứng, ăn mặc (65.3%). Điều này đã phản ánh phần nào quan niệm truyền thống trong giáo dục con trẻ “tiên học lễ, hậu học văn”. Hai trong số 3 lĩnh vực mà ông bà quan tâm liên quan đến dạy làm người, còn lĩnh vực thứ ba liên quan đến học hành. Hình 3: So sánh giáo dục của ông bà với con cháu của thành thị và nông thôn Khi được hỏi thái độ về việc giáo dục con cháu của ông bà, có 60% những người được hỏi hoàn toàn đồng ý với cách dạy dỗ đó. Tỉ lệ này ở nông thôn lớn gần gấp hai ở thành phố (41.1% so với 21.1%). Số người đồng ý một phần chiếm một tỉ lệ khá lớn tới 38%. Điều này gián tiếp phản ánh sự khác biệt về cách thức nuôi dạy con trẻ của 2 thế hệ giữa ông bà và cha mẹ như đã có dịp đề cập ở trên. Dựa vào những kết quả sơ bộ vừa trình bày có thể hình dung ra một số yếu tố tác động tới việc tham gia giáo dục con trẻ của ông bà ở Việt Nam nói chung. Đó là xu thế gia đình hạt nhân ngày càng tăng, dù trong mẫu chọn của nghiên cứu này con số đó mới là 57.8% với tỉ lệ ở thành phố cao hơn ở nông thôn. Có thể dự báo rằng trong quá trình đô thị hoá và hiện đại hoá, con số này sẽ có xu hướng tăng. Khi tỉ lệ gia đình 3 thế hệ trở lên ngày càng thu hẹp thì sự tham gia của ông bà vào việc trực tiếp giáo dục con cháu sẽ giảm (ít nhất là về mặt thời gian và cơ Thành thị, 41.1, 66% Nông thôn, 21.1, 34% Thành thị Nông thôn hội tiếp xúc trực tiếp). Lúc đó gia đình sẽ phải tìm cách thức thay thế khác như tiếp xúc gián tiếp hay thông qua những buổi gặp mặt hàng tuần, hàng tháng và nhiều hình thức khác. Tính chất của cách ứng xử thể hiện sự hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, theo nghĩa truyền thống, cũng có thể sẽ thay đổi. Thứ hai, quá trình hiện đại hoá, hội nhập cũng có thể tạo khoảng cách lớn hơn giữa các thế hệ, sự ảnh hưởng của ông bà với con cháu cũng có thể giảm. Làm sao phát triển mà vẫn duy trì được mối quan hệ tốt giữa ông bà - cha mẹ - con cái, vì lợi ích và sức khỏe tâm lý của cả người già và người trẻ, để ông bà vẫn đóng vai trò tích cực trong quá trình xã hội hoá trẻ em theo hướng lành mạnh sẽ là một thách thức đối với các gia đình Việt Nam. 2.Giáo dục lòng yêu nước và lòng nhân ái, lòng hiếu thảo : 2.1 Giáo dục lòng yêu nước : Theo nguyên cứu của TS – Nguyễn Thị Tố Quyên: Tỷ lệ phần trăm các gia đình giáo dục con mình về những vấn đề nội dung của lòng yêu nước là rất lớn. Nói đến yêu nước là nói đến tự hào dân tộc , yêu dân tộc thể hiện qua yêu người thân , bạn bè , thầy cô , trường lớp . Tất cả những biểu hiện qua hành động cụ thể bằng những hành động cụ thể qua các chăm sóc gia đình, ông bà cha mẹ khi ốm đau, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn , kình trọng thầy cô, bảo vệ môi trường và giữ gìn của công….Giáo dục con cái yêu thương những người xung quanh (78.5%) Yêu thương trường lớp (78% ) Giáo dục tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo (73.5 %). giáo dục yêu thương những người thân trong gia đình ( 71% ) Hình 4: Giáo dục lòng yêu nước của cha mẹ yêu thương những người xung quanh , 78.5, 26% Yêu thương trường lớp , 78, 26% dục tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, 73.5, 24% giáo dục yêu thương những người thân trong gia đình, 71, 24% yêu thương những người xung quanh Yêu thương trường lớp dục tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo giáo dục yêu thương những người thân trong gia đình Yêu thương trường lớp , bạn bè thầy cô cũng là lòng yêu nước. Việc giáo dục cha mẹ ở đấy cũng là cực kì quan trọng Gia đình là môi trường quan trọng trong việc dạy các giá trị đạo đức truyền thống cho các thế hệ, có ý nghĩa trong việc xây dựng cái gốc của nhân cách con người. Vì thế các gia đình Việt Nam luôn coi trọng việc dạy đạo đức cho con em, coi đó là việc làm, thường xuyên. Những giá trị này được thể hiện đậm nét trong lối sống, trong nề nếp gia đình và truyền thống dòng họ. Vì vậy, có tới 73.3% các gia đình ủng hộ việc cần phải giáo dục trẻ em tính lễ phép và 67.8% gia đình cho rằng cần phải giáo dục trẻ em tính trung thực trong các quan hệ xã hội. 2.2 Lòng hiếu thảo cũng là một trong những nội dung được quan tâm giáo dục nhiều nhất trong các gia đình hiện nay. Đó là một nguyên tắc, một quy chuẩn đạo đức của con người. Theo điều tra xã hội học có tới 94.6% ý kiến người được hỏi cho rằng họ được hấp thụ lòng hiếu thảo từ gia đình qua ông bà, cha mẹ; 88.5% số người được hỏi cho rằng cần phải dạy dỗ lòng hiếu thảo cho các cá nhân trong gia đình. Đặc biệt, nhu cầu cần phải truyền dạy sự hiếu thảo cho con cái ở các gia đình giàu có cao hơn các gia đình có thu nhập thấp. Như vậy, kinh tế càng phát triển, đời sống càng được cải thiện thì việc giáo dục lòng hiếu thảo càng trở nên cần thiết. Hình 5: Ý kiến về giáo dục lòng hiếu thảo: được hấp thụ lòng hiếu thảo từ gia đình qua ông bà, cha mẹ; , 94.6 cần phải dạy dỗ lòng hiếu thảo cho các cá nhân trong gia đình, 88.5 được hấp thụ lòng hiếu thảo từ gia đình qua ông bà, cha mẹ; cần phải dạy dỗ lòng hiếu thảo cho các cá nhân trong gia đình 2.3 Đoàn kết - phẩm chất xã hội, giá trị truyền thống đang được tiếp tục phát huy vai trò trong nội dung giáo dục gia đình. Có tới 80,8% số người được hỏi cho rằng cần truyền dạy phẩm chất này trong gia đình và 86,4% các gia đình thường xuyên giáo dục con cháu phẩm chất này. Như vậy, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, với việc trên 80% số hộ gia đình khẳng định đoàn kết là một yếu tố quan trọng, cần phải được truyền dạy cho con cháu, đây là chỉ báo đáng mừng, cần được phát huy hơn nữa. Hình 6: Hình thức giáo dục gia đình giáo dục qua những câu chuyện gian khổ, 87.2 qua hình thức nêu gương, 81.3 qua giáo dục các lễ giáo trong gia đình, 73.3 giáo dục qua những câu chuyện gian khổ qua hình thức nêu gương qua giáo dục các lễ giáo trong gia đình Hình thức giáo dục đạo đức cho cá nhân trong gia đình được thực hiện qua các cách khác nhau: 87,2% giáo dục qua những câu chuyện gian khổ, 81,3% qua hình thức nêu gương, 73,3% qua giáo dục các lễ giáo trong gia đình. Như vậy những nội dung giáo dục thông qua câu chuyện sinh động về tấm gương cuộc đời của chính ông bà, cha mẹ là chất liệu sống có tác động tích cực, trực tiếp tác động tới nhận thức và tình cảm của các thành viên trong gia đình. Nhận thấy sự vượt gian khổ của thế hệ đi trước, thế hệ nối tiếp dần hình thành và phát triển nhân cách cá nhân của mình. 2.4 Giáo dục truyền thống gia đình, truyền thống dòng họ: Theo nghiên cứu của TS – Nguyễn Thị Tố Quyên cho thấy: Vai trò giáo dục truyền thống trong gia đình được xây đắp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói đến truyền thống là nói đến những giá trị tồn tại với thời gian.Và truyền thống tốt đẹp của gia đình với những vật chất tinh thần của cha ông , dòng họ để lại. Mức độ giáo dục truyền thống gia đình thể hiện như sau: Hơn một nửa số cha mẹ (54.4%) cho rằng chỉ thỉnh thoảng giáo dục con cái về truyền thống gia đình . Số cha mẹ thường xuyên giáo dục ít hơn ( 36%) . Sự chênh lệch giữa mức độ thường xuyên và thình thoảng giáo dục truyền thống gia đình là không lớn lắm Nhưng sự chênh lệch giữa mức không thường xuyên giáo dục truyền thống gia đình ( chiếm 64% ) thì lại lớn gấp 2 lần so với mức độ thường xuyên.Điều đó cho thấy việc giáo dục truyền thống gia đình chưa thực sự được phụ huynh quan tâm. Gia đình la nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu và giữ gìn những bản sắc dân tộc truyền thống văn hóa . Chính vì vậy việc giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình cần đươc cha mẹ quan tâm và giáo dục con cái hơn Giáo dục truyền thống gia đình và dòng họ được các gia đình quan tâm, chú ý đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, sự giao lưu văn hóa quốc tế nhộn nhịp có những tác động đến nhận thức và hành động của lớp trẻ. Nghiên cứu của tác giả Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý chỉ ra, có tới 84,4% gia đình thường xuyên giáo dục con cái theo nề nếp gia đình, 70,6% theo truyền thống dòng họ. Như vậy, giáo dục nề nếp gia đình và truyền thống dòng họ là điều được quan tâm trong giáo dục gia đình. Tuy nhiên, những gia đình ông bà, cha mẹ có học vấn cao tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến vấn đề này so với những người có trình độ học vấn thấp (96,8% số cha mẹ có học vấn CĐ, ĐH, trung cấp rất quan tâm đến nề nếp gia đình, trong khi đó tỷ lệ này ở những cha mẹ có trình độ PTCS là 78,4%). Tác giả Nguyễn Đức Mạnh đưa ra số liệu chứng minh có tới 89.6% gia đình giáo dục con cái theo gia giáo của gia đình, dòng họ; 91,9% giáo dục con cái theo gia phong (phong cách ứng xử của ông bà, cha mẹ, tổ tiên); 97,7% giáo dục con theo gia đạo; 97,9% giáo dục con cái theo truyền thống nhưng bổ sung thêm nội dung mới phù hợp. II. GIÁO DỤC Ý THỨC HỌC TẬP HƯỚNG NGHIỆP 1. Kỳ vọng và quan niệm của cha mẹ với việc học hành của con cái Đã là cha mẹ ai cũng mong muốn con cái mình có một tương lai tốt đẹp, sáng lạn. Tâm lý chung của cha mẹ là mong muốn con mình học giỏi, ngoan ngoãn, lễ phép…Tuy nhiên, ngày nay, một số bậc cha mẹ vì quá kỳ vọng vào khả năng của con mình mà có những cách thức dậy con không phù hợp gây ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của con trẻ. Họ không hiểu được rằng con mình chỉ là những đứa trẻ. Mà đứa trẻ cần sự uốn ắn mềm dẻo chứ không phải sự áp đặt, bắt con phải như thế này, thế kia, phải theo những “kỳ vọng hoang tưởng” của cha mẹ. ở đây, nên chăng các bậc cha mẹ không chỉ là người hướng dẫn mà còn là người thấu hiểu tâm lý và định hướng cho con trẻ học tập. Trong nghiên cứu khảo sát 150 hộ gia đình thuộc phường Kim Liên – Hà Nội gần đây của Viện xã hội học – Viện khoa học xã hội Việt Nam đã khái quát được một số quan niệm và kỳ vọng của cha mẹ đối với việc học hành của con cái như sau: Hầu hết các bậc cha mẹ mong con cái sẽ học tốt để sau này có nghề nghiệp ổn định. Tuy nhiên, phương pháp giáo dục con của các bậc cha mẹ hướng đến các mục tiêu đó lại khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, học vấn và nghề nghiệp… của mỗi gia đình. Có tới 94,3 % (tỷ lệ cao nhất) số người được hỏi có kỳ vọng con thứ nhất học hết đại học, cao đẳng. Tiếp đó là kỳ vọng con mình học hết trung cấp (8%), trung học phổ thông (4,9%). Như vậy, có thể thấy, quan niệm chung là học vấn cao sẽ dẫn tới vị thế xã hội cao. Nhiều bậc cha mẹ còn cho rằng phấn đấu bằng học vấn là con đường tốt nhất cho con em họ. Điều này thật dễ hiểu khi số lượng học sinh đăng ký dự thi các trường cao đẳng đại học ngày một tăng. Trong những gia đình có học vấn khác nhau thì kỳ vọng đối với cấp học của con cũng khác nhau. Bố mẹ có học vấn cao thì kỳ vọng con cái học cao đẳng, đại học càng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ người mẹ mong muốn con trai học cao nhiều hơn tỷ lệ người mẹ mong muốn con gái học cao, trong khi người bố lại không có sự phân biệt về giới tính của con trong vấn đề này. Như vậy, có thể thấy xu hướng của các bậc cha mẹ hiện nay là muốn con cái mình học hết cao đẳng, đại học để có nghề nghiệp ổn định sau này. Tuy nhiên, vấn đề này cũng cần đưa ra bàn luận thêm nhiêu nhiều hơn nữa, bởi lẽ với thực trạng lao đông – việc làm ở Việt Nam hiện nay thì liệu học hết cao đẳng đại học liệu ra trường kiếm việc có dễ hơn học các trường trung cấp, trường dạy nghề không? 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của con cái Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của con cái như: môi trường học tập, khả năng bẩn sinh, sự chăm chỉ của trẻ, sự quan tâm của cha mẹ, uy tín của trường lớp… Nhưng theo một số nghiên cứu của chúng tôi, sự quan tâm của cha mẹ là yếu tố đầu tiên giúp trẻ học tốt. Sự quan tâm này thể hiện ở việc bố mẹ biết tạo cho con một môi trường học tập yên tĩnh, luôn quan tâm hỏi han việc học tập của con; hướng dẫn, cùng suy nghĩ giải những bài tập khó với con. Sự quan tâm còn thể hiện ở việc quan tâm đến các dụng cụ học tập cho con, đến tâm tư tình cảm của con trẻ. ở đây, truyền thống, nề nếp gia đình cũng có tác động đến việc học của các em. Nếu đứa trẻ sống trong một gia đình mà tối tối bố đọc sách, mẹ khâu áo, cả bố mẹ đều sẵn sàng giải đáp những thắc mắc, giúp con làm những bài toán khó thì chắc chắn việc học nó sẽ đạt kết quả cao hơn một đứa trẻ sông trong môi trường gia đình tối tối bố say xỉn, mẹ quát nạt, đánh đập con cái. Bên cạnh sự quan tâm của cha mẹ, sự chăm chỉ của trẻ cũng là một trong những nhân tố có tác động lớn đến kết quả học tập. Một đứa trẻ chăm chỉ, có ý thức tự giác học tập sẽ có được những kiến thức theo chiếu sâu và kết quả học tập cao hơn những đứa trẻ lười biếng. Khả năng bẩn sinh của trẻ cũng có ảnh hửng đến kết quả học tập của các em. Ngoài ra, nhân tố trường lớp có uy tín, sự giàu có của gia đình… cũng có ảnh hưởng đến kết quả học tập của con trẻ. Các bậc cha mẹ tại phường Kim Liên đã đánh giá thứ bậc của các yếu tố trên như sau: Yếu tố đầu tiên giúp trẻ học tốt là sự quan tâm của cha mẹ chiếm 47,4%, rồi tới sự chăm chỉ của trẻ (38,0%), tiếp đó đến khả năng bẩn sinh của trẻ (33,3%), rồi đến sự giàu có của gia đình (18,2%), tiếp đó là gia đình có người học cao (9,5%) và cuối cùng là trường lớp có uy tín (3,8%). sự quan tâm của cha mẹ chiếm , 47.4 sự chăm chỉ của trẻ , 38 khả năng bẩn sinh của trẻ , 33.3 sự giàu có của gia đình, 18.2 gia đình có người học cao , 9.5 trường lớp có uy tín , 3.8 sự quan tâm của cha mẹ chiếm sự chăm chỉ của trẻ khả năng bẩn sinh của trẻ sự giàu có của gia đình gia đình có người học cao trường lớp có uy tín Hình 7: Yếu tố ảnh hưởng đến học tập trẻ Như vậy, rõ ràng sự quan tâm của cha mẹ cả về vật chất, tinh thần và thời gian dành cho việc học của con có tác động mạnh nhất đối với kết quả học tập của con. Ngoài ra, yếu tố chủ quan của đứa trẻ cũng góp phần quan trọng vào quá trình học tập của chúng. Trình độ học vấn của cha mẹ cũng có tác động đến việc học của con trẻ. Khi phân tích mối tương quan giữa trình độ học vấn của người bố và khả năng học tập của con cái thì thấy rằng không có ông bố nào có trình độ học vấn phổ thông cơ sở lại có con học tốt cả. Tỷ lệ này chỉ có ở các ông bố có học vấn ở phổ thông trung học và tăng lên ở những ông bố có trình độ cao đẳng, đại học trở lên (tăng từ 65,8% đến 70,5%). Trong các chỉ báo đưa ra để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố tới việc học tập của trẻ có hai chỉ báo được các bậc cha mẹ chú ý nhiều đó là việc bố mẹ kiểm soát chương trình truyền hình và kiểm tra việc học hành của con cái. Gần 90 % con cái học tập tốt là do bố mẹ thường xuyên kiểm soát chương trình xem ti vi của con. Ngược lại, 30% con cái học tập trung bình là do bố mẹ không bao giờ kiểm soát các chương trình ti vi mà con cái họ xem. Việc bố mẹ trực tiếp kiểm tra việc học hành của con cái có ảnh hưởng mạnh nhất đến kết quả học tập của chúng. Tỷ lệ học tốt giảm đáng kể từ 80,4% khi bố mẹ rất thường xuyên kiểm tra việc học hành của con cái xuống còn 50% khi bố mẹ chỉ thỉnh thoảng làm việc này. Tỷ lệ học trung bình cũng giảm đáng kẻ từ 50% khi bố mẹ thỉnh thoảng kiểm tra việc học hành của con xuống còn 20% khi bố mẹ không bao giờ làm việc đó. Như vậy, việc kiểm tra quá trình học tập của các em có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của con trẻ … Điều này cũng dễ lý giải bởi vì, ở tuổi mới lớn các em còn mải chơi chưa nhận được tầm quan trọng của việc học nên cần có sự khuyến khích, dong giục đôi khi là kiểm soát của cha me hay những người lớn hơn trong gia đình. Tuy nhiên, kiểm soát việc học hành của con cái phụ thuộc rất nhiều vào trình độ học vấn cũng như nghề nghiệp của cha mẹ. Trình độ học vấn của cha mẹ cao thì việc kiểm tra, đôn độc con cái học hành thuận tiện hơn rất nhiều, cha mẹ có thể trực tiếp chỉ bảo việc học hành của con. Nếu trình độ học vấn của các bậc cha mẹ hạn chế thì rất khó có thể kiểm tra theo dõi được quá trình học tập của con trẻ. Thực tế đã cho thấy, có rất nhiều ông bố bà mẹ học hết phổ thông trung học nhưng đành “bó tay” trước những bài tập hóc búa lớp 4, lớp 5 của con. Bên cạnh đó, đặc thù nghề nghiệp cũng có tác động đáng kể đến việc học của con, bởi v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfVai trò của cha mẹ trong hình thành nhân cách cho trẻ trong gia đình.pdf
Tài liệu liên quan