Đề tài Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam

Qua nghiên cứu những ứng dụng của công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua, chúng ta có thể thấy được khái quát thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Theo Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thì “ nhìn chung công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam thời gian qua có trình độ cao hơn công nghệ nước ta hiện có hoặc trong nước chưa có”.

- Trước hết, hoạt động CGCN đã góp phần chuyển dịch có cấu của nền kinh tế theo hướng tích cực. Nó làm tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chuyển nền kinh tế truyền thống của ta từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế. Đây là sự chuyển dịch phù hợp với quá trình CNH- HĐH đất nước và phù hợp với sự phát triển của các nền kinh tế hiện đại.

- Ngoài ra, việc tiếp thu và ứng dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại vào sản xuất góp phần cải thiện nền công nghiệp lạc hậu của ta. Nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã được chuyển giao vào nước ta trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, thông tin, viễn thông, xây dựng,.tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp chủ chốt của nước ta. Từ đó, thúc đẩy rút ngắn quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

 

docx37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9925 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỹ thuật, nghệ thuật, là từ “logy” là lời lẽ, ngôn từ, cách diễn đạt, học thuyết. Trước đây, trong giai đoạn đầu Công nghiệp hóa, người ta thường dùng khái niệm kỹ thuật trong sản xuất, sau đó khái niệm công nghệ xuất hiện với ý nghĩa ban đầu rất hẹp, đơn giản chỉ là tuần tự các giải pháp kỹ thuật trong một dây chuyền sản xuất. Ngày nay, tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu và đối tượng áp dụng các khái niệm khác nhau về công nghệ. Theo Uỷ ban kinh tế- Xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) định nghĩa ” Công nghệ là hệ thống tri thức về quy trình kỹ thuật chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế biến hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý”. Với khái niệm này, công nghệ được mở rộng và hoàn thiện hơn. Công nghệ là tập hợp những công cụ, phương pháp dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuất thành những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu con người. Như vậy, công nghệ được phân biệt rõ với khoa học và kỹ thuật. “Khoa học là lĩnh vực nghiên cứu nhằm đưa ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy”, còn “kỹ thuật có thể hiểu là tổng hợp các tư liệu vật chất như công cụ lao động, năng lượng, vật liệu và phương pháp do con người sáng tạo ra và được sử dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội”. Qua đó, chúng ta có thể thấy công nghệ có cái đồng nhất với kỹ thuật, song cái khác nhau cơ bản là kỹ thuật chỉ nặng về phần cứng, còn công nghệ thì đi sâu vào phần mềm của quy trình. Hơn nữa công nghệ còn bao gồm cả sự năng động trong nhận thức của con người để cải tiến quy trình sản xuất, đặc biệt là khả năng chuyển giao công nghệ(CGCN) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn cách mạng Khoa học công nghệ hiện nay. Kỷ nguyên mà công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường và tỷ lệ”phần mềm” có vị trí ngày càng quan trọng trong các quy trình công nghệ sản xuất. Theo quan điểm phổ biến hiện nay thì công nghệ gồm 4 thành phần cơ bản tác động qua lại lẫn nhau. a.Hình thái vật chất của công nghệ b.Thông tin: là các sơ đồ, bản vẽ, thuyết minh, dự án, mô tả sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật.. Phần thông tin rất quan trọng, nó quyết định phần lớn sự thành công hay thất bại của hoạt động chuyển giao công nghệ. Nó thường được tìm kiếm trong khoảng thời gian dài và được hoàn thiện trước khi kí hợp đồng chuyển giao công nghệ. c. Thiết chế: là cơ cấu tổ chức, quản lý, gồm sự liên hệ, bố trí sắp xếp, đào tạo đội ngũ.. cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, tiến hành. d.Yếu tố con người: gồm kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất làm việc có trách nhiệm và có năng suất cao của đội ngũ nhân lực có sức khoẻ. III.SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC. 1.Sự phát triển công nghệ ở Việt Nam Việt Nam hiện tại là một quốc gia đang trên đường phát triển và tăng trưởng về mọi mặt, trong đó có cả công nghệ.Nhưng cho dù có tăng trưởng đến đâu đi chăng nức khi nghiên cứu về vấn đề này, ta cũng sẽ không thể bỏ qua được những bước ngoặt, những khám phá có tính chất lịch sử mà dân tộc đã đạt được từ thủa bình minh của loài người. Lịch sử, phát triển của công nghệ ở Việt Nam đã được biết đến qua các mốc lớn sau: *Thứ nhất: Nền văn hóa vi sơn, vào cuối thời đại đồ đá cũ, cách đây khoảng 23 nghìn năm. *Thứ hai: Văn hoá hoà bình, vào đầu thời đàu đồ đá mới, cách đây khoảng 10 nghìn năm. ở giai đoạn này, con Người đã tìm tòi và phát minh ra công cụ sản xuất bằng đá, làm đồ gốm, thuần dưỡng các loại động vật hoang dã. *Thứ ba: Văn hoá Đông Sơn, nổi tiếng với công nghệ đúc đồng cách đây khoảng 4 nghìn năm. Vào thời kỳ này, đã hình thành nên các Nhà nước. *Thứ tư: Thế kỷ XIII-XV Việt Nam có chữ Nôm thế kỷ XVI. XVII chữ quốc Ngữ-Tiếng Việt bằng mẫu tự la tinh ra đời. Đó là sáng tạo đặc biệt; đỉnh cao mới của con người Việt Nam và đất nước Việt Nam. Khi cuộc C M khoa học-công nghệ trên thế giới nổ ra tạo ra được một khối lượng vật chất khổng lồ cho nhân loại, nhưng vì được thực hiện trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản cho nên bên cạnh những tác động tích cực đối với sự tiến bộ của nhân loại, cũng đang gây ra những tác động bất lợi đối với một số lực lượng xã hội và một số quốc gia ở thời điểm đó với những quốc gia đang bị tụt hậu về kỹ thuật công nghệ thì trở thành một nguy cơ lớn trong số những quốc gia tụt hậu đó. Việt Nam được xem như một quốc gia điển hình. Đất nước có nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu bằng nông nghiệp. Bị chiến tranh tàn phá nặng nề trong một thời gian dài, chủ trương của Đảng và Nhà nước là đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa quá độ giai đoạn chủ nghĩa tư bản tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng : cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học-kỹ thuật, cách mạng về tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng về khoa học kỹ thuật là then chốt để đẩy mạnh công nghệ hoá và hiện đại hoá đất nước. Nhờ có những áp dụng và nghiên cứu công nghệ mới vào nông nghiệp, nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ trong một giai đoạn dài, tạo ra nhiều việc làm; các ngành gốm sứ, vật liệu xây dựng đã được đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất cụ thể là lò tunen, sấy bằng năng lượng mặt trời nung bằng khí đốt … đảm bảo việc làm cho lao động và góp phần tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Công nghệ thông tin được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và quản lý của đất nước. Đảng và nhà nước đang có chủ trương phát triển công nghệ thông tin bởi công nghệ thông tin được đánh giá là cơ sở hạ tầng của sự phát triển kinh tế xã hội. Công nghệ sinh học được khám phá và đưa vào phục vụ nông nghiệp và công nghiệp cũng như y tế. Công nghệ phục vụ cho nền công nghiệp trong nước cũng được khám phá và áp dụng mạnh đặc biệt là đối với lĩnh vực công nghiệp chủ đạo như : Năng lượng luyện kim, chế tạo máy, xi măng, đóng tầu, lọc dầu. Ngoài ra kỹ thuật nhiệt đới cũng phần nào được đưa vào ứng dụng rộng rãi trên cơ sở nghiên cứu về mặt thuận lơị do thiên nhiên mang lại cho đất nước, trên thực tế kỹ thuật công nghệ nhiệt đới đang được xem là một bộ phận quan trọng của CM khoa học- kỹ thuật nước ta, có nhiệm vụ tìm ra biện pháp hạn chế yếu tố tiêu cực, khai thác yếu tố tích cực tác động đến các thiết bị kỹ thuật, quy trình công nghệ, các cơ sở sản xuất. 2.Thực trạng phát triển công nghệ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Ở nước ta, thông qua các văn kiện của Đảng và nhà nước, vai trò vị trí của khoa học công nghệ trong công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đã được xác định. Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu và vươn lên trình độ tiên tiến của thế giơí. Khoa học-công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới. Khoa học-công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Nhìn một cách tổng thể tình hình công nghệ trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay so với các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và các nước….. nói chung là rất thấp và lạc hậu, tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại rất thấp, trình độ cơ khí hoá của nền kinh tế chưa được cao, mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ và kỹ thuật cao. Những thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn mức trung bình của thế giới khoảng 1-2 thế hệ. Nhờ một phần lớn chuyển giao công nghệ thông qua FDI đã đưa công nghệ và thiết bị của các ngành lắp ráp điện tử, ô tô, lắp ráp xây dựng, thuỷ sản đông lạnh thuộc loại này. Các thiết bị và công nghệ lạc hậu 2- 3 thế hệ so với trung bình của thế giới, ví dụ như trong ngành điện, giấy, đường và chế biến thực phẩm. Các thiết bị lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ chủ yếu bao gồm công nghệ và thiết bị của các ngành đường sắt, đường bộ, cơ khí đóng tầu, vật liệu xây dựng… Trong xu thế toàn cầu hoá về kỹ thuật, sự cạnh tranh về hàng hoá và dịch vụ ở thị trường trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt, tính cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao chủ yếu nhờ những tiến bộ khoa học-công nghệ của nhân loại. Đảng và nhà nước cũng như các cơ quan thẩm quyền đã đưa ra danh mục lựa chọn công nghệ cao cần ưu tiên phát triển là : công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và một số công nghệ cao khác trong một số lĩnh vực cụ thể. Trong đó công nghệ thông tin và công nghệ sinh học cần phát triển sớm với một số đối tượng cần ứng dụng công nghệ cao. +Đối với công nghệ thông tin: phát triển được dựa trên 3 ngành kỹ thuật : điện tử, tin học, viễn thông. Có tốc độ phát triển khá nhanh, vì nó được ví như là cơ sở hạ tầng của kinh tế-xã hội, cho nên tất cả các quốc gia đều có những chiến lược phát triển riêng. Đối với Việt Nam thì hiện nay đang ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển viễn thông và thông tin liên lạc mà chưa ứng dụng nó một cách có hiệu quả toàn diện trên bước đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Và một lĩnh vực nữa là vi tính, vi tính cũng đã được sử dụng rộng rãi trong thiết kế và sản xuất nhằm làm giảm nhiên liệu, năng lượng, vật liệu dùng cho một đơn vị sản phẩm, làm giảm chất thải và hạn chế tác động xấu đến môi trường trong nước. Công nghệ thông tin có thể hiện đại hoá các công nghệ cổ truyền và đảm bảo hiệu quả cho các công nghiệp truyền thống. Do vậy, mục tiêu của Đảng đề ra cần đẩy mạnh và xúc tiến có hiệu quả. +Đối với công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, công nghiệp và y tế: Việt Nam là nước có thiên nhiên nhiệt đới ẩm với nguồn gen rất đa dạng phong phú. Công nghệ sinh học bao gồm từ kỹ thuật chọn, lai tạo giống truyền thống, công nghệ vi sinh, công nghệ mô, công nghệ tế bào đến công nghệ di truyền có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện, bền vững, tác động đến việc bảo vệ và cải thiện môi trường, thiên nhiên và sinh thái đất nước. Thành tích trong việc tiếp thu các tiến bộ công nghệ sinh học còn rất khiêm tốn nhưng thực lực nó cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất những mặt hàng nông sản chủ lực để xuất khẩu, điển hình là mặt hàng gạo xuất khẩu (Việt Nam đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan) +Đối với các ngành công nghiệp truyền thống trên cơ sở công nghệ cao: để đảm bảo tốc độ phát triển nhanh và đẩy mạnh công nghiệp hoá. Nhu cầu về năng lượng, vật liệu sẽ tăng mạnh, có 2 con đường để giải quyết nhu cầu trên nhập khẩu và sản xuất trong nước. Con đường sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, đây là ngành công nghiệp đã trở nên lỗi thời đối với các nước phát triển, nhưng những kinh nghiệm thực tế cho thấy ở Hàn Quốc, Indone Sia, Singapore, Thái Lan chúng vẫn phát huy được tác dụng. Do vậy Việt Nam cần phải có một chiến lược tổng thể đối với lĩnh vực này, vấn đề cốt lõi là phải sản xuất bằng công nghệ cao để đảm bảo tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước khu vực và thế giới. +Đối với lĩnh vực kỹ thuật-công nghệ nhiệt đới: lĩnh vực này cần nên xem là một bộ phận quan trọng của công nghệ khoa học-kỹ thuật ở nước ta bởi xét trên từng khía cạnh, từng góc độ cụ thể thì nó có nhiệm vụ tìm ra các giải pháp hạn chế tiêu cực. Khai thác yếu tố tích cực tác động đến các mặt của nền kinh tế. +Đối với GTVT: GTVT được xem là mạch máu xuyên suốt tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, an ninh quốc phòng. Phát triển công nghệ giao thông, vận tải đồng nghĩa với việc thúc đẩy xây dựng đất nước. Đưa công nghệ tiên tiến vào giao thông vận tải là việc đáp ứng tính đồng bộ của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá xuyên suốt toàn bộ quá trình. Do vậy lĩnh vực này không thể không coi trọng và xúc tiến phát triển nhanh, mặt khác nếu như phát triển chậm hoặc không đồng bộ sẽ đưa đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu so với khu vực và thế giới. Trên đây là một số lĩnh vực công nghệ điển hình đang được Đảng và Nhà nước chú trọng và có những định hướng, chiến lược phát triển để nhằm mục đích đưa công nghệ Việt Nam trên mỗi lĩnh vực tiên tiến kịp với nhịp độ của khu vực và đặc biệt là tiến kịp với xu thế hội nhập toàn cầu hoá về KT. ở Việt Nam 3. Thành tựu đạt được thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua. Qua nghiên cứu những ứng dụng của công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua, chúng ta có thể thấy được khái quát thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Theo Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thì “ nhìn chung công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam thời gian qua có trình độ cao hơn công nghệ nước ta hiện có hoặc trong nước chưa có”. - Trước hết, hoạt động CGCN đã góp phần chuyển dịch có cấu của nền kinh tế theo hướng tích cực. Nó làm tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chuyển nền kinh tế truyền thống của ta từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế. Đây là sự chuyển dịch phù hợp với quá trình CNH- HĐH đất nước và phù hợp với sự phát triển của các nền kinh tế hiện đại. - Ngoài ra, việc tiếp thu và ứng dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại vào sản xuất góp phần cải thiện nền công nghiệp lạc hậu của ta. Nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã được chuyển giao vào nước ta trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, thông tin, viễn thông, xây dựng,...tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp chủ chốt của nước ta. Từ đó, thúc đẩy rút ngắn quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. - Đồng thời, nhờ có hoạt động CGCN, các doanh nghiệp của ta thường xuyên tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ mới, từ đó, góp phần thúc đẩy tính chủ động, sáng tạo trong việc tự đổi mới công nghệ. Nhờ đó, có khả năng cải tiến chất lượng và tính năng sản phẩm, giúp hạ giá thành sản phẩm do tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu trong nước. Sản phẩm tạo ra vừa có chất lượng cao, vừa có năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực, cho phép tăng thu ngoại tệ. - Việc chuyển giao công nghệ trong thời gian qua đã tận dụng được những yếu tố cần có, đó là sử dụng tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, cải thiện môi trường lao động, nâng cao trình độ tay nghề và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ và tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu khoa học. 4. Một số hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được, CGCN nước ngoài còn tồn tại một số hạn chế : - Thứ nhất, hiệu quả và trình độ công nghệ được chuyển giao không cao do bị hạn chế nhiều mặt về lựa chọn công nghệ tối ưu, tỷ lệ chuyển giao phần mềm thấp, hiệu suất sử dụng chỉ đạt tối đa là 70-80% công suất thiết kế. Do thiếu vốn đầu tư mà trong một số trường hợp doanh nghiệp buộc phải nhập thiết bị đã qua sử dụng, dẫn đến làm chậm tốc độ đổi mới công nghệ, còn gây lãng phí. Chỉ riêng qua khảo sát đối với ngành công nghiệp nhẹ, chúng ta thấy trong số hơn 700 thiết bị, 3 dây chuyền nhập tại 42 nhà máy có 76% số máy mới nhập thuộc thế hệ máy sản xuất từ những năm 50-60; 70% số máy nhập khẩu đã hết khấu hao; 50% số máy móc thiết bị là đồ cũ tân trang lại. Qua đó, chúng ta có thể thấy hầu hết công nghệ được chuyển giao đều là quá lạc hậu, dây chuyền và thiết bị quá cũ, hiệu suất sử dụng không cao. Thêm vào đó, ngay cả các thiết bị trong các dự án đầu tư nước ngoài phần lớn thuộc loại trung bình và trung bình tiên tiến của khu vực, ít có thiết bị hiện đại ngang tầm của thế giới hiện nay. Chính những dây chuyền thiết bị lạc hậu này, sau khi được các nước tư bản phát triển loại ra, đã tái nhập và được sử dụng tại Việt Nam. Điều này càng làm cho nước ta chậm đổi mới về công nghệ, thậm chí còn gây nguy cơ biến nước ta thành “bãi rác thải” công nghệ của các nước phát triển. - Không những thế, những công nghệ cũ được các nước loại bỏ này nhập vào nước ta còn gây ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động, làm phá hoại môi trường sinh thái và có hại cho sức khoẻ con người. - Do sử dụng nhiều máy móc, thiết bị và công nghệ quá lạc hậu, ước tính ở Việt Nam hiện nay có khoảng 300-400 thương tật dẫn đến chết người và hơn 20.000 tai nạn nghề nghiệp xảy ra hàng năm. - Ngoài ra, đa số các công nghệ được chuyển giao vào nước ta trong các ngành nghề chủ yếu là công nghệ lắp ráp, nhất là trong lĩnh vực cơ khí. Nhiều dây chuyền sản xuất trong lĩnh vực này hầu như chỉ mang tính đơn thuần, với các khâu gia công đơn giản, lắp ráp, hoàn thiện và bao gói sản phẩm. Không có khâu tạo phôi và gia công chính xác như sản xuất quạt điện, sản xuất ô tô, xe máy, chế tạo linh kiện điện tử và phụ tùng chính xác. Đặc biệt, ngành cơ khí chế tạo tuy được nâng cấp đổi mới công nghệ song các dây chuyền thiết bị thường thiếu tính đồng bộ. Do đó, làm hạn chế phần nào khả năng tự nghiên cứu và phát triển công nghệ trong nước. - Ngoài ra, qua thẩm định đã phát hiện nhiều dự án trong đó thiết bị, công nghệ và chuyển giao công nghệ bị nâng giá cao hơn giá trị thực tế của nó rất nhiều. Trong nhiều công trình, dự án liên doanh với nước ngoài, công nghệ nhập bị phía nước ngoài nâng giá công nghệ lên gấp 2- 2,5 lần. Một mặt do chúng ta còn thiếu năng lực đánh giá chất lượng công nghệ, mặt khác do bên nước ngoài thường muốn kiếm ít lời qua hoạt động buôn bán phi mậu dịch của CGCN. - Nhiều chủ trương đúng đắn về khoa học- công nghệ trong các văn kiện của Đảng chậm được thể chế hoá về mặt Nhà nước và chưa được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, các chính sách kinh tế của Chính phủ như chính sách thuế, tài chính và tín dụng, chính sách xuất nhập khẩu chưa tạo khuyến khích doanh và tổ chức đầu tư vào khoa học và công nghệ. - Môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi cho phát triển khoa học- công nghệ. Do đó, công nghệ chuyển vào nước ta thời gian qua là có ý nghĩa, nhưng chưa đem lại hiệu quả cao, chưa trở thành động lực thúc đẩy ứng dụng vào đời sống sản xuất. - Một hạn chế nữa cũng cần nói đến là công tác giáo dục- đào tạo. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học nước ta còn mỏng, kém về trình độ. Hơn nữa, nước ta lại thiếu chiến lược quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ, dẫn đến mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng lao động. Việc nghiên cứu giảng dạy chưa có sự gắn kết với thực tiễn của đời sống sản xuất. Các chính sách ưu đãi cho đội ngũ cán bộ khoa học chưa thỏa đáng, lao động trí óc chưa được trả công xứng đáng. - Thêm vào đó, về mặt khách quan, công tác quản lý khoa học- công nghệ còn nhiều bất cập, nặng tính hành chính. Cơ cấu và phân bố cán bộ nghiên cứu khoa học & công nghệ chưa cân đối giữa nông thôn, miền núi và thành thị. Tóm lại, thông qua phân tích trên, chúng ta có thể thấy thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Hơn nữa, ta còn có thể khẳng định rằng: mặc dù công nghệ ở nước ta hiện nay đã có những đổi mới mạnh mẽ, song trình độ công nghệ còn lạc hậu xa so với thế giới, trình độ tay nghề cũng còn yếu. Do đó, thời gian qua, tuy có tận dụng lợi thế của xu thế hội nhập để thu hút công nghệ nhưng hiệu quả của CGCN là chưa cao. Để thúc đẩy Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, Nhà nước đã có những chính sách đổi mới công nghệ trên các lĩnh vực quan trọng và khuyến khích các doanh nghiệp nhập thiết bị, dây chuyền tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam. Nhờ đó, hoạt động chuyển giao công nghệ có điều kiện thuận lợi cho phát triển, góp phần mở rộng sản xuất, đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy kinh tế phát triển. Song do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc chuyển giao công nghệ vào nước ta đa phần là máy móc, dây chuyền thiết bị quá lỗi thời, lạc hậu và đi sau rất nhiều so với trình độ của thế giới. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là cần có những sách lược phù hợp để vừa thúc đẩy hoạt động chuyển giao phát triển hiệu quả, vừa tạo điều kiện cho phát triển thị trường công nghệ nội sinh. Từ đó, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận những công nghệ hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, tạo ra những sản phẩm với chất lượng cao hơn đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước và mở rộng cả thị trường nước ngoài. Nhưng để công nghệ phát triển đúng hướng và trở thành động lực chính cho quá trình CNH-HĐH đất nước “rút ngắn”, về lâu dài chúng ta phải có biện pháp xây dựng một nền công nghệ nội sinh, tự nghiên cứu và triển khai (R&D) các công nghệ. Đặc biệt là trong xu thế bùng nổ mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ mới ngày nay, chúng ta cũng cần xác định định hướng cho phát triển công nghệ, để công nghệ trong nước từng bước cải tiến và không bị tụt hậu quá xa so với trình độ công nghệ của thế giới. IV.NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI TRONG KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP. Trước một thực tế về vấn đề khoa học và công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ như vậy. Nền sản xuất và nền kinh tế trở nên biến động và thay đổi về cục diện. Sự thay đổi tận gốc trong lực lượng sản xuất, phương thức kinh doanh và phương thức quản lý trong xu thế toàn câu, hay nói cách khác sự phát triển công nghệ mạnh mẽ trên toàn cầu đóng vai trò dẫn đường cho mọi khía cạnh mọi lĩnh vực. Từ thực tế những cuộc cách mạng khoa học - công nghệ liên tiếp nổ ra trên thế giới. Cũng như những phát minh và khám phá của nhân loại đã dẫn đến sự thay đổi trong kinh doanh và quản lý của các bộ phận doanh nghiệp nói riêng và đối với mỗi quốc gia nói chung. Công nghệ phát triển kéo theo là sự thay đổi về cơ cấu lực lượng sản xuất, phân công lao động trên phạm vi quốc tế, đặc biệt là với những nước đang phát triển như Việt Nam. Lợi thế về nguồn lao động giản đơn tay nghề thấp dường như đã mất hết ý nghĩa những phương thức sản xuất kinh doanh tự động hoá, phương thức quản lý khoa học hiện đại được áp dụng. Mô hình thương mại điện tử, chính phủ điện tử được thực hiện đồng loạt ở các quốc gia. Công nghệ càng phát triển mạnh cùng đồng nghĩa với việc phương tiện điện tử và mô hình giao thông, hiện đại cũng được phát triển theo. Do vậy khoảng cách giữa các quốc gia được rút ngắn lại tiện lợi cho việc giao lưu kinh tế, sản xuất, kinh doanh, phá vỡ phạm vi nhỏ hẹp của một quốc gia, mở rộng ra phạm vi khu vực và thế giới. Hình thành nên thị trường mậu dịch toàn cầu. Các nước đồng loạt mở cửa thị trường sửa đổi phương thức sản xuất kinh doanh, xây dựng một nền kinh tế tự do hoá toàn cầu. +Những ảnh hưởng khi triển khai công nghệ mới đối với việc thay đổi nền sản xuất kinh doanh. Như đã nêu ra ở trên, công nghệ phát triển và được áp dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh cũng là lúc cục diện của nền sản xuất kinh doanh được biến đổi. Lực lượng sản xuất dần được thay thế lao động chân tay đang dần được thay thế bằng thiết bị máy móc. Sức lao động sử dụng vào việc tạo ra một sản phẩm được giảm xuống. Tức là công nghệ đã được áp dụng vào để phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp tạo ra. Hoàn thiện các quy trình sản xuất kinh doanh, phát huy các mặt mạnh vốn có của doanh nghiệp tạo nên sức cạnh tranh trên thị trường và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên của đất nước. Đáp ứng đầy đủ các định mức và mục tiêu mà Đảng đã đề ra. -Đảm bảo tích luỹ cho bản thân doanh nghiệp -Đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu -Đảm bảo mở rộng cơ sở nguyên vật liệu và tái tạo nguyên vật liệu -Đảm bảo năng lượng nhiên liệu và khả năng thay thế năng lương nhiên liệu -Đảm bảo kết cấu và cơ sở hạ tầng -Đảm bảo năng lực cơ khí hoá điện tử hoá trên phạm vi rộng. -Đảm bảo cho sự phát triển của tài nguyên và môi trường. Máy tính điện tử xuất hiện đưa nền sản xuất kinh doanh từ giai đoạn lao động thô sơ- cơ khí hoá, điện khí hoá sang tự động hoá, các phần mềm, các chương trình ứng dụng sản xuất kinh doanh được ra đời và trở nên phổ biến rộng rãi ở mọi nền sản xuất ở mọi quốc gia và thế giới. Hơn nữa sự phát triển của máy điện toán, máy thiết kế điện toán đã thay thế một phần lao động trí óc của con người. Đặc biệt là sự xuất hiện của người máy trí tuệ trong sản xuất đã mở ra một xu hướng phát triển đạt hiệu quả cao. Cơ cấu sản phẩm thay đổi do công nghệ phát triển tạo ra những công cụ và phương pháp sản xuất vật chất và trí tuệ mới đối với các doanh nghiệp. Để tồn tại trong điều kiện nền kinh tế hợp tác toàn cầu đòi hỏi mỗi một đơn vị sản xuất kinh doanh phải áp dụng công nghệ tiên tiến để nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. +Những ảnh hưởng về mặt quản lý nói chung khi thực tế công nghệ ngày càng phát triển. Công nghệ ngày càng đa dạng khám phá khoa học ngày càng nhiều kéo theo nó là những phương thức quản lý tiên tiến để phù hợp với nền sản xuất cũng đang ngày một phát triển. Xác định đường lối và chủ trương cũng như quan điểm chung của hệ thống là nhiệm vụ to lớn hàng đầu của chủ thể. Đối với hệ thống kinh tế xã hội trong xu thế sản xuất phát triển theo công nghệ. Xét về góc độ quản lý chung của cấp nhà nước, Đảng đã có những chính sách hoạch định rõ đường lối chủ trương và quan điểm phát triển cho cả nền kinh tế của đất nước nói chung và bản thân doanh nghiệp nói riêng. Chính sự phát triển của công nghệ đã ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu nguyên tắc và phương pháp quản lý của các thành phần kinh tế và doanh nghiệp. Đòi hỏi phải hình thành nên các nguyên tắc và các phương pháp phù hợp với mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Các quy luật Mục tiêu quản lý Nguyên tắc quản lý Phương pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxVai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở việt nam.docx
Tài liệu liên quan