Đề tài Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Việt Nam 2006-2010

Hệ thống NHTM đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật được ban hành một cách đồng bộ. Các NHTM đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả.

Hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu trên tổng số dư nợ đã giảm, đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4654 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Việt Nam 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thành vượt bậc của hệ thống ngân hàng thì nó có đóng góp quan trọng đối với việc phát triển TTCK Việt Nam ntn??? * Quan hệ ngân hàng- chứng khoán: Xin đừng dẫm chân nhau - Trước đây 20 năm, lạm phát phi mã, lên tới 3 con số người ta giữ giá trị của mình bằng hàng hóa, vàng và 1 ít đôla Mỹ. Có lúc người dân còn lấy thóc gạo làm căn cứ tính toàn trao đổi. Khi đó chưa có thị trường chứng khoán - Nếu như trước đây, khi chưa có thị trường bất động sản và chứng khoán, thì vấn đề lại chỉ dồn vào một, đó là hệ thống ngân hàng. Nhưng hiện nay, vấn đề lạm phát đã ở mức rộng lớn hơn ở chỗ, người dân quan tâm đến cảthị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường vàng và cả thị trường ngoại tệ. Vậy, một câu hỏi lớn đặt ra là căn nguyên từ đâu dẫn đến những động thái hiện nay trên thị trường tiền tệ, chứng khoán và bất động sản hiện nay ở Việt Nam. - Bắt nguồn tự những tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế. Trong đó có sự quá nóng của thị trường chứng khoán bắt nguồn từ những tháng đầu năm 2007. Nhiều người đã gặt hái được nhiều lợi nhuận từ những vụ mua đi, bán lại chứng khoán để rồi chuyển sang hiện thực hóa lợi nhuận bằng cách đầu cơ bất động sản và mua xe ô-tô. Những cơn hưng phấn thái quá đó đã kéo theo “hiệu ứng bầy đàn”, dẫn dắt hàng ngàn người đổ tiền của vào thị trường chứng khoán, đến nay đã có khoảng 350.000 tài khoản gồm cả cá nhân và tổ chức. Nhưng điều đáng nói ở đây là mạnh dạn vay tiền ngắn hạn để đầu tư dài hạn (đầu tư chứng khoán là trung hạn và dài hạn, vì giá trị thực của nó là hưởng lợi nhuận từ cổ tức và sự thịnh vượng của công ty cổ phần trong tương lai, tuy nhiên trong cuộc chạy đua để chiếm hữu tỷ phần trong tài sản của công ty cổ phần làm cho giá chứng khoán tăng lên tùy theo quan hệ cung - cầu đối với mỗi loại cổ phiếu. Thường công ty làm ăn tốt thì giá cao, làm ăn kém thì giá thấp hơn, nhưng tuyệt đại đa số là cao hơn mệnh giá. - Điều đáng nói nữa là trong cơn hưng phấn của xã hội, thì các ngân hàng thương mại mạnh tay cấp phát tín dụng với khối lượng lớn... Ở đây có phần mang những đặc điểm quán tính của kinh tế thị trường, giống như sản xuất hàng loạt để dẫn đến sản xuất thừa của các nền kinh tế thị trường tự do. Cứ thế,vay ngân hàng mua cổ phiếu, lấy cổ phiếu thế chấp để rồi lại tiếp tục vay ngân hàng đầu tư cổ phiếu để chờ giá lên là bán lấy lãi. Quy trình đó đã làm cho giá trị cổ phiếu tăng vọt nhanh chóng, vượt lên khỏi giá trị thực của nó nhiều lần tạo thành “bong bóng đầu cơ”. - Nếu cứ thế tiếp diễn, thì bong bóng có thể tiếp tục phình to, độ phình của bong bóng có thể lên nữa và lên nữa cho đến khi hết khả năng chịu đựng của nền kinh tế thì xì hoặc nổ - tạo  ra nguy cơ khủng hoảng. - Trước những động thái đó, thì Ngân hàng nhà nước đã đưa ra biện pháp đầu tiên là siết chặt tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại bằng Chỉ thị 03/NHNN. Ngoài ra, Ngân hàng nhà nước thi hành chính sách mạnh trong thắt chặt tiền tệ bằng cách nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, huy động 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Trước thực tế đó các ngân hàng thương mại đã rơi vào thế bí, lấy đâu ra tiền mặt để đáp ứng yếu cầu của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước? Có nhận định cho rằng nó như cái van xiết lại dòng vốn cung ứng vào thị trường chứng khoán, bất động sản. Nhưng trên thực tế, nếu không có Chỉ thị đó, thì thị trường chứng khoán như đang ăn phải thức ăn độc mà không biết lại cứ tiếp tục ăn nữa để đến chỗ nguy hiểm hơn. Bởi vậy, Chỉ thị 03 chính là “liều thuốc đắng”, ngăn lại quá trình nguy hiểm của ngân hàng, cứu cánh cho thị trường chứng khoán, chỉ tiếc rằng nó ra hơi muộn, để các ngân hàng thương mại đã cho vay kinh doanh chứng khoán nhiều, có thời điểm đã lên khoảng 20.000 tỷ đồng. Theo Ngân hàng nhà nước, con số này chiếm khoảng 2,6% tổng dư nợ và 7,5% tổng giá trị thị trường của 22/52 các công ty được niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán. - Trong trường hợp: Chứng khoán lien tục tăng ( bong bong đang căng lên) chưa có biểu hiện gì trước mắt. Mặc dù các nhà phân tích chuyên sâu đã cảnh báo trước thì nhiều người vẫn nghĩ “ đến đó còn xa”; bây giờ cứ mua là được lời, bất chấp công ty cổ phần làm ăn ra sao. Tiếc rằng trên thực tế, cỉ số chứng khoán cả 2 sàn HÓE và HSATC đều giảm và giảm sâu dần đến mức như ngày 25-3-2008. Và hầu hết các NHTM, đặc biệt là ngân hàng cổ phần cho vay đầu tư chứng khoán với 30% -70% giá trị của các chứng khoán niêm yết; 30% -60% giá trị của CK trên sàn giao dịch OTC) Sự giảm sút như vậy có 2 tác động xảy ra đối với khoản vay của ngân hàng (1): Nếu giá chứng khoán giảm xuống 30 % thì các khoản vay dưới cận cho phép của ngân hàng sẽ mất trắng. Người đi vay ( đặc biệt là người đầu tư) sẽ không có khả năng thanh toán, khoản vay của ngân hàng sẽ trở thành nợ xấu (2): Gía trị chứng khoán làm tài sản thế chấp giảm mạnh sẽ tạo ảnh hưởng kép đối với chất lượng hoạt động của ngân hàng. Dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng và tỷ lệ thâm hụy vốn tự có tăng.  ngân hàng và các công ty chứng khoán càng bán tháo cổ phiếu cầm cố (giải chấp), thì thị trường chứng khoán càng đi xuống, phá hết đáy này đến đáy khác, và đã có nhận định rất bi quan là “chứng khoán Việt Nam không có đáy nữa!”. - Trên thị trường chứng khoán còn có yếu tố tâm lý có tác động rất mạnh đến trạng thái của thị trường, khi nhà đầu tư mua hôm nay mai lỗ hàng chục, hàng trăm triệu đồng, không bán ra mà để đầu tư lâu dài cũng thấy giá cổ phiếu lao dốc không phanh, nên tính ra cũng mất hàng chục hàng trăm triệu. Hiệu ứng bầy đàn không cưỡng lại được, người người đua nhau bán tháo, tháo chạy khỏi thị trường chứng khoán để cố giữ lấy phần giá trị còn lại bằng tiền (có lúc chỉ còn 50 - 40% so với giá mua ban đầu). Kết luận: - Muốn thị trường ổn định, trước mắt và trong một thời gian nữa đừng để tiếp diễn cảnh chứng khoán và ngân hàng “dẫm chân” lên nhau. Bởi vì, theo kinh nghiệm của các thị trường phát triển, chứng khoán là một kênh huy động vốn và chia sẻ rủi ro rất hiệu quả. Khác với hệ thống ngân hàng, nơi hàng triệu người dân gửi tiền và niềm tin của mình cho một hoặc một nhóm người, trao họ quyền quyết định tài sản của mình, thì trên sàn chứng khoán - mỗi nhà đầu tư là một chủ thể riêng. Còn nếu chúng dẫm chân lên nhau thì hậu quả sẽ khó lường, không những gây thiệt hại cho cả chứng khoán và ngân hàng, mà còn làm hỏng môi trường thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ bên ngoài.  - Muốn thị trường ổn định, trước mắt và trong một thời gian nữa đừng để tiếp diễn cảnh chứng khoán và ngân hàng “dẫm chân” lên nhau. Bởi vì, theo kinh nghiệm của các thị trường phát triển, chứng khoán là một kênh huy động vốn và chia sẻ rủi ro rất hiệu quả. Khác với hệ thống ngân hàng, nơi hàng triệu người dân gửi tiền và niềm tin của mình cho một hoặc một nhóm người, trao họ quyền quyết định tài sản của mình, thì trên sàn chứng khoán - mỗi nhà đầu tư là một chủ thể riêng. Còn nếu chúng dẫm chân lên nhau thì hậu quả sẽ khó lường, không những gây thiệt hại cho cả chứng khoán và ngân hàng, mà còn làm hỏng môi trường thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ bên ngoài.  - Với sự trưởng thành vượt bậc của hệ thống ngân hàng, thì nó có vai trò quan trọng đối với việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán hình thành và phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả cao hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết của hệ thống ngân hàng. Từ kinh nghiệm của các nước đã cho thấy, “ nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài chính, thì ngân hàng vừa là nền móng, vừa là xi măng”.Như vậy, có thể thấy hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp và tác động củng phát triển. 6. Vai trò của các NHTM trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt năm 2010 Có nhiều nguyên nhân làm chậm tiến độ việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt hiện tại, nhiều người đưa ra các lý do như do thói quen của người dân, hoặc do khuôn khổ pháp lý, hay cơ sở hạ tầng của hệ thống thanh toán của Ngân hàng nhà nước. Nhưng vấn đề hiện tại cơ bản đang làm chậm tiến độ của việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt nằm ở định hướng phát triển và hợp tác giữa các NHTM. a, Tác dụng của thanh toán không dùng tiền mặt: ? - Ngân hàng tiết kiệm được chi phí hoạt động trong việc vận chuyển, kiểm đếm và bảo quản tiền mặt - Khách hàng không cần phải để tồn quỹ, để trong nhà nhiều tiền mặt vừa mất an toàn, không tiện lợi và tốn kém khi thanh toán;  - Nền kinh tế tiết kiệm nhiều nguồn lực cho việc in ấn, phát hành tiền mặt, và thanh toán không dùng tiền mặt là cơ sở để phát triển, đẩy mạnh các dịch vụ giao dịch thanh toán trực tuyến tiện lợi, nhanh chóng, chính xác, và an toàn với chi phí thấp. b, Thực trang thanh toán không dùng tiền mặt tại VN: Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt hiện tại vẫn còn khá cao - chiếm khoảng 14% (tỷ lệ này ở các nước có nền kinh tế phát triển đều dưới 1 con số), đặc biệt trong khu vực chi tiêu cá nhân, số người sử dụng dịch vụ ngân hàng để thanh toán chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp, lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định. Tuy chính phủ và Ngân hàng NN đã có nhiều giải pháp và khá tích cực trong xây dựng hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt tại VN nhưng hiện tại quá trình này vẫn đang còn diễn ra chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu. c, Vai trò của các Ngân hàng thương mại trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt: Có nhiều nguyên nhân làm chậm tiến độ việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt hiện tại, nhiều người đưa ra các lý do như do thói quen của người dân  (ở tất cả các nước trước khi thực hiện thành công thanh toán không dùng tiền mặt thì người dân của họ cũng đều có thói quen dùng tiền mặt ), hoặc do khuôn khổ pháp lý, hay cơ sở hạ tầng của hệ thống thanh toán của Ngân hàng nhà nước. Nhưng vấn đề hiện tại cơ bản đang làm chậm tiến độ của việc triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt nằm ở định hướng phát triển và hợp tác giữa các NHTM. Thể hiện qua những yếu tố sau: - Chậm trễ trong việc kết nối hệ thống thanh toán thống nhất giữa các Ngân hàng Thương mại: Đối tượng cung cấp dịch vụ ngân hàng tới các cá nhân, tổ chức chính là các ngân hàng thương mại, nếu không tạo ra một hệ thống kết nối thanh toán thống nhất giữa các Ngân hàng thương mại thì sẽ gây khó khăn và bất tiện cho người sử dụng dịch vụ ngân hàng khi phải mở nhiều tài khỏan tại các Ngân hàng khác nhau. Các Ngân hàng nên bắt tay nhau để tạo ra thị trường lớn hơn để cùng khai thác thay vì cạnh tranh nhau trên thị phần còn nhỏ bé. Nếu Việt Nam thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt thành công như ở các nước phát triển thì sẽ không thiếu dịch vụ và không thiếu khách hàng cho tất cả các Ngân hàng hiện tại với thị trường Việt Nam có tới gần 90 triệu dân như ở VN. Các trở ngại về công nghệ, năng lực sẽ không phải là vấn đề lớn nếu các Ngân hàng TM chủ chốt thực sự muốn đẩy nhanh tiến độ kết nối hệ thống thanh toán. - Cần phải thay đổi cách nhìn về phát triển các dịch vụ thanh toán hiện tại: Hầu hết các Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay đều bị thua lỗ trong mảng kinh doanh thẻ và trong tương lai nếu vẫn tiếp tục triển khai như hiện tại thì sẽ tiếp tục bị lỗ, Các ngân hàng thương mại đang chạy đua trong việc mở rộng mạng lưới và phát triển hệ thống máy ATM nhưng việc phát triển này vừa gây ra lãng phí lại không hiệu quả. . Ví dụ : Ở thị trường Đà nẵng có tới gần 900 ngàn dân mà có gần bằng ngần đó thẻ ATM được phát hành, số thẻ ATM thực sự được sử dụng theo tôi chỉ khoảng vài chục ngàn người, việc phát triển hệ thống thẻ ATM chưa giải quyết được triệt để vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt vì khi người dân rút tiền từ thẻ ATM họ sẽ lại dùng tiền mặt để thanh toán Hiện tại các NH Thương mại mới kết nối hệ thống máy ATM thống nhất. Trong khi, điều cần phát triển nhất là các máy POS ( thiết bị thanh toán điện tử) thì các ngân hàng thương mại chưa thực sự chú trọng, chi phí một máy POS chỉ khoảng vài triệu và có thể giảm xuống vài trăm ngàn ( nếu trong nước sản xuất hoặc chính phủ hỗ trợ ), nếu các máy POS đó được đặt khắp mọi nơi từ các chợ, siêu thị, cơ quan trường học... và với một hệ thống POS được kết nối thống nhất giữa các ngân hàng thì sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho người dân trong việc thanh toán không dùng tiền mặt. Máy POS không những có đăc điểm chi phí rẻ, dễ sử dụng, nhỏ gọn và dùng được các chức năng, thanh toán, truy vấn số dư.. Các sản phẩm được thiết kế còn bất tiện và hạn chế trong việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt: Tuy rằng hầu hết các NH thương mại đã thay Corebanking ( ngân hàng lõi) (Core banking chính là một hệ thống các phân hệ nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như tiền gửi, tiền vay, khách hàng) mua ở nước ngoài nhưng các sản phẩm tiền gửi thiết kế vẫn theo hình thức cũ. Ví dụ: các ngân hàng thiết kế sản phẩm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Mỗi lần gửi tiền thì Ngân hàng lại cấp cho một quyển sổ tiết kiệm mới, việc rút bớt một phần hoặc nộp tiền vào sổ người dân lại phải tới ngân hàng, ký tá rất nhiều thủ tục và giấy tờ, việc chuyển tiền từ tiền gửi tiết kiệm sang tiền gửi thanh toán không thuận tiện và vẫn phải tới ngân hàng. Nhưng khi bạn mở một tài khoản tại Canada và bạn dùng nhiều sản phẩm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm khác nhau. Tuy nhiên bạn chỉ cần duy nhất một thẻ ATM và số tài khoản, và bạn có thể kiểm tra toàn bộ các sản phẩm mình có thông qua thẻ ATM và E-banking, chuyển, rút tiền đơn giản thông qua máy ATM hoặc E-banking và khi giao dịch không phải mang theo bất cứ giấy tờ nào. Các NHTM chưa mạnh dạn trong việc triển khai E- banking: Khi thực hiện giao dịch E-banking tại các NHTM tại VN bạn thường phải nhập tới 3 vòng mật khẩu, kèm theo phải sử dụng các thiết bị bảo mật, trong khi đó tại Canada bạn cần nhập 1 vòng mật khẩu để sử dụng dịch vụ, khi hỏi vấn đề này tại các ngân hàng ở Canada thì họ nói là nếu có hacker hoặc bị người khác lợi dụng thì khi người bị hại thông báo và họ sẽ phối hợp với ngân hàng bạn để trả lại số tiền cho người bị hại và cơ quan an ninh sẽ phối hợp điều tra để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. ( E- banking ): là nhà băng hoàn toàn trên mạng, bạn không phải đến trực tiếp building hay gặp nhân viên nào của nhà băng. Đăng ký tài khoản - trên mạng. Gởi tiền - bằng mail hay trực tiếp và tài khoản. Rút tiền - trên mạng.  Lợi ích: nhà băng không phải trả tiền thuê mặt bằng, không phải mướn bảo vệ, không phải mướn nhân viên thu ngân. Do vậy mà các nhà băng mạng thường cho khách hàng nhiều lợi tức hơn các nhà băng truyền thống. Phần 2: Vai trò của NHTM trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay A/ Điểm tích cực của các ngân hàng TM: Hệ thống ngân hàng thương mại đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Hệ thống NHTM cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Hệ thống NHTM đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật được ban hành một cách đồng bộ. Các NHTM đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả. Hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN, xử lý nợ xấu trên tổng số dư nợ đã giảm, đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử… ĐIỂM MẠNH (Strengths)  Nội dung  Tỷ lệ (%)  1 Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp.  100  2 Am hiểu về thị trường trong nước.  100  3 Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo.  100  4 Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ.  100  5 Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại.  75  6 Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung ương.  80  7 Môi trường pháp lý thuận lợi.  60  8 Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng.  60  B/ Một vài khó khăn của NHTM: - Mặc dù vốn điều lệ của ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng. Cá biệt có một số các ngân hàng có vốn tự có tương đối cao như: Agribank hơn 10 nghìn tỷ VND; Vietcombank hơn 12 nghìn tỷ VND (tính đến cuối 2007) .Nhưng vẫn chưa bằng một ngân hàng hạng trung bình trong khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 16000 tỷ VND. Tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng quốc doanh chiếm đến 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp ( dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của NHNN và thông lệ quốc tế ( 8% ). - Hệ thống dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng,chiếm trên 80% tổng thu nhập lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp mà phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn vay của ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Cơ cấu hệ thống tài chính mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế là chủ yếu. Tính chung cho cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng: Mặc dù hệ thống ngân hàng dang phát triển rất mạnh, nhưng trong số đó không ít ngân hàng yếu kém. Chính vì vậy, việc mua bán, sát nhập ngân hàng là một điều cấp bách. Điều đáng lo ngại nhất là tiêu cực trong vay vốn hỗ trợ, các ngân hàng đã chuẩn bị triển khai hỗ trợ lãi suất.Theo các ngân hàng, việc triển khai hỗ trợ lãi suất sẽ không gặp nhiều khó khăn vì tất cả các khoản vay đều phải tuân theo quy định tín dụng thông thường, rồi mới áp dụng hỗ trợ lãi suất. Có nghĩa là để được vay vốn hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp phải đúng đối tượng, đáp ứng đủ điều kiện tín dụng và sau đó là điều kiện hỗ trợ lãi suất. Tuy vậy, điều khiến các ngân hàng lo lắng nhất không phải là việc xác định đúng đối tượng, xét duyệt hồ sơ mà chính là làm sao vốn được sử dụng đúng mục đích. Vì rất nhiều người quan niệm hỗ trợ lãi suất là khoản cho không của chính phủ nên rất muốn tiếp cận để vay vốn. Đây sẽ là sức ép cho các ngân hàng và các cán bộ thực hiện trong khi thực hiện hỗ trợ lãi suất vì có rất nhiều doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn vốn giá rẻ này, nếu không làm tốt có thể sẽ xảy ra tiêu cực.Vốn hỗ trợ lãi suất là để doanh nghiệp vượt qua khó khăn, kinh doanh sản xuất tốt chứ không phải là để gia tăng thêm nợ xấu. ĐIỂM YẾU (Weaknesses)  Nội dung  Tỷ lệ (%)  1 Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.  90  2 Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém.  90  3 Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám.  90  4 Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các NHTM VN đều thua kém các ngân hàng trong khu vực.  70  5 Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng.  80  6 Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau.  50  7 Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro.  80  8 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán.   80  Phần 3 : Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các NHTM ở VN * Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng tài chính hiện nay nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng: Để ngày càng phát huy được sức mạnh của mình, hệ thống ngân hàng Việt Nam không chỉ đưa ra các giải pháp chống đỡ khủng hoảng tức thời, mà cần có những giải pháp lâu dài để hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên vững vàng và hiệu quả hơn. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu là không đáng kể  đối với ngân hàng Việt Nam vì các ngân hàng Việt Nam không tiếp cận với các sản phẩm “độc hại" cũng như không nằm trong quyền kiểm soát của các ngân hàng nước ngoài trong diện rủi ro cao. Bên cạnh đó, các ngân hàng cổ phần lớn đều tăng vốn cổ đông, duy trì mức lợi nhuận và cải thiện danh mục đầu tư. Các NHTMnhà nước đã xiết chặt cơ chế cho vay và thu lợi nhuận lớn thông qua việc mua lại trái phiếu bán ra bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Thậm chí khối ngân hàng cổ phần nhỏ và yếu hơn cũng thành công trong  việc tăng vốn điều lệ lên tới mức tối thiểu theo qui định. Do bước đầu đã khống chế thành công lạm phát, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, và cũng là một nước ổn định về chính trị với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam lại đang đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Đây chính là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, vì khi hệ thống tài chính thế giới gặp rủi ro thì các nhà đầu tư sẽ rút vốn để đầu tư vào những nơi có ít rủi ro để bảo toàn giá trị và sinh lời. Cũng thông qua các nhà đầu tư nước ngoài, lĩnh vực bất động sản và thị trường chứng khoán của nước ta sẽ sôi động hơn. Nói chung, với kết quả như hiện nay, các ngân hàng Việt Nam trong cuộc khủng hoảng đã phần nào biết đẩy rủi ro đi và tận dụng được một số cơ hội tốt. Tuy nhiên, không vì thế mà các ngân hàng và các tổ chức tài chính lại dừng lại ở đây, các ngân hàng vẫn luôn phải tỉnh táo xây dựng  một hệ thống vững vàng để hoạt động hiệu quả và phát huy được sức mạnh. Một trong các biện pháp giải quyết tận gốc khủng hoảng là tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Trong tình hình hiện nay, để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, các ngân hàng Việt Nam nên đẩy mạnh: - Xây dựng mạng lưới an toàn tài chính quốc gia nhằm ngăn ngừa và kiểm soát khủng hoảng ngân hàng. Mạng lưới này thường bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia và tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời mạng lưới này phải đưa ra được các phương án cụ thể để xử lý những khía cạnh riêng có thể  gây ra trước hoặc tồn tại trong cuộc khủng hoảng. - Xây dựng quy chế quản lý ngân hàng hiệu quả: Qua những diễn biến của hoạt động ngân hàng năm 2008, Việt Nam cần xây dựng những qui định và qui chế quản lý ngân hàng cần thiết để đảm bảo việc thiết lập một hệ thống tài chính lành mạnh. -Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Trước mắt, năng lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng cần được nâng cao để đủ khả năng thực hiện các hoạt động hỗ trợ và chi trả khi có nhiều ngân hàng gặp khó khăn. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể nghiên cứu, xem xét và có định hướng cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền sử dụng cớ chế chính thức  xử lý sớm ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ, có quyền tiếp nhận và thanh lý tài sản và giải quyết những nghĩa vụ nợ của ngân hàng bị đổ vỡ. Đồng thời qui định rõ vai trò và nhiệm vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi  khi xảy ra khủng hoảng. - Cuối cùng là thực hiện minh bạch và công khai thông tin: Công khai và minh bạch thông tin là điều kiện cần thiết  để nâng cao hiệu quả của chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Vì sau khủng hoảng, minh bạch và công khai thông tin góp phần xử lý khủng hoảng một cách tích cực. Do vậy, cần  xây dựng cơ chế công khai và minh bạch thông tin về hoạt động ngân hàng, trong đó bao gồm thông tin của từng ngân hàng. Công khai thông tin cơ bản về hoạt động ngân hàng, thu nhập và bản cân đối tài sản cần được mở rộng từng bước và theo một tiến trình phu hợp. Những thông tin này cho phép chủ nợ ngân hàng và người đầu tư có được bức tranh tổng thể về lợi nhuận ngân hàng, vốn, tài sản, dự phòng đối với từng loại khoản vay một cách kịp thời. Để đảm bảo chất lượng thông tin, việc chuẩn bị báo cáo tài chính cần phù hợp với tiêu chuẩn kế toán quốc tế và theo mẫu báo cáo thống nhất. Nhờ vậy hiệu quả của công khai thông tin cũng được cải thiện vì đã tạo điều kiện cho công chúng có thể so sánh hoạt động của các ngân hàng với nhau (cả trong nước và ngoài nước). Bên cạnh đó, Việt Nam có thể từng bước công khai kết quả xếp loại tín dụng của các tổ chức ngân hàng trên các phương tiện truyền thông. Dù vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị các chỉ số đánh giá xếp loại tín dụng, Việt Nam cần khuyến khích các ngân hàng thực hiện đánh giá xếp loại hoạt động bởi các tổ chức quốc tế chuyên nghiệp và có uy tín, như thế, ngân hàng mới duy trì được sự ổn định, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động và quản trị tốt các rủi ro. - Tiếp tục ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của ngân hàng thương mại ở Việt Nam 2006-2010.doc
Tài liệu liên quan