Đề tài Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU 4

B. NỘI DUNG 6

CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ 6

1.1. Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá 6

1.1.1. Quan niệm công nghiệp hoá- Thực chất công nghiệp hoá 6

1.1.2. Vì sao hiện nay công nghiệp hoá lại gắn với hiện đại hoá 7

1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá 8

1.2. Tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá 9

1.2.1. Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá 9

1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ 11

1.2.3. Nhà nước với vai trò phát triển nguồn vốn 13

1.2.4. Vai trò của Nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá 14

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA 16

2.1. Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá 16

2.1.1. Việc đề ra mục tiêu chiến lược kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá 16

2.1.2. Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá trình công ngiệp hoá 16

2.1.3. Tạo nguồn lực cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 17

2.1.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay 18

2.1.4. Phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 20

2.2. Chính sách phát triển công nghệ 21

2.2.1. Phát triển công nghệ sản xuất 21

2.2.2. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học 23

2.2.3. Nâng cao hiệu quả quảnlý Nhà nước về khoa học và công nghệ trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá 24

2.2.3.1. Một số thành tựu về ứng dụng khoa học và công nghệ ở nước ta trong thời kì đổi mới 24

2.2.3.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ 25

2.3. Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn 26

2.3.1. Thực trạng huy động vốn của Nhà nước 26

2.3.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn 27

2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá 29

2.4.1. Thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước 29

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 32

3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá 32

3.1.1. Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá 32

3.1.2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá 32

3.1.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 33

3.1.4. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 36

3.2. Chính sách phát triển khoa học công nghệ 39

3.2.1. Công nghệ nước ngoài 39

3.2.2. Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước 40

3.2.3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về KH - CN 42

3.3. Phát triển nguồn vốn 42

3.3.1. Giải pháp huy động vốn 42

3.3.2. Giải pháp sử dụng và quản lý vốn 44

3.3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy tài chính quốc gia và công tác kiểm toán kế toán 45

3.4. Giải pháp trong vấn đề quản lý 48

3.4.1. Xác định đúng phương hướng của cơ chế quản lý 48

3.4.2. Xây dựng hệ thống luật kinh tế 49

C. KẾT LUẬN 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO 53

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cực, làm các doanh nghiệp Nhà nước độc lập hơn, tự chủ hơn trong sản xuất và tiêu thụ luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam và một loạt các thông tư quyết đinh cụ thể khác của Nhà nước đã tạo điều kiện ban đầu thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước nhanh chóng đổi mới công nghệ sản xuất. Những qui định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước đã: - Tạo ra nhu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ - Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng (các doanh nghiệp) quyết định lựa chọn mua bán công nghệ kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh chủ động sử dụng có hiệu quả hơn những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. - Mở ra những hình thức mới không những tiếp cận mà còn thu hút được công nghệ tiên tiến của thế giới. Báo cáo tại hội thảo kinh tế Việt Nam, bộ trưởng bộ khoa học công nghệ và môi trường Đặng Hữu đã đánh giá: “Xem xét lại trong 363 dự án với tổng số vốn gồm 2,7 tỉ USD và các hợp đồng chuyền giao công nghệ khác thấy rằng nhiều công nghệ mới được đưa vào Việt Nam đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ chung của sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm”. Đồng thời bên cạnh những mặt tích cực những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ phục vụ công nghiệp hoá cũng còn có những mặt hạn chế tồn tại đó là: - Thiếu sự định hướng rõ rệt trong đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Hiện nay, nhà nước vẫn chưa xác định được chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia làm cơ sở định hướng cho các hoạt động khoa học và công nghệ, hoạch định chính sách công nghệ .Do thiếu định hướng hoạt động và chính sách công nghệ, cụ thể hoá định hướng thành các quy định quản lý nên phải thừa nhận rằng hiện tại các hoạt động để phát triển công nghệ đang diễn ra một cách tự phát, thiếu sự quy hoạch và phối hợp tổng thể cả trong ngành lẫn ở địa phương. - Thiếu sự quan tâm tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ đối với tính ổn định nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự tin tưởng an tâm từ phía người đầu tư trong và ngoài nước là một yêu cầu rất quan trọng khi hợp tác. Những đổi mới trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn chưa được đáp ứng yêu cầu này. Nhiều văn bản của đảng nhà nước, quốc hội đều nhận xét về môi trường kinh tế hiện naylà: “Chinh sách quảnlý vĩ mô có nhiều sơ hở và thiếu sót, kỉ luật phép nước không nghiêm”. Nhà nước cần đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế nhằm tạo ra niềm tin cho các hoạt động đầu tư phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Thiếu sự khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng để đảm bảo tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá. Sự yếu kém về hàng hoá dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở nước ta đang là một trong những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ. Nó đã và đang để tuột nhiều dự án đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi đặc biệt so với thông lệ chung của quốc tế. 2.2.2. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học Các chính sách cơ chế của nhà nước chưa tạo ra động lực kích thích đối với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Sự phát triển khoa học và công nghệ vừa là mục tiêu vừa là phương tiện của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Con người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy bởi vì con người là yếu tố chủ động, năng động của sự phát triển ấy. Thế nhưng hiện tại lao động làm việc trong lĩnh vực này đang thiếu sự khuyến khích, kích thích cần thiết. Nhận xét về các chính sách đối với cán bộ khoa học công nghệ, nghị quyết 26 của bộ chính trị vừa qua đã chỉ rõ: “Chính sách chế độ đãi ngộ trong khoa học còn nhiều điều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa. Lao động chất xám nói chung rẻ hơn lao động giản đơn. Điều kiện tối thiếu để làm việc và sinh hoạt của cán bộ khoa học chưa được đảm bảo”. Hiện nay, với yêu cầu của công nghiệp hoá thì chất lượng, trình độ kĩ thuật và tay nghề của lao động nước ta còn quá thấp. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục đào tạo có hệ thống cơ bản chỉ chiếm 11% trong tổng số lao động toàn xã hội. Mặt bằng dân chí thấp, lao động trí tuệ, lao động chân tay có trình độ đại học, sau đại học còn ít.Nhìn tổng thể mà xét thì về mặt lượng nguồn lao động của nước ta là lớn nhưng về mặt chất thì chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy phải có những giải pháp nhằm nâng cao trình độ lao động phát triển cán bộ khoa học kĩ thuật để tạo ra một sự biến đổi về chất lực lượng lao động nước ta. 2.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá 2.2.3.1. Một số thành tựu về ứng dụng khoa học và công nghệ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới Đất nước ta, sau 12 năm đổi mới toàn diện, đã chấn hưng được nền kinh tế, đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ đã và đang có mặt ở hầu hết mọi lĩnh vực đời sống, sinh hoạt và sản xuất của xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Công nghệ sinh học đã và đang cải thiện chất lượng các giống cây con.Công nghệ súng bắn gien đã được ứng dụng thành công tạo ra giống lúa mới. Đang thử nghiệm trên diện rộng chế phẩm EM hay các công nghệ phân vi sinh Biogas... trong công nghiệp. Trong y học, nhiều công nghệ mới đang được tiếp tục đưa vào ứng dụng như: Laze phối hợp chất phát quang để điều trị ung thư, vật liệu các bon trong phẫu thuật ghép xương, thay thận, hội chuẩn từ xa... Về công nghệ vật liệu mới, nhiều loại com-pô-dit, sợi các bon, gồm men sứ cao cấp đã được nghiên cứu ứng dụng phục vụ sản xuất và tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Ngành năng lượng đẩy mạnh công nghệ tiết kiệm và sản xuất năng lượng tái tạo, hình thành nhiều làng ở vùng sâu, vùng xa dùng năng lượng cung cấp bởi pin mặt trời. Công nghệ thông tin đã và đang sản xuất phần mềm, hình thành mạng máy tính quốc gia. Công nghệ xử lý sự cố máy tính năm 2000 còn gọi là bài toán Y2K đang được khẩn trương tiến hành nhiều kết quả tiên tiến của công nghệ thông tin như: Nhận dạng chữ viết, tạo mã và giải mã để đảm bảo an toàn trong không gian điện tử, thử nghiệm mạng thông tin vệ tinh toàn cầu (nối mạng trực tiếp từ thuê bao qua vệ tinh gọi đi các thuê bao khác ở trên toàn hành tinh)...Có nhiều hứa hẹn ứng dụng với hiệu quả cao. Bên cạnh đó, đã và đang hình thành các cơ sở, các khu công nghiệp sản xuất các máy móc thiết bị tiên tiếnnhư: Tổng đài số cỡ lớn, cáp quang hay các công nghệ hiện đại trong thi công cầu, đường, xây dựng công trình nhà cao tầng, ứng dụng thành công nhiều trang thiết bị cơ khí điều khiển theo chương trình. Đặc biệt đã hình thành mạng phòng thí nghiệm quốc gia từ các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu, các trường đại học, một khu công nghệ cao cho cả nước và khu vực ở Hoà Lạc (Hà Tây)... 2.2.3.2. Thực trạng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Cuối tháng 1-1999, hội nghị khoa học và công nghệ toàn quốc đã được tổ chức nhằm đánh giá kết quả, tồn tại và kiến nghị các giải pháp đẩy mạnh thực hiện mục tiêu nhiệm vụ khoa học và công nghệ mà nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương đảng khoá VIII đã đề ra. Về kết quả đạt đạt được: Tiềm lực khoa học và công nghệ có bước tiến mới, bao gồm: Nhânlực khoa học và công nghệ được bổ xung, tăng cường mỗi năm khoảng 180 nghìn người. Trình độ cán bộ khoa học và công nghệ, nghiên cứu khoa học cơ bản được nâng lên. Hình thành được một số khu công nghiệp với các hình thức đầu tư nước ngoài khác nhau. Các hoạt động khoa học xã hội nhân văn đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, cấp bách, phục vụ sự nghiệp đổi mới của đảng. Hội đồng lý luận trung ương được thành lập. Nhiều đề tài khoa học trong lĩnh vực này vừa cơ bản, chiến lược, vừa bước đầu đi vào giải quyết các vấn đề cụ thể của nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Khoa học tự nhiên, công nghệ và môi trường đã thực hiện đúng tiến bộ với 145 đề tài trong 11 chương trình nghiên cưú khoa học cấp Nhà nước. Nhiều đề tài cấp bộ, tỉnh, thành phố trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y học, tài nguyên và môi trường...Đã được xây dựng nhiều chương trình đề tài ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Những tồn tại cần khắc phục: Quản lý Nhà nước trong khâu thẩm định, giám định còn nhiều sơ hở và lúng túng nên nhiều cơ sở sản xuất đã nhập một số công nghệ lạc hậu gây tốn kém không ít tiền của như: Xi măng lò đứng, một số dây chuyền mía đường... Trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghệ còn nhiều kẽ hở nên đã có các vụ kiện về quyền tác giả trong xuất bản hay ăn cắp kiểu dáng sản phẩm, hiện tượng hàng giả, hàng nhái vẫn có chiều hướng gia tăng...Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở một số cơ sở không thiết thực, trong thực hiện thiếu tính khoa học, khi nghiệm thu thiếu khách quan, đôi khi được đánh giá là “xuất sắc” nhưng lại phải xếp vào “lưu trữ” vì không ứng dụng được vào thực tế. Việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn mất cân đối, đặc biệt là các ngành sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, lực lượng khoa học trong lao động trực tiếp thiếu trầm trọng nên việc phổ biến, đưa khoa học và công nghệ vào thực tế sản xuất, đến các vùng sâu, vùng xa còn rất hạn chế và còn nhiều khó khăn. 2.3. Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn 2.3.1. Thực trạng huy động vốn của nhà nước Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lại, nhờ thực hiện chính sách tài chính thắt chặt, Nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát hành tiền cho tiêu dùng của ngân sách, số thu không những đã bù đắp số chi thường xuyên mà còn dành ra một phần để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhưng nếu chỉ dùng số tiền tích luỹ đó thì sẽ không đủ để phát triển kinh tế. Do đó Nhà nước đã có những biện pháp để huy động vốn trong và ngoài nước. Việc huy động vốn trong nước bằng các hình thức tín phiếu, trái phiếu tuy có phát triển song số vốn huy động được còn rất hạn chế và chủ yếu vẫn là nguồn vốn ngắn hạn (chiếm 90% doanh số phát hành). Hình thức huy động vốn còn đơn điệu. Hình thức tín phiếu kho bạc với thời hạn dài (3 năm) hầu như chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của dân cư, và chủ yếu là dùng biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp phải mua. Tuy Nhà nước đã thiết lập được hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước quảnlý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Nhưng tổng số vốn huy động trong dân cư bằng các hình thức qua kênh ngân hàng và ngân hàng như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, tiền tiết kiệm...Gần đây mới chỉ đạt 8000 tỉ đồng/năm, chiếm khoảng 5% GDP và chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy, nếu so với các nước cùng khu vực Đông Nam á thì tỷ lệ vốn trong nước để đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta còn thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do một số chính sách tài chính tiền tệ hiện nay chưa tạo điều kiện và khuyến khích thoả đáng các doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như chính sách thuế, chế độ thu khấu hao. Các hình thức huy động vốn chưa được mở rộng. Người dân chưa thật tin tưởng vào sự ổn định kinh tế, còn sự lạm phát khủng hoảng. Kế đến là Nhà nước chưa có nhiều hình thức huy động vốn linh hoạt, có lãi suất hấp dẫn cũng như chưa tạo ra được môi trường phát lý, môi trường kinh tế và bộ máy nhân sự đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. 2.3.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn Những năm gần đây, đầu tư của Nhà nước bước đầu đã có một số thay đổi theo chiều hướng tốt, một số công trình đã phát huy tác dụng làm tăng thêm cơ sở vật chất kĩ thuật cho bước mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.Tuy nhiên nhìn chung việc sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước đến nay vẫn còn rất lãng phí và kém hiệu quả. Quan niệm của Nhà nước về đầu tư còn đơn giản, chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản để làm tăng tài sản cố định, chưa quan tâm thích đáng và gắn bó với đầu tư xây dựng cơ sở nguyên liệu, đầu tư vào con người và phát triển khoa học kĩ thuật. Đối với cơ cấu đầu tư cũng còn nhiều bất hợp lý: Nhà nước chưa chú ý thích đáng đến đầu tư cho kết cấu hạ tầng, hiệu quả vốn đầu tư thấp do không ít trường hợp đầu tư sai, cơ chế cấp phát vốn của Nhà nước vẫn còn mang tính chất bao cấp, thất thoát, tăng phí nhiều.Kết quả tính toán cho thấy hiệu quả vốn đầu tư hiện nay là rất thấp thể hiện qua sự so sánh giữa tổng số vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định tăng thêm như sau: Thời kì 1986 - 1990 cứ bỏ ra 100 đồng vốn đầu tư thì chỉ thu được khoảng 50 động giá trị tài sản tăng thêm, năm 1991 là 51,5 đồng và năm 1992 là 48,2 đồng, tỉ lệ thất thoát lên đến 30%. Sở dĩ có sự thất thoát lớn như thế là do cơ chế cấp phát, thanh toán đến giao nhận thấu, nghiệm thu, quyết toán công trình có nhiều cơ quan quản lý nhưng lại thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể, không cơ quan nào chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối về số vốn đầu tư của Nhà nước. Tình hình quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều cần phải xem xét lại. Những năm qua vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta tuy tăng nhanh qua các năm, song vẫn còn có sự mất cân đối về cơ cấu đầu tư, việc chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam còn bị hạn chế. Trong quá trình thực hiện luật đầu tư và triển khai các dư án đã và đang xuất hiện những tiêu cực trong việc lợi dụng sơ hở trong cơ chế chính sách của Nhà nước. Có thực trạng trên là do: Luật đầu tư của Nhà nước dù đã xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển nhưng lại chậm đưa ra danh mục các dự án gọi vốn và còn bị động trong gọi vốn. Chính sách tài chính chưa rõ ràng trong xác định ưu đãi theo vùng lãnh thổ cũng như chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh vào lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Một số năm do bội chi nên Nhà nước đã phải dùng cả vốn vay của nước ngoài để tiêu dùng cho ngân sách, làm đồng vốn vay không phát huy được hiệu quả. Nhà nước khá chú trọng vay nợ nhưng xem nhẹ hiệu quả sử dụng vốn vay và nghĩa vụ trả nợ. Tính chất bao cấp trong việc vay và sử dụng vốn còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Nhà nước chưa có một chiến lược vay nợ, tiếp nhận và sử dụng vốn vay nước ngoài một cách chủ động, có tính đến nhu cầu, khả năng hấp thụ và trả nợ của đất nước nên việc vay nợ còn diễn ra rất tuỳ tiện. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư vẫn còn tồn tại, người dân chưa thật tin tưởng vào đường lối đổi mới của Nhà nước. Trong một số chính sách kinh tế tài chính, nhà nước chưa có các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực, ngành nghề mũi nhọn cần phát triển nhanh chóng để phục vụ công nghiệp hoá. Trong những năm tới, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao Nhà nước tất yếu phải bảo toàn phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa. 2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá 2.4.1. Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước Các biện pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ yếu nhằm vào những hoạt động điều hành chỉ đạo việc hình thành và triển khai thực hiện chủ trương của Nhà nước trong nền kinh tế. Các biện pháp quản lý của Nhà nước ta trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Trong nhận thức về công nghiệp hoá đã có những nhìn nhận mới cả về mục tiêu, nội dung, quy mô lẫn biện pháp quản lý. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay là tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật và trình độ công nghiệp, nâng cao trình độ hiện đại hoá trong các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân. Chủ trương đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đã được xác định toàn diện thích hợp hơn. Đó là thực hiện công nghiệp hoá toàn diện trong các ngành kinh tế quốc dân, có trọng điểm là công nghiệp, ưu tiên ngành công nghiệp chế biến, có sự kết hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương trong đó phải ưu tiên cho các vùng trọng điểm. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá với sự đầu tư phát triển toàn diện nhưng trong đó chú trọng nhất về công nghệ và tri thức công nghệ. Biện pháp thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng được Nhà nước điều chỉnh trong đó rõ nhất là: Thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện kinh tế xã hội theo từng cấp, căn cứ vào điều kiện và lợi thế so sánh cụ thể mà xác định quy hoạch xác đinh các công trình theo yêu cầu công nghiệp hoá. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung và sớm dứt điểm để nâng cao hiệu quả đầu tư, công tác đào tạo cán bộ được tăng cường mạnh ở những ngành chuyên môn đang rất thiếu như: Công nghệ, marketing quản trị kinh doanh và những lĩnh vực không thể thiếu khi thực hiện công nghiệp hoá. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất trong biện pháp quản lý thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cụ thể là: Phương hướng khai thác tiềm năng chưa rõ ràng chính xác. Nhìn chung các địa phương đều đã xây dựng qui hoạch phát triển, trong đó phân tích khá rõ những điều kiện và lợi thế của địa phương mình, nhưng phân tích để làm rõ những lợi thế so sánh trong xu thế phát triển chung của nước ta và thế giới còn có những điểm khác xa nhau. Tiến trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa được nhà nước dịch ra cụ thể. Về tổng quát, quá trình công nghiệp hoá sẽ được thực hiện trong thời gian từ nay đến năm 2020 nhưng các bước cụ thể chưa được xác định rõ ràng. Do đó trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển đã nảy sinh một số vấn đề. Ví dụ như vấn đề thực hiện phát triển công nghệ chế biến như thế nào và vào lúc nào khi nguồn nguyên liệu chưa được phát triển...Giải pháp vay vốn và sử dụng vốn vay chưa thật thuyết phục trong cân nhắc về hậu quả. Nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá rất lớn phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài.Nhưng Nhà nước vẫn chưa tính toán kĩ trong việc thanh toán trả nợ sau này. Việc phát triển hiện nay với sức đè nặng của các món nợ trong 20-25 năm nữa. Phương hướng chỉ đạo nhập công nghệ chưa cụ thể. Nhiều vấn đề trong chủ trương nhập công nghệ không được chỉ đạo dứt khoát và thực hiện thống nhất như: Xác định trình độ công nghệ tiên tiến ở mức nào, cơ cấu công nghệ cần nhập ra sao, hiện đại hoá các công nghệ truyền thống như thế nào.Việc kiểm soát nhập công nghệ qua các dự án đầu tư của nước ngoài cũng không chặt chẽ, diễn ra tình trạng nhập các công nghệ thấp công nghệ loại thải vào nước ta. Chúng ta lại quá thiếu các thông tin về công nghệ. Do vậy khi được nước ngoài giới thiệu về một công nghệ nào đó thì không có điều kiện để so sánh nhận biết được trình độ công nghệ đó tiên tiến mức nào, ưu điểm nhược điểm so với công nghệ cùng loại khác làm Nhà nước rất khó khăn trong quá trình quản lý, ảnh hưởng lớn tới quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta trong thời gian tới 3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá 3.1.1. Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá Để nâng cao vai trò của mình trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế, Nhà nước cần phải: Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế nhất là kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Nhà nước phải sớm chủ động nắm bắt sự tác động khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng thống nhất chặt chẽ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, định hướng đúng đắn kế hoạch thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước phải nắm vững nhu cầu và khả năng tiến hành công nghiệp hoá, tập trung đúng mức vào những ngành, địa phương, lĩnh vực quan trọng nhất để có thể tạo ra sự tăng trưởng nhanh với hiệu quả kinh tế cao 3.1.2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta sẽ được xác định là cơ cấu công nông nghiệp dịch vụ. Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được mô hình chiến lược của công nghiệp hoá. Cụ thể là: - Nhà nước đẩy mạnh khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. - Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa nhập khẩu mặt hàng này để tiết kiệm ngoại tệ phục vụ công nghiệp hoá. - Xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. - Nhà nước chú trọng xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Về cơ cấu giữa thị xã thị trấn, thành phố và đô thị thì: Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt công nghiệp và dân cư, tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện cần thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng trung du, tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa. Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn. Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với phát triển kinh tế xã hội. Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng và quản lý các công trình công cộng (điện, cấp, thoát nước, cây xanh...). 3.1.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Cần có nhận thức rõ ràng rằng, chiến lược trong cạnh tranh quốc tế gay gắt là vấn đề nhân tài. Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời việc bồi dưỡng nhân tài, càng không tách rời việc nâng cao phát huy năng lực nội sinh, tố chất trí tuệ của hàng triệu người lao động ở tuyến đầu sản xuất. Vì thế, công tác cán bộ phải là vấn đề đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải biết rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở đó, phát huy được năng lực cá nhân, hội tụ được trí tuệ tập thể, các thế hệ đi trước phải tôn trọng, nâng đỡ thậm chí cả học hỏi lớp trẻ, vì công việc chung. Cần nhanh chóng có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghiệp, nhất là cán bộ đầu đàn. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học, từng bước tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế. Cần phát hiện sớm các tài năng và có các hình thức đào tạo phù hợp. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể nhanh chóng tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại cuả các nước phát triển. Thực hiện công bằng, văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát triển và đào tạo nhân tài. Đảng đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này. Các bộ, ngành phải thực hiện các nghị quyết của đảng một cách nghiêm túc. Cần tạo lập các thể chế thuận lợi cho sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài trong quá trình phát triển đất nước dựa trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cũng như giáo dục và đào tạo trong cơ chế thị trường, trong nền kinh tế nhiều thành phần. Cần tuyệt đối tránh xu hướng coi trọng đầu tư của cải vật chất hơn đầu tư con người... Trong thực tế, chính sách cân bằng mức lương, mức lương khởi điểm của kỹ sư, thạc sĩ, phó tiến sĩ đều như nhau ( Hệ số 1,78) và đều đặn 2-3 năm lên lương một lần mà chúng ta đang thực hiện trong mấy năm gần đây cũng cần phải xem xét lại. Chính sách này là một trong những yếu tố cơ bản làm già hoá đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao hiện nay. Nó cũng trả lời câu hỏi vì sao sinh viên, cán bộ khoa học trẻ có năng lực trong nhiều năm gần đây không chuyên tâm nghiên cứu mà chỉ lo việc tiếp thị và ngoại ngữ, làm thuê cho các công ty nước ngoài. Đây là nguyên nhân gây ra hiện tượng chảy máu chất xám từ các cơ quan nhà nước. Vì một tương lai của đất nước ở thế kỉ XXI, vì một đội ngũ cán bộ đầu đàn và một dân tộc có tri thức cao thì cần có cơ chế, chính sách đúng đắn để động viên thanh niên học tập, rèn luyện đảm bảo những điều kiện nhất định để cán bộ công chức yên tâm làm việc. Cần đưa việc cấp bằng, chứng chỉ trong nước đi vào nề nếp. Đây là biện ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC025.doc
Tài liệu liên quan