Đề tài Vai trò của việc đào tạo kiểm toán nhà nước đến việc tăng trưởng bền vững nền kinh tế

 

 

MỤC LỤC

 

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 1

NỘI DUNG:

Phần I: Những lý luận chung về "tăng trưởng bền vững với vấn đề đào tạo kiểm toán viên nhà nước" 3

1. Dự báo tốc độ tăng trưởng và những điều cần cho tăng trưởng của Việt Nam đến năm 2010 3

2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng bền vững đối với vấn đền đào tạo cán bộ KTNN. 5

Phần II: Thực trạng công tác đào tạo cán bộ kiểm toán Nhà nước hiện nay 7

1. Những mặt đạt được trong đào tạo cán bộ kiểm toán Nhà nước 7

2. Những mặt hạn chế 9

3. Yêu cầu đối với đào tạo kiểm toán viên Nhà nước 11

Phần III: Mục tiêu, giải pháp và kiến nghị 14

1. Mục tiêu 14

2. Các giải pháp để đào tạo kiểm toán viên Nhà nước ở Việt Nam 14

3. Kiến nghị 15

KẾT LUẬN 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của việc đào tạo kiểm toán nhà nước đến việc tăng trưởng bền vững nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng trưởng bền vững nền kinh tế”. Từ đó tìm ra những giải pháp thiết thực nhất và vận dụng vào thực tế một cách nhuần nhuyễn tạo ra hiệu quả. Để hoàn thành bài viết của mình, chúng em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Ngô Trí Tuệ và Khoa Kế toán. Tuy nhiên do điều kiện còn hạn chế về thời gian cũng như trình độ, chúng em còn nhiều thiếu sót trong bài viết của mình. Rất mong các bạn, thầy cô đưa ra ý kiến và giúp đỡ. Nội dung phần I: Những lý luận chung về "Tăng trưởng bền vững với vấn đề đào tạo kiểm toán viên nhà nước Thế kỷ 21 là thế kỷ của giao lưu văn hoá toàn cầu "bất kỳ nền kinh tế nào muốn cất cánh đều phải phát huy nội lực nội lực mới là động lực chính của sự phát triển, không gì bền vững và có thể thay thế được việc huy động các nguồn tài nguyên quốc gia vào lao động sản xuất trong các lĩnh vực. Đó là con đường phát triển duy nhất bền vững và cân đối. Nó đòi hỏi sự phát triển phải thông qua: Tiết kiệm, kiểm soát tài chính chặt chẽ, đầu tư nội địa và không được coi nhẹ thị trường trong nước. Hiện nay theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế thì Việt Nam ở vào vị thế có sức hấp dẫn kém nhất trong khu vực. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng đưa ra mọi biện pháp để xây dưựg một mô hình phát triển kinh tế Việt Nam đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Về khái niệm: Tăng trưởng là tăng mức tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người, thực chất cũng là tăng sức sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì tăng trưởng là tăng mức đầu ra GNP cho nên có thể nói mức tăng trưởng được quyết định bởi các nhân tố đầu vào. Đối với nước ta hai nguồn lực được coi là chủ yếu và quan trọng nhất là vật chất và con người. Trong phạm vi bài viết này chúng em chỉ xin đề cập đến nhân tố con người sâu hơn là đội ngũ cán bộ quản lý trong đó có lực lượng kiểm toán viên nhà nước. Về mô hình: Tăng trưởng bền vững đảm bảo sự cân đối giữa công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Mà trong đó lấy nông nghiệp làm nền móng thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ. Tăng trưởng kinh tế phải giải quyết được các vấn đề xã hội như: lao động việc làm, y tế, giáo dục... 1. Dự báo tốc độ tăng trưởng và những điều kiện cần cho tăng trưởng của Việt Nam đến năm 2010. Chuyển mình cùng thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế nước ta đang đứng trước những thách thức lớn lao và sự lựa chọn hết sức khó khăn. Hiện nay qua phân tích kết quả tăng trưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã xem xét dưới giác độ cả quá trình phát triển nhưng cũng có tác giả phân chia giai đoạn 86 - 90 và 91 - 95. Giai đoạn 86 - 90 là thời kỳ mở đầu cho quá trình đổi mới toàn diện, giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng chưa cao và thiếu ổn định vững chắc. Giai đoạn 91 - 95 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao và khá ổn định. Tuy nhiên tới giai đoạn 96 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á nền kinh tế nước ta lại có xu hướng đi xuống. Biểu hiện ở chỉ số GDP và GNP giảm, lạm phát gia tăng. Sự phát triển chưa đủ bền vững khủng hoảng cục bộ khủng hoảng tiềm ẩn trên một số lĩnh vực còn nặng và đang rình rập chuyển thành khủng hoảng kịch phát. Do đó cần có những chính sách và biện pháp để tạo ra những nguồn lực tăng trưởng bền vững trong những năm đầu thập kỷ 21. Dự kiến từ năm 2000 - 2020 nước ta sẽ hoàn thành CNH - HĐH. Khi đó nền kinh tế sẽ đi vào ổn định tăng trưởng với tốc độ cao. Các điều kiện quyết tăng trưởng cao và bền vững: Về mặt ý kiến nói chung 3 yếu tố cơ bản cho mọi mô hình tăng trưởng là: Lao động, đầu tư và công nghệ. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, bên cạnh sự coi trọng đung mức nhân tố khoa học kỹ thuật và con người thì đa số các nước có tốc độ tăng trưởng cao đều coi yếu tố đầu tư (vốn) là quyết định. Tuy nhiên, các yếu tố đề xuất ra còn ở mức khác nhau. Có ý kiến cho rằng tổng mức đầu tư cho giai đoạn 96 - 2000 cần ít nhất 65 tỷ USD. Cũng có phương án tính toán trong giai đoạn 96 - 2000 nước ta cần 45 - 50 tỷ USD chiếm 29 - 31% GDP. Vậy quy mô đầu tư và tỷ lệ đầu tư so với GDP từ nay tới năm 2010 phải ở mức nào? Về cơ cấu nguồn vốn có những tính toán cụ thể như nguồn huy động trong nước chiếm 18 - 20% GDP, còn đầu tư nước ngoài chiếm 10 - 12% GDP. Thực tế đến nay, việc huy động vốn trong dân là rất khó khăn mới chỉ đạt khoảng 1/2. Vậy Nhà nước cần đề ra những chính sách và biện pháp gì để có thể khai thác nguồn vốn trong nước nói chung và trong dân nói riêng. Về nhân tố con người, vấn đề đặt ra là trình độ cách tổ chức sắp xếp nguồn lao động hiện nay. Đội ngũ công nhân Việt Nam đa phần có trình độ rất thấp chưa đủ để tiếp thu trình độ khoa học tiến bộ. Đội ngũ trí thức vẫn còn quá ít ỏi. Ngoài ra bộ phận cán bộ quản lý kinh tế nhiều nơi chưa được đào tạo chính quy đặc biệt là đội ngũ kế toán viên kiểm toán viên. Thậm chí nhiều cán bộ còn lạm dụng chức quyền dẫn tới quan liêu cửa quyền làm ăn phạm pháp ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế như EFCO - Minh Phụng. Nhân tố công nghệ cho quá trình tăng trưởng cao và bền vững đang được các nhà kinh tế quan tâm. Tuy nhiên việc xây dựng một chiến lược nghiên cứu khoa học công nghệ như thế nào phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta trong bối cảnh hoà nhập vào cộng đồng quốc tế và cạnh tranh quốc tế vẫn là vấn đề cần được làm sáng tỏ. 2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng bền vững đối với vấn đề đào tạo cán bộ KTNN. Tăng trưởng bền vững Tài nguyên Con người Công nghệ Tài nguyên Vốn đầu tư Trí thức kỹ sư Cán bộ quản lý Người lao động Kế toán Kiểm toán Tài vụ Hội đồng giám đốc Hội đồng quản trị Giám đốc Thông qua sơ đồ trên ta thấy kế toán, kiểm toán là hệ thống không thể thiếu góp phần vào nguồn lực con người tạo nên tăng trưởng bền vững. Hiện nay kiểm toán nói chung vẫn là hoạt động hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Để đảm bảo cho việc xét duyệt các báo cáo quyết toán do các vụ tài vụ của các bộ chủ quan, phòng tài chính của các sổ chủ quản tiến hành, ngày 11/07/1994 KTNN chính thức được thành lập theo nghị định 70/CP với chức năng "xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp". Chỉ sau một năm thành lập, KTNN đã vừa ổn định bộ máy, xây dựng các văn bản pháp quy, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ kiểm toán và thực hiện những cuộc kiểm toán và thực hiện những cuộc kiểm toán có quy mô lớn góp phần chấn chỉnh công tác quản lý tài chính kế toán và thu nộp cho ngân quỹ hàng hàng trăm tỷ đồng. Phần II: Thực trạng công tác đào tạo cán bộ kiểm toán nhà nước hiện nay. Khái niệm về kiểm toán viên Nhà nước: KTVNN là những công chức làm nghề kiểm toán. Do đó, họ được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm toán nhà nước phân công. Đồng thời họ được xếp vào ngành bậc chung của công chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ): - Kiểm toán viên - Kiểm toán viên chính - Kiểm toán viên cao cấp. 1. Những mặt đạt được trong đào tạo cán bộ kiểm toán nhà nước. Ngày 11/7/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 70/CP về việc thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước. Đây là một cơ cấu mới thuộc Chính phủ, nó là công cụ kiểm soát vi mô của Nhà nước. Sự ra đời của kiểm toán Nhà nước (KTNN) là phù hợp với công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng từ trước đây hơn 10 năm, nó phản ánh sự chuyển hướng tích cực của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước pháp quyền và chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Như vậy KTNN hình hành ở nước ta là sản phẩm tất yếu của công cuộc đổi mới, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế chuyển đổi, đồng thời cũng thể hiện sự gia tăng đáng kể của công tác kiểm tra, kiểm soát trên bình diện vĩ mô của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, KTNN Việt Nam khi mới ra đời đã có những đặc trưng khác biệt so với các nước. ở các nước có nền kinh tế phát triển, KTNN đã có hàng trăm năm và đã chứng tỏ là một công cụ có hiệu lực cao của Nhà nước trong việc kiểm soát nền tài chính công. Còn ở nước ta, KTNN ra đời trong điều kiện không có tổ chức tiền thân, hệ thống kiểm soát của ta đang trong quá trình đổi mới sắp xếp lại. Vì lẽ đó, công cuộc tạo dựng tổ chức, cơ chế hoạt động xây dựng các cơ sở pháp lý cùng các chuẩn mực, quy trình công nghệ kiểm toán đều như bắt đầu từ đầu. Nhưng được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ cho đến nay chúng ta đã làm được một số việc tuy mới chỉ là bước đầu nhưng lại hết sức quan trọng: Chính phủ đã raNghị định 70/CP về việc thành lập cơ quan KTNN, Thư tướng Chính phủ đã ra quyết định 61/TTG ngày 24/1/1995 ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Những cơ sở pháp lý đó góp phần xây dựng tổ chức, tuyển dụng cán Bộ vận hành một bộ máy hoạt động, lúc đầu năm 1994 chỉ có ba bốn chục người đến nay đã có xấp sỉ 500 kiểm toán viên Nhà nước. Tất cả đều tốt nghiệp đại học chuyên ngành kế toán, tài chính kế toán và một số ngành kinh tế kỹ thuật. Đó là những thành tích đạt được về mặt số lượng đội ngũ cũng như chất lượng. Bên cạnh đó còn nhiều mặt tốt trong tổ chức đào tạo như: dự án quản lý tài chính Việt Nam - Canada với mục tiêu nâng cao năng lực hoạch định chính sách tài chính bán bộ tài chính Việt Nam thông qua các hoạt động đào tạo là phù hợp với yêu cầu tình hình hiện nay. KTNN Việt Nam là thành viên cua hai tổ chức INTOSAI và ASOSAI, ngoài ra còn quan hệ với một số nước như: Đức, Malaysia, Nhật, Vương quố Anh, Thái Lan... mối quan hệ đó đã giúp cho việc đào tạo kiểm toán viên Nhà nước. Ngoài ra, việc tổ chức đào tạo trong nước ở các trường Đại học đối với kiểm toán viên chính quy cũng được phát triển. Mới đầu chỉ có trường Đại học KTQD sau đó mở rộng sang các trường khác hứa hẹn cung cấp. Một khối lượng kiểm toán viên có trình độ cao trong tương lai Bên cạnh đó đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đã góp phần tích cực trên mặt trận chống tham nhũng, củng cố hoạt động tài chính, bộ máyNhà nước, cung cấp thông tin, đòi hỏi về phía thực tế. Kiềm toán Nhà nước đã tiến hành gần 1500 cuộc kiểm toán đối với hầu hết các tỉnh thành, nhiều bộ ngành và hàng trăm doanh nghiệp lớn của Nhà nước, giúp tiết kiệm và tăng thu cho Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Như vậy nó chứng minh cho sự phát triển không ngừng của năng lực kiểm toán viên Nhà nước. Tuy nhiên, KTNN mới ra đời, trong điều kiện chưa có tổ chức tiền thân hệ thống kiểm soát còn đang trong điều kiện đổi mới sắp xếp lại nền đội ngũ. Kiểm toán viên vẫn còn "non trẻ" không tránh khỏi những hạn chế chưa đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển sự nghiệp KTNN trong thời kỳ đổi mới. 2. Những mặt hạn chế a. Về mặt số lượng: Đội ngũ cán bộ và các chức danh KTV hiện nay đang còn thiếu trầm trọng - cho đến nay tổng số mới có gần 500 cán bộ KTNN. Hơn nữa để phù hợp với quá trình phát triển của chức năng nhiệm vụ và sự mở rộng khối lượng kiểm toán, quy mô của KTNN, những yêu cầu gia tăng về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức KTNN sẽ xuất hiện ngày càng lớn, càng nhiều. Đòi hỏi chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo để bổ sung cho lực lượng cán bộ đang còn thiếu. b. Về mặt chất lượng: Thực tế cho thấy rằng những người đã giữ những cương vị công tác chức ngành tài chính của khối trung ương và địa phương, kế toán trưởng của các tổng công ty (hoặc tương đương), kế toán trưởng của các doanh nghiệp hạng I nhìn chung là bề dày trong công tác quản lý, có khả năng tổng hợp ở tầm vĩ mô và có thể tham gia việc hoạch định các chính sách, có khả năng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng số này chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số kiểm toán viên Nhà nước. Bên cạnh đó đội ngũ công tác kiểm toán Nhà nước (từ lãnh đạo, quản lý đến các kiểm toán viên) phần lớn chưa được bồi dưỡng cơ bản và bài bản về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các kiến thức có liên quan. Đội ngũ công chức kiểm toán Nhà nước chủ yếu được điều động từ các Bộ, ngành và các cơ quan đến, chưa tuân thủ những đòi hỏi nhất định. Một vấn đề nữa là mặc dù đã được đào tạo chính quy chuyên ngành về kế toán, tài chính và một số chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật khác họ có kinh nghiệm về công tác kế toán, tài chính... nhưng cũng chính đội ngũ công chức đó hiện lại chưa được trang bị đầy đủ những tri thức cần thiết để thích ứng với cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và nghiêm ngặt của một công chức Kiểm toán. Tất cả những vấn đề đó được thể hiện ở các khía cạnh sau: Một là, những kiến thức về kiểm toán: Kiểm toán là một loại hình hoạt động nghề nghiệp, đòi hỏi phải có sự đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, phong cách, kỹ năng, kỹ xảo thành thục trước khi đảm đương, thực thi nhiệm vụ. Có năng lực để hiểu các chuẩn mực được sử dụng, có đủ trình độ để hiểu biết các loại và số lượng bằng chứng cần thu thập để đi đến một kết luận phù hợp, chuẩn xác sau khi kiểm tra xem xét các bằng chứng có đủ trình độ mới làm chủ được quá trình thu nhập những tài liệu bằng chứng cần thiết với những thông tin và suy nghĩ khách quan, độc lập để đưa ra những phán đoán và quyết định chính xác. Như vậy việc thiếu hụt những tri thức và nghiệp vụ thuộc công nghệ kiểm toán có thể nói là một rào cản lớn khi kiểm toán viên thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó đến nay kiểm toán nhà nước vẫn chưa có được chương trình đào tạo nghiệp vụ riêng cho các kiểm toán viên kiểm toán nhà nước. Tuy đã có 4 khoá tập huấn nghiệp vụ Kiểm toán nhà nước Trung ương và khu vực, 2 khoá quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên. Ngoài ra còn phối hợp với dự án ADB và dự án ODA của cộng hoà Liên bang Đức, kiểm toán nhà nước đã cử nhiều đoàn cán bộ đi khảo sát, nghiên cứu chuyên đề ở nước ngoài, cử một số thực tập sinh đi nước ngoài. Nhưng đây mới chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt, hiện thời. Hai là, những kiến thức về pháp luật. Do trong một quá trình dài và đặc biệt là do chuyển sang một cơ chế mới, chúng ta chưa có những điều kiện xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phù hợp. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, kinh tế, chủ yếu dựa vào các văn bản dưới luật. Phần đông kiểm toán viên hiện có được đào tạo từ các trường kinh tế từ thời kỳ trước, nên đội ngũ công chức kiểm toán nhà nước chưa được trang bị căn bản và hoàn chỉnh mảng kiến thức về luật pháp, bao gồm ngành luật chung và nhất là luật điều chỉnh các hoạt động kiểm toán cũng như điều chỉnh hoạt động của các đối tượng kiểm toán. Ba là, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề mới xuất hiện, đặc biệt những phạm trù vĩ mô và vai trò của Nhà nước trong việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường. Những kiểm toán viên được đào tạo ở gian đoạn đại học truớc đây chưa được đầy đủ, do đó cần có chiến lược đào tạo bổ sung kiến thức. Bốn là, những tri thức ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong kiểm toán chưa được đáp ứng. Hiện nay, một mặt Nhà nước chưa đủ kinh phí trang bị hiện đại và phương tiện máy tính cho kiểm toán Nhà nước nhưng xét kỹ hơn thì đội ngũ kiểm toán viên kiểm toán nhà nước cũng chưa được đào tạo để thích ứng với yêu cầu kiểm toán trong môi trường máy vi tính. Năm là, sự tiếp cận với kiểm toán quốc tế tìm hiểu nghiên cứu về kinh nghiệm kiểm toán của các nước trên thế giới còn hạn chế. Những phương thức tổ chức, điều hành và chuẩn mực kiểm toán còn nhiều mặt chưa theo kịp với tiến trình hội nhập kiểm toán quốc tế. Việc cần thiết phải tham khảo tài liệu nước ngoài để tự học tập nâng cao trình độ và trao đổi kinh nghiệm tuy còn hạn chế do trình độ ngoại ngữ của các kiểm toán viên còn chưa hoàn thiện nên không phải đa số kiểm toán viên đều làm được điều đó. 3. Yêu cầu đối với việc đào tạo kiểm toán. Xuất phát từ vai trò của kiểm toán viên Nhà nước là: Cơ sở để Nhà nước đưa các chính sách kinh tế vĩ mô: như hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế củng cố hoạt động của các đơn vị thuộc khách thể kiểm toán Nhà nước. Góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động kế toán nói chung và hoạt động của đơn vị nói riêng: qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên Nhà nước đưa ra ý kiến nhằm xây dựng các quy định, quy tắc, chuẩn mực cho hoạt động kiểm toán kế toán. Đồng thời giúp cho các doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm chế độ kế toán nhằm xử lý chấn chỉnh kịp thời các sai phạm. Kiểm toán Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý của các đơn vị thuộc khách thể kiểm toán Nhà nước. Xuất phát từ tinh thần của Đảng và Nhà nước theo Nghị quyết hội nghị lần 3 ban chấp hành TW Đảng (Khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước đã khẳng định :"Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng" và "Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy Nhà nước". Trên quan điểm cơ bản đó, Nghị quyết TW 3 đã xác định yêu cầu đối với cán bộ công chức Nhà nước trong gian đoạn hiện nay là "cần phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết là về đường lối chính trị, về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế". Trong đội ngũ cán bộ quản lý đó có một bộ phận rất quan trọng đó là lực lượng KTVNN. Nó góp phần cho sự vững mạnh, trong sạch bộ máy Nhà nước... cho nên việc tiến hành phát triển việc đào tạo cán bộ kiểm toán là yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Xuất phát từ thực tế kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thì việc đào tạo kiểm toán viên là một tất yếu và là xu hướng hiện nay. Theo ngài Emer.B.Taats nguyên tổng kiểm toán Hoà kỳ đã từng khuyến cáo và khẳng định. "việc đào tạo KTVNN có thể là một thử thách lớn nhất mà Nhà nước của chúng ta phải đương đầu hiện nay và ngày mai. Các chuẩn mực kiểm toán có thể áp dụng và kiểm toán tối cao của một quốc gia, nhưng nếu chẳng có một khả năng nào đảm bảo cho kiểm toán hoạt động tồn tại thì chuẩn mực kiểm toán đó sẽ trở nên vô nghĩa" Do vậy ta thấy rằng việc đào tạo kiểm toán viên nói chung và đào tạo Kiểm toán viên nhà nước nói riêng là rất quan trọng. Xuất phát từ thực trạng đội ngũ kiểm toán nhà nước và những bức bách hiện nay cũng như trong tương lai khi bước sang thế kỷ 21. Ta thấy với nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao cho kiểm toán nhà nước rất lớn với 20.000 đơn vị dự toán, 61 ngân sách tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương gồm 600 ngân sách quận huyện, gần 10.000 ngân sách xã 26 ngân sách cán bộ và 21 ngân sách cơ quan thuộc Chính phủ, các văn phòng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ các tổ chức xã hội, trên 6000 doanh nghiệp Nhà nước hàng trăm công trình xây dựng cơ bản trọng điểm và các dự án Chính phủ. Trong khi đó hiện nay kiểm toán nhà nước mới có gần 500 cán bộ ở trung ương và 4 khu vực. Theo tương quan về số lượng ta thấy yêu cầu bức bách với tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm toán nhà nước hiện nay. Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra là phải thông qua hoạt động kiểm toán phải thúc đẩy sự lành mạnh hoá nền tài chính Quốc gia. Sau mỗi lần thực hiện kiểm toán phải góp phần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là góp phần chấn chỉnh nâng cao chất lượng kế toán trong các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công. Để làm như vậy thì phải có đội ngũ kiểm toán viên không những đủ về số lượng mà còn phải có phẩm chất và trình độ chuyên môn cao, phù hợp với đòi hỏi và yêu cầu của kiểm toán. Trong khi đó với thực trạng chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước hiện nay đã nêu và những căn cứ trên chúng ta cần có sớm một chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm toán nhà nước như là một sự đảm bảo cho chiến lược tăng trưởng và phát triển bền vững vào đầu thế kỷ 21. Phần III: Mục tiêu, giải pháp và kiến nghị 1.Mục tiêu Muốn xây dựng một chương trình đào tạo kiểm toán viên Nhà nước chúng ta xác định rõ mục tiêu công tác. Mục tiêu đó bao gồm: 1.1. Đạo đức nghề nghiệp: Đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau: có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và phải tôn trọng bí mật. 1.2. Năng lực làm việc: Có hiểu biết và kiến thức rộng, có đủ năng lực về chuyên môn và công nghệ kiểm toán. Nắm bắt, xử lý tình huống kiểm toán ngày càng đa dạng và phức tạp, có bản lĩnh chủ động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kiểm toán. Hiện nay đối với kiểm toán Nhà nước thì nhu cầu đào tạo là rất lớn nhưng khả năng để đáp ứng còn bị hạn chế rất nhiều. Vì vậy vấn đề đặt ra là sớm hoạch định một chiến lược đào tạo bồi dưỡng và phải có cơ sở vật chất để triển khai một cách kiên trì và quyết liệt. 2. Các giải pháp để đào tạo kiểm toán viên Nhà nước ở Việt Nam 2.1. Xây dựng một chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ giải quyết những vấn đề còn hạn chế nhằm tạo ra một đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đủ về số lượng mạnh về chất lượng (bao gồm cả phẩm hạnh về nghề nghiệp kiến thức hiện đại, trình độ và phương pháp kiểm toán, có đủ sức khoẻ để phục vụ lâu dài trong ngành) nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho từng loại kiểm toán viên. 2.2. Kiên trì thực hiện kế hoạch bồi dưỡng vào việc cập nhật hoá kiến thức cho số cán bộ cũ, trợ giúp về kinh nghiệm và kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ mới bao gồm cả kiến thức luật pháp, kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô, luật về kế toán, kiểm toán và các kiến thức bổ trợ cho việc giảng dạy và học tập... 2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Xây dựng một đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm nhằm đảm bảo qui trình đào tạo với chất lượng cao. 2.4. Xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo, củng cố và phát triển tiềm lực cho trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước để đảm bảo cho công tác đào tạo lâu dài. 2.5. Tổ chức công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo các kiểm toán viên Nhà nước, tạo nguồn kiến thức và đúc rút kinh nghiệm cho quá trình đào tạo kiểm toán viên. 2.6. Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ đầu vào nhằm cả vào hai đối tượng. Chỉ lựa chọn cán bộ cũ có đầy đủ điều kiện và thi tuyển kiểm toán viên từ những sinh viên ưu tú của trường đại học để bồi dưỡng thành một lực lượng kiểm toán viên giỏi có đủ khả năng đảm trách nhiệm vụ lâu dài và đáp ứng được nhu cầu mới. 2.7. Mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế về đào tạo bồi dưỡng kiểm toán viên nhà nước, giúp kiểm toán viên có cơ hội và điều kiện hội nhập với Quốc tế. Đây là một nhu cầu không thể thiếu được đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, kiểm toán viên Nhà nước là thành viên của hai tổ chức INTOSAI và ASOSAI và có quan hệ hợp tác với một số nước như: Đức, Anh, Nhật... mối quan hệ quốc tế đó sẽ giúp chúng ta trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm toán viên Nhà nước, cung cấp những tư liệu giáo trình, những kinh nghiệm thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nghiên cứu của kiểm toán nhà nước. 3. Kiến nghị. Hiện nay, hoạt động của kiểm toán Nhà nước vẫn còn thiếu sự bảo đảm của pháp luật. Hành lang pháp lý cao nhất cho loại hình hoạt động này chỉ dừng ở Nghị định của Chính phủ. Để hoạt động kiểm toán thực sự có hiệu quả, nhu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khuyến khích kiểm toán nhà nước phát triển mạnh. Bên cạnh đó, cần tiến hành xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn của kiểm toán viên. Sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ hành nghề của kiểm toán viên. Đặc biệt coi trọng việc gìn giữ phẩm chất đạo đức của kiểm toán viên, chú trọng nâng cao chất lượng kiểm toán. Định kỳ tổ chức học tập chính trị, rèn luyện, tu dưỡng lương tâm, đạo đức và việc hành nghề cho kiểm toán viên. Nâng cao tính trách nhiệm cá nhân của kiểm toán viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước kết quả kiểm toán và những nhận xét, kết luận của mình trong báo cáo kiểm toán. - Tăng cường kiểm tra, kiểm soát về chất lượng kiểm toán và đạo đức hành nghề của kiểm toán viên. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm qui chế hoạt động, vi phạm đạo đức hành nghề, vi phạm pháp luật để công tác kiểm toán đi vào kỷ cương nề nếp. - Ngày nay, các cử nhân kiểm toán khi ra trường vẫn chưa đủ trình độ hành nghề kiểm toán viên. Để có một đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước chất lượng cao, chúng ta phải phấn đấu để trình độ kiểm toán viên nước ta tương đương với Quốc tế. Vì vậy, việc đầu tư cho giáo dục đặc biệt là giáo dục sau đại học cũng tạo ra một tương lai sáng sủa cho ngành trong thời gian tới. Có thể nói đầu tư cho giáo dục trồng người, xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới là đầu tư có hiệu quả nhất, lâu bền nhất. Hơn nữa hiện nay kiểm toán là hoạt động hoàn toàn mới mẻ và còn non trẻ. Việc tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất để có một hệ thống đào tạo hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng là vô cùng cấp thiết. Ngoài ra Nhà nước ta nên thực hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ nói chung và kiểm toán viên nói riêng để khuyến khích họ chuyên tâm công tác. Bản thân mỗi kiểm toán viên Nhà nước, không ngừng rèn luyện nâng cao trình độ nghề nghiệp tự hoàn thiện về đạo đức. Kết luận Em nhận thấy rằng từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển. Sở dĩ như vậy là do hoạt động kiểm toán nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và nâng cao độ tin cậy của các thông tin nhưng điều quan trọng là để tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc và thước đo ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc70315.DOC
Tài liệu liên quan