Đề tài Vai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của Doanh nghiệp

Mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là thị trương thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm hàng rất khác nhau về mọi mặt đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội, văn hoá. Vì thế doanh nghiệp cần phân tích tỷ mỷ cơ cấu tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tôn giáo. Theo chủng loại sản phẩm tiêu dùng và mức độ tiêu dùng sản phẩm theo các dối thủ cạnh tranh chủ yếu và các sản phẩm cạnh tranh chủ yếu. Việc xác định các loại cơ cấu thị trường trên cho phép doanh nghiệp định vị từng loại thị trương mục iêu với những tập tính tiêu dùng cụ thể nhằm xác định những đoạn thị trường có triển vọng nhất và khả năng chiếm lĩnh các đoạn thị trường dó.

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước đầu sẽ cho doanh nghiệp một cái nhìn tổng quát trứơc khi đưa ra các quyết định kinh doanh của mình. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế Khi xem xét các thị trường nước ngoài các nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước với ba đặc tính phản ánh sự hấp dẫn của một nứơc như xét một thị trường: Trước hết là cấu trúc công nghiệp của nước đó, cấu trúc công nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực, có thể phân biệt các nứóc thành bốn loại cấu trúc như sau: + Nền kinh tế tự cấp tự túc: ở đó tuyệt đại dân cư làm nông nghiệp đơn giản. Họ tiêu thụ hầu hết các sản phẩm làm ra và trao đổi số còn lại để lấy những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trưòng ít hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu + Nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở phương diện khác, phần lớn thu nhập là nhờ xuất khẩu tài nguyên. Đây là thị trưòng rất hấp dẫn đối với trang thiết bị khai thác dụng cụ và nhiên liệu, thiết bị xử lý và phương tiện vận chuyển. +Nền kinh tếđang công nghiệp hoá: tại các nứoc này công nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. Khi phát triển công nghiệp chế biến các nước này cần nhập khẩu nguyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng, công nghiệp hoá tạo ra một tầng lớp giàu có mới và trung lưu đang phát triển có nhu cầu về các loại hàng hoá mới, chủ yếu là hàng nhập khẩu. +Nền kinh tế công nghiệp hoá: Đây là những nứoc xuất khẩu nhiều hàng xuất khẩu chế biến và vốn đầu tư. Họ mua bán sản phẩm hế biến và xuất khẩu sang các nước kém phát triển để đổi lấy nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Các hoạt động công nghiệp rộng lớn và da dạng cùng một tầng lớp trung lưu đông đảo tạo nên những thị trường hấp dẫn đối với mọi lợi sản phẩm. Đặc tính thứ hai về kinh tế là phân bố thu nhập: Sự phân phối thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp song còn chịu tác động của nhân tố chính trị. Thu nhập bình quân đầu người của một nước sẽ phản ánh khả năng thanh toán của quốc gia đó cho những sản phẩm tiêu dùng mà họ nhập khẩu. Đặc tính thứ ba là động thái của các nền kinh tế. Các nước trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bằng các tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưỏng đáng kể tới tổng mức nhu cầu của thị trường và tổng mức nhập khẩu của sản phẩm Nghiên cứu các nhân tố từ môi trường chính trị luật pháp Các quốc gia rất khác nhau về môi trưòng chính trị, luật pháp, do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trườngnước ngoài cần chú ý tới một số nhân tố cơ bản sau: Thái độ đối với các nhà kinh doanh nước ngoài: Một số nước rất khuyến khích thực sự đối với các nhà đầu tư nước ngoài, còn một số nứơc khác lại có thái độ thù địch. Do vậy, daonh nghiệp có thể gặp nhiều thuận lợi với luật khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật, về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Song cũng có thể gặp nhiều trở ngại với những yêu cầu hạn ngạch, hạn chế sử dụng ngoại tệ, quy định về sự có mặt cao của người địa phương trong hội đồng quản trị.. Sự ổn định chính trị: Một đất nước với một chế độ chính trị ổn định là điều kiện căn bản sự tin tưởng cho các nhà kinh doanh nước ngoài có thái độ kinh doanh nghiêm túc. Sự điều tiết về tiền tệ: nhiều quy định về sử dụng ngoại hối cũng có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trường hợp lý tưởng nhất là được tự do chuyển ngoại tệ. Trường hợp ít thuận lợi hơn là các nhà đầu tư là chỉ ra các hàng hoá mà họ cần hay họ xuất khẩu ra nước khác để thu ngoại tệ mà họ cần. Trường hợp xấu nhất là nhà kinh doanh buộc phải chấp nhận những sản phẩm khó bán mà chỉ có thể bán lỗ tại các thị trường khác. Bên cạnh những hạn chế về tiền tệ, tỷ giá hối đới biến động mạnh cũng tạo ra những rủi ro cho nhà kinh doanh xuất khẩu. Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Đó là mức độ chính quyền nước chủ nhà điều hành một hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài. Các quyết định mang tính chất quyết định về pháp luật và quản lý cũng cần được xem xét kỹ lưỡng như việc cấm vận hoặc cấm bán đối với số hàng hoá và doanhnghiệp, cấm một só phương thức và hoạt động thương mại, các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm.. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá Mỗi nước đều có những quy tắc, tập tục, điều kiện riêng. Chúng đựoc hình thành theo điều kiện truyền thống. Văn hoá của mỗi nước có ảnh hưởng to lớn đến tập tục tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã xuất hiện khá nhiều tập tục tiêu dùng cho mọi chế độ. Song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng được thể hiện rất rõ trong sự khác biệt truyền thống giữa phương Đông và phương tây, giữa các tôn giáo và chủng tộc Cần chú ý rằng sự khác biệt về văn hoá có thể diễn ra ngay trong thị trường của một nứơc. Trên thế giới vẫn có những thị trường có bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật..). Song cũng có những thị trường hết sức phức tạp về văn hoá (Hoa Kỳ). Vì thế, khi xem xét sự khác biệt về văn hoá không nhất thiết phải đóng khung trong ranh giới quốc gia Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức kinh doanh dược tiến hành, loại sản phẩm mà khách sẽ mua, những hình thức khuyếch trưong có thể chấp nhận được Nghiên cứ các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh Sức hấp dẫn của môi trường nước ngoài còn chịu niều ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh trên thị trường đó Sử dụng mô hình chuỗi giá trị cho phép phân tích đánh giá được những diểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh. Việc phận tích những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh là một trong những nội dung quan trọng khi xem xét thị trường nước ngoài song lại có thể phức tạp hơn những vấn đề khác vì hế nó phải tiến hành trong sự nhận thức của khách hàng, trong tất cả sự méo mó trong ý thức. Khó khăn nữa trong việc xác định tình hình cạnh tranh trong một số nước là do thiếu thông tin đáng tin cậy Mô hình 5 sức mạnh của Micheal- Porter là mô hình được nhiều nhà phân tích sử dụng đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp Đối thủ mới - tiềm năng Sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh Cạnh tranh giữa các Công ty hiện tại Khả năng mặc cả của người mua Người mua Cạnh tranh giữa các Công ty hiện tại Khả năng mặc cả của người cung cấp Nhà cung cấp Sự đe doạ của các mặt hàng, dịch vụ thay thế Sơ đồ 1 : Mô hình 5 sức mạnh của Micheal-Porter Trước hết nhà kinh doanh phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa, ở đấy có thể xẩy ra 2 trường hợp theo vị thế cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh nội địa có thể được hưởng một ưu thế rất thuận tiện do những hỗ trợ của chính phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng. Ở một số nước nhất là các nước đang phát triển thì ngựoc lại đối thủ cạnh tranh nội địa có thể phải ở thế bất lợi do sự tín nhiệm của khách hàng đối với uy tín của doanh nghiệp hoặc trở thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoại. Khi phân tích vị trí cạnh tranh các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác dịnh được tâm lý thị trường nội địa ở đó và mức lan truyền của nó. Những diểm này có tầm quan trọng lớn trong việc xác định các chính sách Marketing của doanh nghiệp. Song song với các đối thủ cạnh tranh nội địa, thì doanh nghiệp phải dối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài khác hoạt động trong cùng lĩnh vực và mục tiêu thị trường vì vậy doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó trực tiếp, gián tiếp với các nguồn lực có thể rất đáng kể được chính phủ chi cho cạnh tranh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các dối thủ mới- tiềm năng, các mặt hàng và dịch vụ thay thế, sức ép từ phía ngưòi mua thậm chí từ phía nhà cung cấp. Như vậy, một đòi hỏi lớn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là phải nghiên cứu, nắm bắt và chế ngự những phần nào của môi trường cạnh tranh Nghiên cứu nhu cầu thị trường Một chỉ tiêu quan trọng nhất đặc trưng cho nhu cầu thị trưòng là lượng sản phẩm có thể tiêu thụ, doanh số và lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể hy vọng đạt dược trên thị trường đó: Dữ liệu cần thiết Dữ liệu kinh tế vĩ mô (Dân số, sức mua, hoạt động công nghiệp...) Tổng nhu cầu thị trường Nghiên cứu Ước lượng vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của nó Thông tin về cạnh tranh nội địa và nướcngoài Dự báo tổng lượng bán có thể đạt được Phản ứng của nhu cầu nội địa với giá cả Giá cạnh tranh Ước lượng doanh số tiềm năng Giá án dự kiến SƠ ĐỒ 2: ƯỚC LƯỢNG DOANH THU DỰ KIẾN VÀ LỢI NHUẬN CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC Một khía cạnh của nghiên cứ thị trường cần được nghiên cứ là sự biến động theo thời gian của nó biểu hiện qua sự tăng giảm của tổng mức nhu cầu hoặc doanh số hay tốc độ tăng giảm của các chỉ tiêu đó. Nó sẽ phản ánh triển vọng phát triển của nhu cầu thị trường trong tương lai để doanh nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương mại 1.7 Nghiên cứu cơ cấu của thị trường Mỗi thị trường nước ngoài không bao giờ là thị trương thuần nhất. Nó bao gồm những nhóm hàng rất khác nhau về mọi mặt đặc trưng kinh tế, dân số, xã hội, văn hoá. Vì thế doanh nghiệp cần phân tích tỷ mỷ cơ cấu tập hợp khách hàng tiềm năng theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tôn giáo. Theo chủng loại sản phẩm tiêu dùng và mức độ tiêu dùng sản phẩm theo các dối thủ cạnh tranh chủ yếu và các sản phẩm cạnh tranh chủ yếu. Việc xác định các loại cơ cấu thị trường trên cho phép doanh nghiệp định vị từng loại thị trương mục iêu với những tập tính tiêu dùng cụ thể nhằm xác định những đoạn thị trường có triển vọng nhất và khả năng chiếm lĩnh các đoạn thị trường dó. Nghiên cứu hành vi hiện thực và tập tính tinh thần của khách hàng Hành vi hiện thực của khách hàng được biểu hiện qua sự biến động của nhu cầu theo các nhân tố ảnh hưởng, những thói quen mua hàng và theo thông tin về sản phẩm. Hành vi hiện thực còn được biểu hiện qua mức độ co giãn của nhu cầu theo giá cả. Theo tập tính tinh thần của khách hàng là những điều khách hàng suy nghĩ, cách lựa chọn sản phẩm được biểu hiện qua mức độ tự chủ của khách hàng trong các quyết định nua hàng và mức độ ảnh hưởng của gia đình, các nhóm tham khảo đối với các yếu tố chất lượng của sản phẩm và mức giá được chấp nhận Nghiên cứ cách thức tỏ chức thị trương nước ngoài Các nhà phân phối và người chỉ dẫn là những nhân tố tạo nên sự khác biệt giữa các thị trường nước ngoài. Số lượng các trung gian phân phối trong chu trình sản phẩm và tầm quan trọng của mỗi trung gian trong chu trình thể hiện rất khác nhau giữa nước này với nước kia. Vì vậy ,cần tìm hiểu kỹ nó khi ra quyết định về cách thức thâm nhập thị trường. Như vậy, chín vấn đề cần quan tâm trong công tác nghiên cứu thị trường suy đến cùng là giúp cho doanh nghiệp trả lời những câu hỏi sau: + Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì)? Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên mà doanh nghiệp tham gia thương mại quố tế cần xác định, mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn những mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn mặt hàng ngoài yêu cầu phải đạt được tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng dược nhu cầu thị trường còn phải phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự đánh giá phân tích cẩn thận những đặc điểm nội tại với diểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp cũng như thấyđược và dự đoán được những cơ hội hay những bất lợi của doanh nghiệp khi đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế. Đồng thời xu thế các loại mặt hàng đó trên thị trường cũng phải được xem xét và dự đoán một cách tương đối chính xác cụ thể doanh nghiệp phải trả lời những câu hỏi như: Mặt hàng thị trường đang cần là gì? Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào cuả chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng xuát khẩu đó như thế nào? Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó như thế nào? Từ đó, doanh nghiệp sẽ dưa ra những quyết định về hàng xuất khẩu sao cho có hiệu quả nhất + Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán đi đâu) Trả lời câu hỏi này nghĩa là doanh nghiệp đã tìm cho mình con dường đi tới mục tiêu hiệu quả và lợi nhuận. Vì vậy, việc lựa chọn thị trường nước ngoài cho hoạt động của doanh nghiệp là khởi đầu đầy khó khăn quyết định sự thành công trong tương lai của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những phân tích và cân nhắc kỹ càng trước khi ra quyết định Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp.Nói chung khó có thể lựa chọn dứt khoát một hoặc hai chiến lược tập trung và phân tán vì sự ảnh hưởng của nhân tố theo những lượng khác nhau dẫn tới tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có được những phân tích cơ sở đánh giá những cơ hội mở rộng thị trường thì cũng sẽ tạo một bức tranh toàn cảnh giúp doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng kinh doanh của doanh nghiệp thích hợp hơn với chiến lược tập trung hay phân tán. Ở đây cần thừa nhận rằng có những nhân tố quyết định khách quan song việc lựa chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào phần lớn dánh giá chủ quan về cơ hội và những đe doạ liên quan đến hai chiến lựoc nói trên. Hiển nhiên những đánh giá chủ quan này cũng được hình thành từ thực tiễn quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm đã được đúc kết về môi trường kinh doanh, khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Tuy vậy, những căn cứ khách quan của những phân tích cơ sở giúp cho những đánh giá của doanh nghiệp có cơ sở vững chắc hơn, hạn chế những sai lầm khi ra quyết định + Lựa chọn bạn hàng kinh doanh (bán cho ai)? Một doanh nghệp có thể xuất khẩu sản phẩm của mình theo hai cách là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là một hình thức doanh nghiệp thông qua dịch vụ và các tổ chức độc lập đặt ngay tại các nước xuất khẩu để tiến hành hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế. Trong hình thức này các doanh nghiệp có thể sử dụng trung gian phân phối như hãng buôn xuất khẩu, Công ty quản lý xuất khẩu, đại lý xuất khẩu, khách vãng lai, các tổ chức phân phối chính hợp. Nhưng dù tổ chức nào đi nữa thì cũng phải có kinh nghiệm và năng lực để đảm bảo cho hai bên kinh doanh một cách thuận lợi và hiệu quả. Hầu hết các nhà sản xuất chỉ sử dụng các trung gian phân phối trong những điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêngcủa mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị trường do họ thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hơn. Trong tình trạng hiện nay các nhà xuất khẩu phải giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài và khu vực thị trường nứơc ngoài không qua tổ chức của mình. Tóm lại, việc lựa chọn một bạn hàng kinh doanh sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để tạo sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ 2.Xây dựng chiến lược, kế hoạch xuất khẩu Kế hoạch kinh doanh là phương án cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt đựơc các mục tiêu xây dựng trong kinh doanh. Dựa vào kết quả thu dược của việc nghiên cứu ở các khâu nêu trên, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể nhằm ứng phó với những dự doán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt dựoc khi thựchiện được quá trình này. Nội dung của việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm: Doanh nghiệp cần có một định hướng rõ ràng trên cơ sở phân tích các yếu tố về môi trưòng kinh doanh, đưa ra những dánh giá mang tính tổng quát về cơ hội và thách thức, diểm mạnh và diểm yếu của doanh nghiệp. Định hướng là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó. Thực chất việc định hướng là hoàn thành những mục đích và mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra xuất phát từ bản chất của một hệ thống có tổ chức đê thực hiện các hoạt dộng có mục đích chung của doanh nghiệp thông quá sự hợp tác chặt chẽ giữa mọi người trong doanh nghiệp Xây dựng các biện pháp, cách thức thực hiện để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trước đó. Cụ thể đó là những biện pháp về sản phẩm, sản xuất, tìm kiếm, bạn hàng,...với kế hoạch chi tiết trong từng lĩnh vực nếu bước này đòi hỏi phải được chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng cụ thể dựa trên cơ sở phân tích các thông tin có liên quan. Như vậy, có thể thấy rằng công tác xây dựng kế haọch kinh daonh là một công tác quan trọng và vô cùng cần thiết đối với hoạt động của một doanh nghiệp. Một kế hoạch kinh doanh khoa học và khéo léo dựa trên việc phân tích chuẩn xác các yếu tố môi trưòng có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. 3 . Ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hợp đồng xuất khẩu. Nó đảm bảo tính pháp lý trong mỗi thương vu làm ăn của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành hay không phụ thuộc vào những diều khoản mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng. Mọi sự vi phạm đều có thể phá vỡ hợp đồng. Tóm lại hợp đồng xuất khẩu là một văn bản pháp lý quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên thực hiện hợp dồng xuất khẩu. Và việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là cách thức mà các bên thựchiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Do vậy, ký kết hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là khâu không thể thiếu trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 4.Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh . Hiệu quả kinh doanh = S doanh thu – Schi phí Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hiệu quả ta dùng công thức: Hiệu quả kinh doanh = å Doanh thu å chi phí Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp còn xác định qua chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên lợi nhuận mà doanh nghiệp thu dược so với tổng vốn bỏ ra trong hoạt dộng kinh doanh xuất nhập khẩu: Bên cạnh dó còn có chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá tổng hợp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng đối với doanh nghiệp chuyên doanh hoạt động xuất nhập khẩu để đánh giá một cách chi tiết hơn hiệu quả kinh doanh có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: *Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu. Là lượng bản tệ (nội tệ) phải chi để có một đơn vị ngoại tệ: KXK =PX/TX Trong đó: KXK :tỷ suất ngoại tệ đối với hàng xuất khẩu PX: chi phí cho lo hàng xuất khẩu TX: Số ngoại tệ thu dược khi bán lô hàng này NếuKXK nhỏ hơn tỷ giá hối đoái thì hoạt động xuất khẩu có hiệu quả *Chỉ tiêu hiệu quả tương đối của xuất khẩu: chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên chi phí đầu đủ để sản xuất lô hàng Trong đó: Dxk :doanh thu ngoại tệ thuần tuý Fkx :chính trị đâỳ đủ trách nhiệm đối với xuất khẩu (quy ra ngaọi tệ) Chỉ tiêu lợi nhuận trong xuất khẩu Px = q* (p-f) Trong đó: Px: lợi nhuận đối với mặt hàng xuất khẩu Q: Khối lượng hàng xuất khẩu P: Giá trị một đơn vị hàng F: Chi phí đầy đủ của một đơn vị hàng hoá Chỉ tiêu này giúp ta phân biệt được lợi nhuận của từng mặt hàng, lô hàng hay chuyến hàng. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối ngưòi ta sử dụng chỉ tiêu tương đối như: Mức doanh lợi, chỉ tiêu về vốn kinh doanh, năng suất lao động. Ngoài các chỉ tiêu định lượng ở trên, để xác định hiệu quả hoạt động xuất khẩu còn có các chỉ tiêu định tính. Đây là chỉ tiêu gián tiếp rất khó lượng hoá nhưng không phải là không lượng được. Chẳng hạn chỉ tiêu thu hút các nguồn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với các tổ chức tư thương nước ngoài. Chỉ tiêu mở rộng môi trường và bạn hàng kinh doanh, chỉ tiêu về uy tín do hoạt động xuất khẩu đem lại III CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA MỘT DOANH NGHIỆP Trong hoạt dộng thương mại bất kỳ hình thức kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của moi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo diều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh phát triển, song cũng có thể là vật cản mạnh mẽ đối với các hoạt động này. Đối với xuất khẩu, một nội dung quan trọng của thương mại quốc tế thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh phong phú và phức tạp hơn so với thương mại quốc tế trong nước. Ở đây, ta có thể phân chia những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt dộng kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp thành 2 nhóm nhân tố cơ bản nhân tố vĩ mô và nhân tố vi mô 1.Nhân tố vĩ mô Ở các nước khác nhau thường có chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Để nền kinh tế quốc dân vận hành một cách có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là điều cần thết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, những công cụ chính sách chủ yếu thường dược Nhà nứơc sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động này: Thuế quan: Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là thuế đánh vào từng đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình và mở rộng kinh tế đối ngoại. Thuế quan cũnh gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng nên khong hiệu quả và do giảm mức tiêu dùng trong nước +Tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá sản phẩm: các quốc gia đặt những tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá hay về thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu hay nhập khẩu +Giấy phép xuất khẩu: Nhà ước cấp giấy phép xuất khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh nhằm theo dõi việc xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu. *Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuýên khích xuất khẩu Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đén quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thưòng kỳ để đạt dựoc mức tỷ giá hối đoái cân bằng trên thị trừơng và mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. Trợ cấp xuất khẩu cũng là biện pháp có tác động thúc đẩy mạnh mẽ cho việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này dược nhiều nước áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nứơc ngoài thì sự rủi ro cao hơn nhiều so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyên khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức như: miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, cho bạn hàng nước ngoài ưu tiên để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình.. Bên cạnh dó, chính phủ muốn các nhà kinh doanh trong nước hứơng ra thị trường nứơc ngoài thì phải giảm bớt tính hấp dẫn tương đối cho việc sản xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ đối với các ngành công nghiệp ưu đãi và tranh thủ quy định hạn ngạch khối lưọng nhập khẩu. Lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cũng phải giữ ở mức phù hợp với mức lợi nhuận xuất khẩu. Điều đó nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thống nhất với tất cả các mặt hàng *Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại Trong hoạt đông kinh doanh quốc tế nói chung giữ vững được cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố nền độc lập và tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên, biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chếnhập khẩu, cấm nhập khẩu hay vay vốn để giữ cho cán cân thanh toán đựoc cân bằng. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyên khích việc sản xuất hàng xuất khẩu. Song song với việc mở rộng quy mô xuất khẩu, da dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu trong đó chú trọng đến mặt hàng chủ lực, có nhiều quốc gia mới giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Như vậy, nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của một quốc gia Các quan hệ kinh tế quốc tế Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu, khi xuất khẩu hàng hoá từ nứơc mình sang một nước nào đó tức là đưa hàng hoá thâm nhập vào một thị trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với hàng rào thuế quan như thuế quan thu nhập (để tăng thu nhập cho quốc gia nhập khẩu), thuế quan bảo hộ (bảo hộ cho các ngành công nghiệp trong nước nhập khẩu) hay những hàng rào phi thuê quan sự phận biệt đỗỉ với các nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử hàng nước ngoài... và đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu. Các hàng rào này là chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yêú vào quan hệ kinh tế song phuơng giữa các nứoc xuất khẩuvà nhập khẩu. Trong khi đó xu hưiớng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau dược hình thành, nhiều hiệp dịnh song phưong, đa phương giữa cácnước, các khối kinh tế cũng đựơc ký kết với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thú

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của Doanh nghiệp.doc
Tài liệu liên quan