Đề tài Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

 

Lời mở đầu 1

PHần I : những lý luận chung 3

I:định nghĩa và chức năng của kiểm toán 3

1.Sự phát triển của kiểm toán 3

2.Bản chất và chức năng của kiểm toán. 5

A.Kiểm tra,kiểm soát-một chức năng của quản lý 5

B : Bản chất của kiểm toán. 6

C. Chức năng của kiểm toán. 8

II.KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 9

1. Định nghĩa 9

PHẦN 2: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ QUỒC DÂN 15

I. Ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán độc lập 15

1. Góp phần hướng dẫn ngiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động Tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị nói chung 15

2.Tạo niềm tin cho những người quan tâm đến kết quả hoạt động. Đặc biệt trong kinh tế thị trường có nhiều ngươig cần quan tâm tới tình hình Tài chính và sự phản ánh của nó trong Tài liệu kế toán đó là: 16

II.Vai trò của kiểm toán độc lập đối với khách thể của kiểm toán độc lập ở Việt nam 17

1.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 18

2.Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn 23

3.Các doanh nghiệp tư nhân 29

4.Các hợp tác xã. 31

5.Các đối tuợng khác 32

PHẦN III: NHỮNG TỒN TẠI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM 36

tài liệu tham khảo 43

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vậy để thu hút vốn và các Nhà đầu tư nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho họ, xây dựng hợp lý mọi nguồn vốn đầu tư, cần có những thông tin trung thực, khách quan về tình hình tài chính mà chủ yếu là các bản khai về tài chính, tài sản thu nhập, các bản thuyết trình kèm theo. - Các Nhà quản trị doanh nghiệp và các Nhà quản lý khác vì công việc kinh doanh mà không thể kiểm soát hết hàng ngàn, hàng vạn nghiệp vụ tài chính, kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Các chủ doanh nghiệp thường uỷ quyền việc kiểm soát các nghiệp vụ tài chính, kế toán cho người phụ tá hoặc một trong những cổ đông phụ trách, vì thế để biết đuợc một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính, kế toán của mình vào thời hạn nào đó, các chủ doanh nghiệp đã mời các kiểm toán viên chuyên nghiệp độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập. Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện ra những sai sót, lãng phí, vi phạm pháp luật do cố tình hay vô ý để xử lý kịp thời ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro, biết phát hiện ra những thế mạnh, tiềm năng tài chính nội tại đang có trong doanh nghiệp mà chỉ có những kiểm toán viên với bề dày kinh nghiệm thực tế mới có thể phát hiện ra. -Bên cạnh đó những chủ doanh nghiệp làm ăn chính đáng có hiệu quả nhưng vì lý do nào đó bị tai tiếng thì kiểm toán viên sẽ là người xác nhận, bảo vệ cho họ. Nhận xét của những kiểm toán viên có uy tín sẽ làm tăng thêm tính pháp lý của bản báo cáo tài chính và danh tiếng của doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp càng có lợi thế hơn trong sản xuất kinh doanh và thuận lợi trong quan hệ tài chính với các đơn vị tài chính bên ngoài. Hơn thế nữa các Nhà quản trị doanh nghiệp, các Nhà quản lý khác cần những thông tin trung thực không chỉ trên bảng khai tài chính mà còn những thông tin cụ thể về tài chính về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. -Người lao động, khách hàng, các Nhà cung cấp và những người quan tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, tình hình tài chính của các đơn vị như số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá,cơ cấu sản xuất và khả năng thanh toán.. Như vậy để có thông tin trung thực thì chỉ có qua kiểm toán mới có được. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của kiểm toán độc lập là hết sức quan trọng. II.Vai trò của kiểm toán độc lập đối với khách thể của kiểm toán độc lập ở Việt nam Theo thông tư số 22 TC/CĐKT (29/01/94) đã nêu rõ đối tượng của kiểm toán độc lập chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngoài các doanh nghiệp đối tượng của kiểm toán độc lập có thể là các đơn vị hành chính sự nghiệp, các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã hộivà các tổ chức quốc tế. Khi các tổ chức này có nhu cầu hoặc cơ quan quản ký cấp trên, cơ quan thuế hoặc cơ quan Nhà nước yêu cầu. Như vậy có thể nói đối tượng (khách thể) của kiểm toán độc lập rộng hơn so với kiểm toán Nhà nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các thành phần kinh tế các tổ chức kinh tế đa dạng và phức tạp, bên cạnh đó mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, sự quan tâm đến tình hình tài chính của nhau ngày càng tăng hay nói cách khác ngày càng có nhiều đối tượng quan tâm đến tin tức tài chính của doanh nghiệp. Nhưng không phải tất cả mọi người đều tin ngay vào bản tự báo cáo của doanh nghiệp mà phải có sự kiểm tra độ tin cậy của bản báo cáo đó. Điều đó dẫn đến nhu cầu về kiểm toán độc lập ngày càng cao và khách thể của kiểm toán độc lập ngày càng mở rộng. ở Trung Quốc thì đối tượng bắt buộc phải được kiểm toán độc lập xác nhận gồm: - Tất cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài(Công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh). - Tất cả các công ty có phát hành cổ phiếu(tham gia thị trường chứng khoán) đều phải được kiểm toán độc lập xác nhận trên báo cáo tài chính hai năm liềnvà phải có lãi. - Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tư nhân hoá.. Riêng ngân hàng Thượng Hải quy định: “Tất cả khách hàng muốn vay tiền của ngân hàng Thượng Hải đều phải nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên xác nhận”. Nhưng ở Việt nam ta, thông tư số 22 quy định khách thể kiểm toán độc lập gồm: - Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Các doanh nghiệp liên doanh giữa các tổ chức trong và ngoài nước. - Các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần. - Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả các công ty trách nhiệm hữu hạn). - Các công trình dự án có nguồn ngân sách từ bên ngoài ngân sách Nhà nước. 1.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Gồm các doanh nghiệp giữa các tổ chức trong và ngoài nước và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) Đại hội Đảng 8 đã đề ra là đưa đất nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội . Do đó để thực hiện được những mục tiêu trên thì cơ chế quản lý kinh tế cũng phải được hoàn thiện cho phù hợp đặc biệt đó là nguồn vốn lớn lao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Việt nam ta đã phải trải qua nhiều cuộc khánh chiến trường kỳ đi lên xây dựng đất nước từ một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, công nghiệp nhỏ là chủ yếu với một cơ sở hạ tầng bị chiến tranh tàn phá nặng nề đặc biệt trải qua một thời gian dài với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp cho nên nền kinh tế vốn đã yếu kém càng trở lên khó khăn hơn trước, từ những thực tế đó Đại Hội Đảng 6 (12/86) đã quyết định chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nuớc cùng với chinh sách mở cửa “Việt nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” để nhằm thu hút sự đầu tư giúp đỡ của nước ngoài, để đưa đất nước đi lên hoà nhập với nền kinh tế thế giới thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế. Chủ trương của Nhà nước là tăng tốc độ phát triển kinh tế, đạt bình quân 400usd/1 người một năm vào cuối thế kỉ 20,muốn đạt mục tiêu này thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đảm bảo đạt là 7% trở lên và nhu cầu về vốn đầu tư phải có từ 4,2 tỷ usd trở lên cho mỗi năm tức là tích luỹ phải đạt trên 22% thu nhập quốc dân hàng năm. Đây là con số tích luỹ vượt quá khả năng nền kinh tế nước ta cho nên nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài là nguồn bổ xung quan trọng để nước ta có thể đạt được 26,3 tỷ usd tổng sản phẩm thu nhập năm 2000 đảm bảo gấp đôi thu nhập quốc dân năm 1990. Vì nếu có vốn đầu tư nước ngoài có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và dịch vụ, không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp ta giải quyết tình trạng thất nghiệp đang đè nặng nên nền kinh tế của đất nước. Hơn thế nữa thông qua đầu tư của các nước phát triển chúng ta có điều kiện tiếp nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nhờ đó có thể giảm bớt được khoảng cách tăng trưởng cuả ta so với các nước . Chỉ có dựa vào sự thu hút vốn đầu tư quốc tế chúng ta mới đủ khả năng khai thác có hệu quả những tiềm năng của đất nước mà bao năm qua không có vốn chúng ta không thể đưa vào khai thác như dầu mỏ, khoáng sản. . . Bên cạnh đó thông qua hợp tác liên doanh với nước ngoài chúng ta còn học được kinh ngiệm quản lý kinh doanh, học tập cách làm thương mại và phong cách làm việc trong điều kiện kinh tế thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài. Thực trạng hơn 10 năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn đó là không ngừng tăng trưởng kinh tế đưa đất nước dần thoát ra khỏi đói nghèo, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.. . Mặc dù trong năm qua khu vực có những biến động, khủng khoảng lớn về kinh tế nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt nam vẫn đạt 5.6%(năm 1998) cao nhất trong khu vực Đông Nam á. Có được thành tựu đó là nhờ sự lỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong đó cũng có sự đóng góp của các doanh nghiệp Việt nam có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là nguồn vốn FDI trong 10 năm qua không chỉ thay đổi về số lượng dự án mà tổng số vốn đầu tư và chất lượng đầu tư cũng thay đổi đáng kể. Từ 1988-1990 FDI chỉ dừng lại ở những dự án vừa và nhỏ với quy mô trung bình 8,5 triệu USD /1dự án. Cuối năm 1990 có khoảng 203 dự án với tổng số vốn 1726 triệu USD. Đến giai đoạn 91-95 tỷ lệ tăng trung bình là 50 % tuy nhiên do ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế khu vực lên đầu tư trực tiếp vào Việt nam bị ảnh hưởng và chững lại có suy giảm nên 1996 tổng FDI là 8,5 tỷ USD tăng 30% so với năm 95 với độ lớn trung bình của dự án là 26,1 triệu USD thì đến năm 1997 tổng FDI chỉ còn khoảng 4,4 tỷ với trung bình 13,1 triệu USD/dự án. Năm 1998 có khoảng 260 dự án với tổng số vốn là 4827,6 triệu USD. Cũng theo số liệu thống kê năm 1997 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài đã tạo ra 7,8 % GDP chưa kể xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt-Xô Petro. Tính đến hết ngày 30/9/1998 có 1052 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Những con số trên cho thấy FDI ở Việt nam ngày càng có xu hướng gia tăng nhưng để cho việc đầu tư vào nền kinh tế trong nước đảm bảo và đạt hiệu quả cao, đôi bên cùng có lợi thì Đảng và Nhà nước ta cũng đã quy định về việc áp dụng chế độ kế toán Tài chính vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi cấp bách đặc biệt là kiểm toán độc lập trong lĩnh vực này cũng được nâng cao không chỉ đối với Việt nam mà còn đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư vào Việt nam. Điều 98 NĐ 18-CP ngày 16/3/1993 của chính phủ quy định chi tiết luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã quy định: “Báo cáo kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài phải được công ty kiểm toán xác nhận trước khi gửi cho Uỷ Ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư và cơ quan thuế trong vòng 3 tháng kể từ ngày khoá sổ năm tài chính của doanh nghiệp”. Điều 2 quy chế kiểm toán độc lập (ban hành kèm theo nghị định 07/cp ra ngày 29/01/94 của chính phủ cũng đã quy định: “Báo cáo quyết toán của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghệp tư doanh hoạt động theo lụât công ty, luật doanh nghiệp tư nhân phải có xác nhận của kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý”. Thông tư 27 TC/CĐKT quy định : “Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam thì công việc kiểm toán được thực hiện hàng năm. Báo cáo quyết toán gửi cho các cơ quan quản lý Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt nam hoặc một tổ chức kiểm toán độc lập khác được Bộ tài chính chấp nhận”. Đảng và chính phủ ta khuyến khích các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ kế toán thống kê quy định tại pháp lệnh thống kê ngày 10/5/1988. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thực hiện chế độ kế toán và thống kê theo những tiêu chuẩn và quy tắc phổ biến được Bộ tài chính và Tổng cục thống kê chấp thuận và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và thống kê Việt nam. Qua đó thực trạng đã diễn ra một số vấn đề sau: 1. Một số các xí nghiệp đã coi nhẹ công tác thống kê kế toán đặc biệt là công tác thống kê, hơn thế nữa có những xí nghiệp trong một thời gian dài không có một báo cáo nào gửi tới các cơ quan chức năng. 2. Do có đối tác nước ngoài thuộc nhiều nước khác nhau nên một số xí nghiệp áp dụng một số chế độ kiểm toán và thống kê khác nhau điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho các cán bộ Việt nam dẫn đến báo cáo gửi các cơ quan quản lý không đúng như thời gian quy định gây khó khăn cho các Nhà quản lý. 3.Chất lượng các báo cáo không đạt yêu cầu như thu chi, phân bổ không phù hợp với quy định hiện hành của Bộ tài chính. Đặc biệt nhiều khoản thu chi do vô tình hay cố ý không được phản ánh trong báo cáo kế toán nhằm giảm các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước điển hình như bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cá nhân. . . Những tồn tại trên đã gây khó khăn đến việc tổng hợp số liệu các cơ quan chức năng Nhà nước, thiếu cơ sở dữ liệu để đánh giá chính xác đặc biệt là hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài từ đó có những đánh giá sai lệch về vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế chung của đất nước. Điều đó đòi hỏi các báo cáo kế toán phải được công ty kiểm toán độc lập kiểm tra trước khi gửi nó đến cơ quan cấp trên. Hơn nữa sự ra đời của kiểm toán độc lập đã tạo ra sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư nước ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài các danh nghiệp nước ngoài liên tục tìm kiếm cơ hội để xâm nhập vào thị trường Việt nam bởi vì Việt nam là một nước đang phát triển nhiều tài nguyên thiên nhiên và nhân công dồi dào. . . Tuy nhiên nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa quyết định đầu tư vào Việt nam hoặc đã có giấy phép nhưng chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng không thực hiện triệt để dự án.Một trong những nguyên nhân chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là chưa có đủ tổ chức tư vấn về tài chính, kế toán và kiểm toán có uy tín theo tập quán quốc tế. Người nước ngoài đã quen với cách thu thập thông tin qua người trung gian bằng cách thuê các kiểm toán viên kiểm tra khả năng tài chính của đối tác trước khi xác định đầu tư. Hay ngay trong quá trình kinh doanh cũng phải có người tư vấn kiểm toán xác nhận báo cáo tài chính. Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam còn nhỏ bé đã làm cho nhiều người nước ngoài e ngại bỏ vốn đầu tư vào Việt nam. Một cố vấn của Ngân hàng thế giới nói “Chỉ khi nào kiểm toán Việt nam có thể kiểm tra bảo đảm rằng vốn của Ngân hàng thế giới đưa vào Việt nam được sử dụng đúng mục đích và có khả năng hoàn trả thì Ngân hàng thế giới mới yên tâm bỏ vốn vào Việt nam ”. Nhiều chuyên gia trên thế giới nhận định kiểm toán Việt nam phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo ra môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tăng thêm lòng tin, khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm năng vào Việt nam hoạt động. Như vậy kiểm toán Việt nam phải phát triển cả chiều rộng và chiều sâu mới có đủ khả năng thực hiện đúng được yêu cầu cấp bách của các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Có thể nói họ yên tâm vào các kết quả được kiểm toán và sẽ lựa chọn những lĩnh vực, phạm vi, khía cạnh để đầu tư vào Việt nam với mục đích thu được hiệu quả và lợi nhuận lớn nhất. Do vậy nhà nước cũng phải có những biện pháp thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đầu tư nước ngoài vào Việt nam để có thể cải tiến nền kinh tế đất nước cho một tương lai tốt đẹp. 2.Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn a. Công ty cổ phần Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự bung ra cuả các thành phần kinh tế các doanh nghiệp có nhiều hình thức khác nhau: các tổ chức, đơn vị, hợp tác xã... tất cả cùng vận động trong cơ chế thị truờng. Sự tiếp cận đuợc lý thuyết về kinh tế thị trường đã là một vấn đề nhưng còn khó hơn để làm sao vận hành lý thuyết đó vào thực tế nhằm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh đó có hiệu quả, giảm thiểu những khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế thị trường... Đó là mối quan tâm của Nhà nước và chính các đơn vị kinh doanh do đó đơn vị kinh doanh cũng không thể lơ là bỏ mặc trách nhiệm cho Nhà nước như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Như vậy trong suốt thời gian chuyển sang cơ chế thị trường. Một số các doanh nghiệp làm ăn có lãi vì lý do nào đó như biết cách quản lý, biết cách sử dụng vốn có hiệu quả... bên cạnh đó còn có các đơn vị làm ăn bị thua lỗ, như vậy biện pháp để đưa các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở lại sản xuất có lãi thì Nhà nước ta đã đề ra cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mục đích để giảm gánh nặng cho Nhà nướcvà tăng trách nhiệm cá nhân đối với đơn vị... Hiện nay ở nước ta đã bắt đầu có những doanh nghiệp cổ phần hoá bước đầu làm ăn có hiệu quả. Tháng 12/97 hội nghị lần 4 ban chấp hành trung ương Đảng đã ra nghị quyết trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước . “Phân loại doanh nghiệp nhà nước công ích, doanh nghiệp kinh doanh. xác định danh mục loại doanh nghiệp nào Nhà nước phải giữ 100% vốn , loại doanh nghiệp nào cần phải giữ tỷ lệ vốn để chi phối, loại doanh nghiệp Nhà nước chỉcần giữ phần giữ một phần vốn ở mức thấp”, “Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn cần lập kế hoạch cổ phân hoá để tạo động lực phát triển và thúc đẩy làm ăn có hiệu quả”. Thông qua đó Nhà nước xẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp cổ phần phát triển những thế mạnh của mình. Việc cổ phần hoá ở nước ta diễn ra rất chậm với số doanh nghiệp được cổ phần không lớn. Nguyên nhân thực tế đó là do trước đây chủ hoặc giám đốc doanh nghiệp toàn quyền quyết định đối với doanh nghiệp nhưng khi cổ phần thì quyền quyết định không còn là duy nhất mà do Hội đồng quản trị. .. Tâm lý ngại cổ phần hoà cũng là một nguyên nhân cản trở tiến trình cổ phần hoá ở nước ta. Nhưng một nguyên nhân không kém phần quan trọng là việc định giá, đánh giá tài sản của doan nghiệp trước khi cổ phần hoá một doanh nghiệp. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn đối với các doanh nghiệp bởi vì việc định giá phải như thế nào để phù hợp với các bên. Kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đánh giá và định giá tài sản một cách đúng đắn và phù hợp với lợi ích của các bên. Đối với các công ty cổ phần là khách thể của kiểm toán độc lập đã được quy định trong quy chế về kiểm toán độc lập. Đó là các báo cáo quyết toán hàng năm phải gửi kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập. ở Trung Quốc thì các công ty có phát hành cổ phiếu đều phải qua kiểm toán độc lập xác nhận trên báo cáo tài chính 2 năm liền và phải có lãi trong đó các công ty được phát hành cổ phiếu cho người nước ngoài thì phải được công ty quốc tế kiểm toán, như vậy kiểm toán độc lập có một vai trò hết sức to lớn đối với các công ty cổ phần góp phần cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đạt hiệu quả. Ban quản trị, hội đồng quản trị có được những báo cáo trung thực để ra quyết định hội đồng. Đây là công việc sống còn của mỗi đơn vị nói chungvà các công ty cổ phần nói riêng, hơn thế nữa muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư bên ngoài (các cá nhân, những người lao động..) thì dĩ nhiên nếu là công ty cổ phần làm ăn có lãi họ xẽ thuê kiểm toán độc lập về kiểm toán các bảng khai tài chính để tạo sự tin tưởng của những người quan tâm đến bảng báo cáo tài chính khi đó lượng vốn thu được từ những người đầu tư sẽ tăng lên. Mặt khác các cổ đông, góp vốn, liên doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhưng không dễ gì có thể kiểm tra kỹ lưỡng báo cáo tài chính do không có nghiệp vụ hoặc không phải ai cũng có thể kiểm tra. .. Do đó khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên xác nhận là trung thực, hợp lý thì có thể yên tâm chia lợi tức và quyết định tiếp tục hoặc không tiếp tục tham gia kinh doanh. Có khi những cổ đông trước khi quyết định mua cổ phiếu với số lượng lớn cũng mời kiểm toán độc lập đến để kiểm tra báo cáo tài chính của công ty. Như vậy kiểm toán độc lập xuất hiện đã làm thoả mãn nhu cầu của các cơ quan Nhà nước, các công ty cổ phần và cổ đông. Nhà nước có báo cáo tài chính để xem xét hoạt động của doanh nghiệp để từ đó tính các khoản phải nộp vào ngân sách tránh trường hợp các công ty ghi giảm các khoản nộp vào ngân sách Nhà nước. Măt khác trên cơ sở đó Nhà nước đưa ra những biện pháp để quản lý nền kinh tế, hội đồng quản trị cần có thông tin trung thực để quyết định phương hướng hoạt động và phân chia lợi nhuận, những cổ đông thì yên tâm hơn khi mua cổ phiếu tránh những rủi ro lớn. Một vấn đề nữa là khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, việc mua bán các chứng khoán diễn ra thường xuyên thì xẽ dẫn đến sự ra đời của thị trường chứng khoán đó là một tất yếu khi đó việc công khai các thông tin có liên quan đến các công ty phát hành chứng khoán trở nên rất quan trọng, nó có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư và các công ty phát hành vì đối với các nhà đầu tư cần mọi thông tin về công ty để ra quyết định đầu tư, nếu công ty có tình hình tài chính ổn định, làm ăn có lãi thì nhà đầu tư xẽ quyết định đầu tư và ngược lại, hay hiện tại công ty làm ăn kém hiệu quả nhưng trong tương lai công ty có một triển vọng tốt hơn, thì các nhà đầu tư xẽ xem xét và đưa ra quyết định. Hơn thế nữa việc khẳng định giá trị của công ty có ảnh hưởng trực tiếp tới giá chứng khoán, do vậy các nhà phát hành chứng khoán phải công khai các thông tin đầy đủ để các nhà đầu tư có thể tiếp cận, cho nên thông tin cần phải trung thực, chuẩn xác. Trong giai đoạn đầu lợi ích của các nhà đầu tư và của nhà phát hành đôi khi đối lập, nhà đầu tư muốn có thông tin về công ty trong khi đó công ty thì lại không muốn tiết lộ những thông tin xấu về bản thân. Như vậy nếu thông tin tiết lộ không chính xác thì giá chứng khoán xẽ bị sai lệch mà người chịu trách nhiệm không phải là ai hết mà chính là các nhà phát hành chứng khoán. Bên cạnh tính trung thực và chính xác thông tin còn phải mang tính kịp thời, thông tin phải được đưa ra càng sớm càng tốt vì nếu không tiết lộ ngay thì dễ có tình trạng lợi dụng thông tin để thực hiện những giao dịch nội gián. Như vậy thông tin cần phải được một tổ chức kiểm toán độc lập có uy tín kiểm toán và xác nhận vì chỉ có kiểm toán độc lập với tư cách khách quan có trình độ xẽ có được những thông tin chuẩn xác và cung cấp kịp thời. Một số nước trên thế giới có thị trường chứng khoán phát triển mạnh cũng yêu cầu các đơn vị phát hành chứng khoán tiết lộ các thông tin định kì có kèm theo xác nhận của của công ty kiểm toán bên cạnh các bản báo cáo tài chính. Trong khi đó chúng ta đang tiến hành cổ phần hoá một loạt các công ty Nhà nước làm ăn kém hiệu quả trong đó có các công ty vừa và nhỏ chuẩn bị khẩn trương cho việc hình thành thị trường chứng khoán Việt nam thì vấn đề công khai thông tin tài chính của các công ty này trở nên quan trọng và trở thành yêu cầu không thể thiếu được để thị trường chứng khoán Việt nam hoạt động lành mạnh. Như vậy việc xuất hiện các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường, khi đó để các công ty đi vào khuôn khổ và kinh doanh có hiệu quả thì việc yêu cầu có một tổ chức kiểm toán độc lập chuyên kiểm toán hàng năm để đưa ra các thông tin trung thực,kịp thời. . . là yếu tố rất quan trọng quyết định sự phát triển của chính bản thân doanh nghiệp và với sự phát triển chung của đất nước. b. Các công ty trách nhiệm hữu hạn Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần thì các công ty trách nhiệm hữu hạn cũng xuất hiện phổ biến ở khắp mọi nơi, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tượng. . . Sự ra đời của các công ty nhằm đáp ứng chủ trương huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho những người có vốn nhỏ dễ dàng góp vốn đầu tư cũng như dễ dàng chuyển nhượng phần vốn đó của mình. Hơn thế nữa bằng hình thức công ty các Nhà kinh doanh phân tích rõ trách nhiệm và phân chia những rủi ro có thể xảy ra và có thể huy động được số tiền để nhanh chóng phục vụ sản xuất kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời làm phong phú thêm các loại hình công ty trong nền kinh tế thị trường và tại điều 13 luật công ty thì công ty trách nhiệm hữu hạn cũng như các công ty khác phải : - Ghi chép sổ sách kế toán và quyết toán theo quy định của pháp luật về kế toán thống kê và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính - Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Như vậy để các công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước phải kiểm tra giám sát thường xuyên, ngăn chặn kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật trong việc sản xuất kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tại thông tư số 22 hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. (Ban hành kèm theo nghị định số 07ngày 29/01/1994 của chính phủ) đã quy định rõ các công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động theo luật công ty thì công việc kiểm toán được thực hiện hàng năm và báo cáo quyết toán năm gửi cho các cơ quan quản lý của Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập. Do đó việc thực hiện của kiểm toán độc lập với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn này là hết sức cần thiết đối với chính lợi ích của công ty và hơn nữa đối với các cơ quan chủ quản, cơ quan thuế vụ thì việc báo cáo quyết toán được kiểm toán viên xác nhận là đúng đắn trên cơ sở đó xẽ tính thuế, phần nghĩa vụ mà công ty phải có trách nhiệm nộp cho cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó Nhà nước sẽ có các phương hướng và biện pháp chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty một cách gián tiếp như tăng thuế nhập khẩu hoặc giảm thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng mà các công ty, các doanh nghiệp trong nước sản xuất được. . . để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện thuận lợi xuất khẩu ra nước ngoài, cạnh tranh trên thị trường thế giới. 3.Các doanh nghiệp tư nhân Để thực hiện nhát quán chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích việc đầu tư kinh doanh bảo vệ lợi ích hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1263.doc
Tài liệu liên quan