Đề tài Vấn đề nghèo đói tại xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề 3

2.1. Ý nghĩa lý luận 3

2.2. Ý nghĩa thực tiễn 3

3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 3

4. Đối tượng khách thể và phạm vi nghiên cứu 4

4.1. Đối tượng nghiên cứu 4

4.2. Khách thể nghiên cứu 4

4.3.1. Địa điểm 4

4.3.2. Thời gian nghiên cứu 4

5. Mục tiêu nghiên cứu 4

5.1. Mục tiêu chung 4

5.2. Mục tiêu cụ thể 5

6. Phương pháp nghiên cứu 5

6.1.Phương pháp thu thập thông tin 5

6.1.1.Phương pháp quan sát 5

6.1.2. Phương pháp phỏng vấn 5

6.2. Phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và rủi ro 5

7. Bố cục bài báo cáo 6

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 7

1.1.Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 7

1.1.1. Vị trí địa lý 7

1.1.2. Điều kiện tự nhiên 7

1.1.3. Điều kiện kinh tế 8

1.1.4. Điều kiện văn hóa xã hội 11

1.2. Một số khái niệm liên quan 15

1.2.1. Nghèo 15

1.2.2. Đói 16

1.2.3. Nghèo tuyệt đối 16

1.2.4. Nghèo tương đối 16

1.2.5. Chuẩn nghèo 16

1.2.5.1. Chuẩn nghèo quốc tế: 16

1.2.5.2. Chuẩn nghèo Việt Nam 16

1.3. Một số lý thuyết liên quan 17

1.3.1. Thuyết nhu cầu 17

1.4. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam 18

1.4.1 Thực tiễn nghèo đói ở Việt nam 18

1.4.2. Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam 19

1.4.3. Quan điểm và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 24

1.4.3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước 24

1.4.3.2 .Mục tiêu thiên nhiên kỷ. 27

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NGHUYÊN NHÂN NGHÈO ĐÓI TẠI XÃ LỘC TRÌ, HUYỆN PHÚ LỘC TỈNH THỪA THIÊN HUẾ. 28

2.1. Thực trạng nghèo đói tại xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc. 28

2.1.1. Thực trạng đời sống của người dân địa phương. 28

2.1.2. Nguyện vọng của người nghèo tại địa phương 30

2.2. Nguyên nhân nghèo đói tại xã Lộc Trì 31

2.2.1. Nguyên nhân khách quan 31

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan 32

2.3. Công tác xóa đói giảm nghèo 33

2.3.1. Các chính sách xóa đói giảm nghèo 33

2.3.2. Thành tựu xóa đói giảm nghèo 34

2.3.3. Một số hạn chế hạn chế trong công tác xóa đói giảm nghèo 35

Chương 3: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI 36

3.1. Công tác xã hội với người nghèo 36

3.2. Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo tại xã Lộc Trì 37

3.2.1. Giải pháp về kinh tế 37

3.2.2. Giải pháp về xã hội 38

3.2.3. Giải pháp về thể chế 39

KẾT LUẬN 40

1. Kết luận 40

2. Kiến nghị 41

2.1. Đối với nhà nước 41

2.2. Đối với chính quyền địa phương 41

2.3. Đối với người dân địa phương 42

2.4. Đối với nhà trường 42

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44

PHỤ LỤC 45

1. PHIẾU PHỎNG VẤN 45

2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ 48

 

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6850 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề nghèo đói tại xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: 260.000đồng / tháng. ( Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ – TTG ký ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 ). Nhưng trong giai đoạn 2009 Bộ thương binh và xã hội cũng đưa ra chuẩn nghèo mới trong năm 2009. + Khu vực nông thôn: < 400.000 đông / tháng. + Khu vực thành thị: < 500.000 đồng / tháng. 1.3. Một số lý thuyết liên quan 1.3.1. Thuyết nhu cầu Thuyết nhu cầu của A. Maslow là thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con người nói chung. Cho đến nay, chưa có thuyết nào thay thế tốt hơn thuyết này mặc dù cũng có khá nhiều người muốn thay thế. Cấp độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người gồm nhu cầu ăn, mặc, ở... Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo vệ. Nhu cầu an toàn có an toàn về tính mạng và an toàn về tài sản. Cao hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu quan hệ như quan hệ giữa người với người, quan hệ con người với tổ chức hay quan hệ giữa con người với tự nhiên. Con người luôn có nhu cầu yêu thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp độ này là nhu cầu được nhận biết và tôn trọng. Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý, quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt xích” không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo một điều giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn vọng và kính nể. Vượt lên trên tất cả các nhu cầu đó là nhu cầu sự thể hiện. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và chỉ khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Thuyết nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được thỏa mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn được đáp ứng. Mỗi con người khi sinh ra giàu hay nghèo không phải do tự nhiên mà có, mà chính xã hội đặt ra.Sự tồn tại và làm thể nào để sinh tồn trong xã hội là nhu cầu của môi con người, Vậy nên việc đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất của người nghèo là cơ sở đầu tiên để giúp họ thoát nghèo. 1.4. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam 1.4.1 Thực tiễn nghèo đói ở Việt nam Sáng 30/5/2011, tại Hà Nội, Bộ lao động thương binh và xã hội đã công bố kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2010 và Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 - 2020. Bộ lao động, Thương binh và xã hội công bố kết quả tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo trên toàn quốc năm 2010 theo chuẩn nghèo mới (thu nhập hàng tháng của hộ gia đình nghèo là 400.000 đồng trở xuống ở nông thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị). Theo đó, tổng số hộ nghèo cả nước là 3.055.566 hộ, hộ cận nghèo là 1.612.381 hộ. Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010. Xét về tỷ trọng số người nghèo ở từng vùng so với tổng số hộ nghèo trên cả nước, với 77.802 hộ nghèo, chiếm tỷ trọng 2,55%, khu vực Đông Nam Bộ là khu vực có số lượng hộ nghèo thấp nhất. Khu vực Đông Bắc Bộ có số lượng hộ nghèo lớn nhất cả nước với 581.560 hộ, chiếm 19,03%. Điện Biên là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với mức 50,01%; ba tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ trên 40% đến dưới 50% là Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang. Năm tỉnh có  tỷ lệ hộ nghèo dưới 5% là Thành phố Hồ Chí Minh (0,01%), Bình Dương 0,005%, Đồng Nai 1,45%, Bà Rịa – Vũng Tàu 4,35%, Hà Nội 4,97%. Cũng theo chuẩn nghèo mới, cả nước có 81 huyện nghèo thuộc 25 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện nghèo theo Nghị quyết 30A năm 2008. Kết quả cuộc tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo trên toàn quốc là cơ sở để thực hiện các chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn 2011 - 2015. Cũng tại hội nghị, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức giới thiệu Nghị quyết số 80 về định hướng giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2011-2020 do Chính phủ cũng đã ban hành ngày 19/5. Với chiến lược này, Chính phủ Việt Nam kỳ vọng sẽ từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo sẽ tăng lên 3,5 lần so với hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/ năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn. Bộ mặt nông thôn, nhất là vùng nông thôn miền núi, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc… đã có nhiều thay đổi tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Theo nghị quyết, đối với xã nghèo, ưu tiên đầu tư trước để hoàn thành, đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới đối với cơ sở trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi./. 1.4.2. Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài. Chính sách nhà nước thất bại: Sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm. Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất. Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao. Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào thành phố. Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước. Các nguyên nhân theo vùng địa lý Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề nông. Đa số người nghèo sống bằng nghề nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, điều kiệnthời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người nghèo rất kém do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe,...). Với năng lực kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn trong cuộc sống của họ và tất nhiên người nghèo thì càng nghèo hơn. Ngoài ra người nghèo chủ yếu sản xuất nông nghiệp năng suất thấp do không có trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. khả năng nâng năng suất là rất khó khăn trong khi do áp lực của đô thị hóa ngày càng mạnh, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp. Những tác động của chính sách vĩ mô đến người nghèo chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng chưa hợp lý. Thông thường, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những người nghèo và như vậy đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều khó tránh khỏi. Các nguyên nhân từ cộng đồng: Sự cách biệt với xã hội còn lớn. Công việc của phụ nữ thường là ở nhà. Họ có ít thời gian để tiếp xúc với xã hội. Hộ nghèo có chủ hộ là nữ cảm thấy rất xa lạ với những quyết định có liên quan tới chính bản thân họ. Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại. Những nhóm dân tộc thiểu số nghèo hơn rất nhiều so với đa số người Kinh. Các nguyên nhân về mặt nhân khẩu học: Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Tỉ lệ phụ thuộc còn cao. (54%) (Nguồn: TCTK. Điều tra biến động DS-KHHGĐ 2005-2007). Thành kiến về vai trò của người phụ nữ còn tương đối khắc khe. Những hộ có chủ hộ là nữ có nhiều khả năng rơi vào cảnh nghèo hơn so với chủ hộ là nam giới.Trẻ em gái ít được đi học hơn , nếu có cũng ít được đi học cao. Phụ nữ thường phải nhận mức lương thấp hơn nam giới ở cùng một công việc và ít được tham gia vào các công việc điều hành quan trọng. Chẳng may trong trường hợp mất đi người chồng, người phụ nữ thường thiếu khả năng chống chọi nên dễ rơi vào đói nghèo. Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình Tính ổn định và liên tục của nguồn thu nhập còn hạn chế nhất là trong khu vực nông thôn do phải chịu nhiều rủi ro không lường trước được như thiên tai, dịch bệnh, sâu bọ hay giá nông sản thấp. Những người nghèo là những người thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo. Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định. Các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị mới ngày càng phát triển ở khu vực ngoại thành là cơ hội cho người dân sống nơi đây nhưng đồng thời đây cũng là thách thức lớn đối với người nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể tìm được việc làm tốt hơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu tìm được chỗ làm cũng chỉ là lao động phổ thông. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ, đồng thời nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Thông thường họ lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị kinh tế thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao, giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng này tất yếu dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân sống ở các huyện ngoại thành phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trên thực tế không phải nông dân nào cũng biết cách thay đổi “phương thức sản xuất” của mình, tức là phải tăng năng suất trên một đơn vị diện tích đất canh tác nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao,... Một số người khác sau khi nhận được số tiền đền bù từ mảnh ruộng của mình trong các dự án quy hoạch không biết sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn đến hệ quả là: Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn.Thứ hai, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp không tìm được việc làm mới, thất nghiệp gia tăng Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà của những người ở nơi khác đến, đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy người nông dân khó có cơ hội để duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất nông nghiệp như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón… đã làm tăng chi phí tính trên một đơn vị giá trị sản phẩm. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thểhoặc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng. Ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân còn thấp, vẫn tồn tại thái độ tiêu cực với cuộc sống. Nhiều người không thật sự muốn làm ăn, quanh năm họ chỉ trông chờ vào sự cứu trợ của chính quyền, thậm chí khi chưa đến mức bần cùng họ cũng không thể hiện chút nỗ lực nào, ngược lại là tìm mọi cách để có tên trong sổ nghèo với hi vọng được thụ hưởng một số quyền lợi cho không. Một số cá nhân khác do có vấn đề tâm lý (làm ăn thất bại, gia đình đổ vỡ…) nên không thiết tha với cuộc sống và trở nên rất tiêu cực (nghiện rượu, bài bạc…). Đây là những trường rất khó để thoát nghèo cho dù cá biện pháp chính sách có tốt đến đâu đi chăng nữa. 1.4.3. Quan điểm và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 1.4.3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm trong hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành vượt mức mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm…Từ năm 1992 đến năm 1998 với rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm từ 2 đến 3%. Đến hết năm 2010 tỷ lệ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%. Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác. Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN (Chương trình 133) cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo”.Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách...và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”. Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: * Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn. * Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản. * Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt... Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đọan 2011 – 2015 sẽ tiếp tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách xoá đói giảm nghèo đã và đang thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các chương trình phát triển kinh tế xã hôi khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà còn huy động được sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước, Ngân hàng thương mại…và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng, về đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả.Với những giải pháp đồng bộ như vậy, sẽ đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2015. 1.4.3.2 .Mục tiêu thiên nhiên kỷ. Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã công bố chiến lược ‘’tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo’ Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu : 1. Xoá bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói. 2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học. 3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế người phụ nữ. 4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. 5. Tăng cường sức khoẻ bà mẹ. 6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác. 7. Đảm bảo bền vững môi trường. 8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển. Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NGHUYÊN NHÂN NGHÈO ĐÓI TẠI XÃ LỘC TRÌ, HUYỆN PHÚ LỘC TỈNH THỪA THIÊN HUẾ. 2.1. Thực trạng nghèo đói tại xã Lộc Trì, huyện Phú Lộc. 2.1.1. Thực trạng đời sống của người dân địa phương. Lộc Trì là một trong hai xã có dân tộc thiểu số ( Dân tộc Mường sinh sống). Đời sống chủ yếu của cư dân nơi đây là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và trồng rừng. Hiện tổng dân số của xã là 8790 thì có đến 20% dân số sống dưới mức chuẩn nghèo. Lộc Trì là xã được thủ tướng chính phủ quyết định bổ sung vào danh sách xã đặc biệt khó khăn vùng bài ngang ven biển và hải đảo ngày 20/7/2007. Theo thống kê của UBND xã, toàn xã hiện có 261 hộ nghèo ( 18,8% ) với 915 khẩu, 144 hộ cận nghèo tương đương với 575 khẩu. Trong đó có tới 36 hộ gia đình đang sống trong những ngôi nhà tạm bợ, tình hình cho thấy rõ rằng nơi đây cần phải được nhà nước quân tâm nhiều hơn mới có thể khắc phục được tình trạng này. Đây là một xã vên Đầm Phá, tập trung chủ yếu là sản xuất nông nghiệp như: sản xuất lua, trồng hoa màu và nuôi trồng thuỷ sản gồm có: đánh bắt cá xa bờ, đánh bắt nhỏ lẻ ven Đầm Phá, nuôi trồng tôm cá và trồng rừng, ngoài ra còn có các nghề thủ công nhỏ lẻ. Hiện nay đây là khu vực thường xuyên xảy ra lũ lụt, đây là một yếu tố rất lớn ảnh hưởng đến đời sống của người dân nơi đây. Như vậy nghèo lại hoàn nghèo, người dân ở đây không có cơ hội tiếp cận các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Một số hộ vẫn đang phải sống trong những ngôi nhà tạm bợ. Qua khảo sát cho thấy, cho đến năm 2010 còn 36 gia đình chưa có nhà ở chắc chắn, một số hộ gia đình trong xã vẫn chưa có nước sạch, hiện tại họ đang phải dùng nước giếng khoan. Tuy nhiên nguồn nước này đã bị nhiễm mặn và nhiễm phèn.Thậm chí các hộ dân ở các khu tái định cư phải sử dụng nước ở đầm phá, hiện tượng này đã kéo dài nhiều năm nay. Vấn đề về điện thắp sáng thì hiện có gần 10% dân số của xã chưa có điện, mà hầu hết là những người này là những hộ nghèo.Nguyên nhân một phần là do ở người dân, có thể bản thân những người nghèo không có đủ khả năng chi trả cho khoản tiền điện hàng tháng, một phần là do điều kiện khó khăn về vị trí cũng như giao thông mà hệ thống điện vẫn chưa tới được các hộ dân, nhất là các khu tái định cư. Bảng 1: Tỷ lệ hộ nghèo của toàn xã SST Thôn Hộ % 1 Lê Thái Thiên 30 18,6 2 Đông Lưu 14 8,7 3 Đông Hải 18 11,1 4 Mậu Hòa 10 6,2 5 Cao Đôi 17 10,6 6 Trung An 6 3,7 7 Phước Tượng 31 19,2 8 Trung Phước 19 11,8 9 Khe Su 16 9,9 Tổng 261 100 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010, và nhiệm vụ kế hoạch năm 2011 của xã Lộc Trì (Trình tại kỳ họp HĐND xã lần thứ 15, khóa IX) Cho đến thời điểm này cuộc sống của người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là khu tái định cư ở thôn Lê Thái Thiên và khu định cư thủy điện. Những thiếu hụt trên ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giảm nghèo của bà con nơi đây. Mặt khác cho thấy rằng những người nghèo là những người có thu nhập thấp, không có việc làm ổn định, họ sống bằng nghề làm thuê làm mướn hay đánh bắt nhỏ lẻ, một số làm ruộng nuôi con ăn học. Do vậy, thu nhập không đủ chi dẫn đến tình trạng nghèo đói kéo dài. Trong số 161 hộ nghèo thì có tới hơn 50% chủ yếu là trồng lúa, hoa màu theo mùa vụ cho nên thu nhập còn phụ thuộc vào thời tiết, nếu được mùa thì may ra còn có một chút ít để chi tiêu trong gia đình còn không thị phải đi vay mượn. Một bộ phận khác là buôn bán nhỏ lẻ như bán hàng rong, làm tiểu thủ công nghiệp quy mô rất nhỏ, một số thì đang đi làm thuê hoặc đi làm tôm cá ven đầm Cầu Hai. Bộ phận này thường có thu nhập bấp bênh và thường không ổn định. Nếu tính ra thì thu nhập trung bình của những người dân nghèo nơi đây tầm khoảng từ 50.000 – 60.000 đồng/ ngày. Tuy nhiên mức thu nhập còn phị thuộc nhiều yếu tố, từng điều kiên cụ thể mà đôi khi có thể hơn nhưng có lúc lại không có thu nhập. Tình trạng thiếu đất, ít đất sản xuất khiến cái nghèo đeo đẳng trong nhiều gia đình từ đời này sang đời khác. Trình độ học vấn lại rất thấp (có đến 40% số người trong hộ nghèo chưa học hết bậc tiểu học), cơ hội tìm được việc làm của người nghèo rất khó khăn. Các gia đình nghèo đều rơi vào cảnh đông con. Đó là hệ quả nhận thức kém, mà nguyên nhân dẫn đến là học vấn thấp.Vì nghèo nên không có tiền ăn học. Vì không được ăn học đàng hoàng, nên mới đói nghèo. Đó là cái vòng lẩn quẩn mà người nghèo khó có thể thoát nghèo. 2.1.2. Nguyệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghèo đói tại xã lộc trì, huyện phú lộc tỉnh thừa thiên huếthực trạng nguyên nhân và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan