Đề tài Vấn đề xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ (trong thời gian gần đây) – thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I : ý nghĩa lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất khẩu

I .Khái niệm và ý nghĩa của xuất khẩu 3

1. Khái niệm xuất khẩu 3

2.Ý nghĩa của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 3

2.1. Ý nghĩa lý luận 3

2.2. Ý nghĩa thực tiễn 4

II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 4

1. Nhân tố khách quan 4

1.1. Chính sách của các nước nhập khẩu 4

1.2 Chính sách trong nước 5

2. Nhân tố chủ quan 5

III. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động xuất khẩu 5

1. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5

2. Tốc độ tăng trưởng luỹ kế 6

3. Cơ cấu hàng xuất khẩu 6

4. Về thị trường xuất khẩu 6

5. So với các nước trong khu vực 6

Phần II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ 6

I. Tổng quan về thuỷ sản của Việt Nam 6

1. Vai trò của thuỷ sản và của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản 6

2. Thực trạng nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản của Việt Nam 7

2.1. Phân bố ngư nghiệp 7

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngư nghiệp 8

2.3. Nuôi trồng thuỷ sản 9

2.4. Khai thác thuỷ sản 12

2.5. Chế biến thuỷ sản 14

II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ 17

1. Cơ cấu mặt hàng 17

2. Thực trạng xuất khẩu 18

3. Giải pháp tháo gỡ khó khăn 23

III. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang mỹ, những vấn đề đặt ra cần giải quyết 24

1. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ 24

2. Thành tựu 24

3. Thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân 26

3.1. Thuận lợi 26

3.2. Khó khăn 26

4. Những vấn đề cần giải quyết 29

Phần III. Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ 29

I. Mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ 29

1. Mục tiêu và phương hướng 29

2. Nhiệm vụ 31

2.1. Phát triển nuôi trồng khai thác 31

2.2. Tăng cường năng lực chế biến phục vụ xuất khẩu 32

II. Một số biện pháp đối với ngành thuỷ sản trong việc xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ 32

1. Đảm bảo đầu vào cho khai thác, nuôi trồng, chế biến 32

2. Chuyển đổi cơ cấu mặt hàng và tăng giá xuất khẩu 33

3. Đổi mới công nghệ cho nuôi trồng, khai thác, chế biến 33

4. Phát triển nguồn nhân lực và đổi mới quan hệ sản xuất 33

5. Chú trọng công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm 34

6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, hành lang pháp lý 34

III. Kiến nghị với nhà nước 35

1. Kiến nghị nhà nước 35

1.1. Chính phủ tạo điều kiện hỗ trợ tài chính cho ngành thuỷ sản bằng các biện pháp 35

1.2. Tăng cường phát triển hệ thống các cơ quan hỗ trợ và xúc tiến thương mại ở thị trường Mỹ 36

2. Kiến nghị với địa phưpưng mà doanh nghiệp đóng tại địa bàn 36

Kết luận 37

Danh mục tài liệu tham khảo 38

 

 

 

 

 

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2039 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ (trong thời gian gần đây) – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong giai đoạn 1991 - 1995 tăng với tốc độ 7,5 % / năm ; giai đoạn 1996 – 2000 tăng bình quân 5,9 % / năm . Cơ cấu sản phẩm khai thác có nhiều thay đổi : ngư dân đã chú trọng khai thác các sản phẩm có giá trị thương mại cao như tôm , mực , cá mập , cá song , cá hồng , góp phần tăng kim nghạch xuất khẩu. Cá nước ngọt cũng được chú ý khai thác . Việt Nam có trên 200.000 ha hồ trong đó hồ tự nhiên trên 20.000 ha còn lại là hồ chứa Vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều vùng trũng lớn , ví dụ : - Vùng Đồng Tháp Mười :140.000 ha - Vùng tứ giác Long Xuyên : 218.000 ha Hàng năm cá ở hệ thống sông Cửu Long tràn vào đây trong mùa mưa để kiếm ăn , đến mùa khô lại rút ra sông nên nông dân mỗi năm khai thác được khoảng trên 20.000 tấn . Nước ta có hàng ngàn sông . Trước đây nguồn lợi cá sông rất phong phú . Ví dụ vào thập niên 70 trên sông Hồng có trên 70 hợp tác xã đánh cá sản lượng khai thác hàng năm hàng ngàn tấn cá . Do khai thác quá mức nên nguồn cá sông cạn kiệt, ngư dân phải chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác . Các sông ngòi miền Trung cũng diễn ra tình trạng tương tự . Hiện chỉ còn sông Cửu Long vẫn duy trì được nghề khai thác với sản lượng xấp xỉ 30.000 tấn / năm , tạo công ăn việc làm cho 40.000 lao động ở 249 xã ven sông . Hệ thống kênh rạch chằng chịt ở Nam Bộ cung cấp một lượng cá đáng kể . 2.5. Chế biến thuỷ sản Chế biến thuỷ sản là khâu rất quan trọng trong quá trình sản xuất , kinh doanh thuỷ sản bao gồm nuôi trồng – khai thác – chế biến và tiêu thụ . Những hoạt động chế biến trong 15 năm qua được đánh giá là có hiệu quả , nó đã góp phần tạo nên sự khởi sắc của ngành thuỷ sản . Nguyên liệu thuỷ sản được cung cấp từ 2 nguồn chính là khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản . Nguồn hải sản là chủ yếu trong cơ cấu nguyên liệu trong những năm qua , chiếm 70 % tổng sản lượng thuỷ sản thu gom được ở Việt Nam , trung bình 10 năm từ 1985 – 1995 , sản lượng khai thác hàng năm là khoảng 700.000 tấn . Trong đó 40% sản lượng là cá đáy , 60 % là cá nổi , sản lượng khai thác phía Bắc chiếm 4,2 % , miền Trung 39,4 % và miền Nam 56,4 % . Giai đoạn 1985 –1995 tốc độ tăng bình quân là 4,1 % / năm , riêng giai đoạn 1991 – 1995 là 6,8%/năm. Sau năm 1995 , do nghề cá xa bờ được đầu tư mạnh hơn nên sản lượng khai thác hải sản tăng rất mạnh, vượt mức một triệu tấn ( 1.078.000 tấn ) vào năm 1997 , tăng 15,8 % so với năm 1996 , năm 1998 đạt 1.137.809 tấn tăng 12,2 % so với năm 1997 , năm 1999 đạt 1.230.000 tấn tăng 8,6 % so với năm 1998 . Nguồn nguyên liệu nuôi trồng từ khai thác nội đồng là khoảng 300.000 – 400.000 tấn / năm , nếu tính bình quân 10 năm từ 1985 – 1995 thì tốc độ tăng trưởng là 6,4%/năm. Tuy nhiên cũng giống như khai thác hải sản , sản lượng nuôi trồng thuỷ sản những năm gần đây cũng tăng mạnh , năm 1997 đạt 509.000 tấn , tăng 19,7 % so với năm 1996 và vượt mức 500.000 tấn ( 537.870 tấn ) vào năm 1998 . Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến , thói quen tiêu dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày càng nhiều. Năm 1991 chỉ có khoảng 130.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế biến xuất khẩu chiếm khoảng 15 % và khoảng xấp xỉ 30 % lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến cho tiêu dùng nội địa còn lại dùng dưới dạng tươi sống thì đến năm 1998 đã có khoảng 400.000 tấn nguyên liệu được đưa vào chế biến xuất khẩu , chiếm khoảng 24,3% tổng sản lượng thuỷ sản và khoảng 41 % nguyên liệu được chế biến cho tiêu dùng nội địa và như vậy chỉ còn khoảng 35 % nguyên liệu được dùng dưới dạng tươi sống . Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do đó sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau . Đối với các tàu đi dài ngày, sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối , rất ít phương tiện có hầm bảo quản . Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên nguyên liệu hầu như không qua xử lý bảo quản . Nguyên liệu hải sản thường bị xuống cấp chất lượng do phương tiện và đầu tư cho khâu bảo quản còn quá ít , quá thô sơ . Sau khi hải sản được đánh bắt thông qua 142 bến , cảng cá chưa được xây dựng hoàn chỉnh do đó về mùa nóng các loại hải sản thường bị xuống cấp nhanh chóng , giá trị thất thoát sau thu hoạch lớn (khoảng 30%). Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt , lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là chủ động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy chế biến , hầu như không qua xử lý bảo quản , chúng thường đảm bảo độ tươi , chất lượng tốt . Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành song tác động của nó không là bao , một phần do sản phẩm thị trường còn chấp nhận hay do những lý do kinh tế , tài chính , kỹ thuật mà bản thân ngư dân chưa thể áp dụng được . Khi phân phối lưu thông nguyên liệu phải trải qua nhiều khâu trung gian nên chất lượng cũng bị giảm sút . Các mặt hàng chế biến thuỷ sản : Các mặt hàng đông lạnh ( HĐL ) : Trong giai đoạn 1985 – 1995 , các mặt hàng này có tốc độ gia tăng trung bình 25,77 % / năm , giai đoạn 1990 – 1995 , lượng HĐL tăng mạnh ( 31,78 % ) , giai đoạn 1996 - 1998 lượng HĐL vẫn tiếp tục tăng mạnh ( trên 20% ) . Trong các sản phẩm thuỷ sản đông lạnh thì tôm đông lạnh vẫn chiếm vị trí độc tôn , thời kỳ 1990 – 1995 chiếm khoảng 56 % , năm 1997 chiếm 46 % và 1998 là 52,5 % . Mực và các mặt hàng cá đông lạnh cũng có tốc độ tăng trưởng rất mạnh . Các loại đông lạnh khác chủ yếu là các loại ghẹ , ốc , cua , sò , điệp ... có tốc độ tăng trưởng rất nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng có giá trị gia tăng . Xu hướng tăng của sản phẩm nay còn rất lớn . Mặt hàng tươi sống : gần đây cũng rất phát triển , chủ yếu dùng cho xuất khẩu , bao gồm các loại cua , cá , tôm còn sống hoặc còn tươi như cá ngừ đại dương . Mặt hàng khô : Dạng sản phẩm này được sản xuất khá phổ biến vì đơn giản về thiết bị , công nghệ , các loại sản phẩm chính là mực khô , cá khô , tôm khô , rông câu khô , các loại khô tẩm gia vị . Các mặt hàng khác : Bên cạnh các mặt hàng trên còn có các mặt hàng đồ hộp, bột cá gia súc, các sản phẩm lên men và các sản phẩm dùng cho xuất khẩu như vây , bong, cước cá hay dùng cho nội địa như ngọc trai , arga , dầu gan cá ... II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG MỸ. 1. Cơ cấu mặt hàng. Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ rất phong phú đa dạng , bao gồm các mặt hàng chủ yếu sau : .Tôm đông lạnh là mặt hàng chính , đứng hàng thứ nhất. Việt  Nam  là  nước  cung  cấp thủy sản lớn thứ 5 cho thị trường Mỹ, đồng  thời cũng  là nhà cung cấp  tôm  lớn  thứ  5  ở  thị  trường này. Nguồn cung tôm cỡ lớn của Việt Nam  có  vai  trò  quan  trọng trên thị trường này. Năm  2009,  Việt  Nam  xuất gần 123.000 tấn thủy sản sang thị trường Mỹ,  trị giá  trên 713  triệu USD,  tăng  14.6%  về  khối  lượng nhưng giảm 4,2% về giá trị. 9 tháng  đầu  năm  2010.  XK thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt trên  108.000  tấn,  trị  giá  666,66 triệu USD,  tăng  đáng  kể  so  với cùng kỳ năm ngoái, nhất là tốc độ tăng giá trị (37,4%) bằng gần gấp rưỡi  so  với  khối  lượng  (23,7%). Như  vậy  thủy  sản XK  sang Mỹ đã có cải thiện đáng kể về giá và mức độ chế biến sâu. Từ đầu những năm 2000, Mỹ đã  trở  thành  một  trong  ba  thị trường  tiêu  thụ nhiều nhất  thủy sản  của  Việt  Nam,  mặc  dù  có hai vụ kiện “chống bán phá giá” (CBPG)  đối  với  tôm  và  philê  cá tra đông lạnh. Mấy năm gần đây, giá trị XK sang Mỹ thường chiếm khoảng  16-22%  tổng  giá  trị  XK thủy  sản  của Việt Nam;  riêng  9 tháng đầu năm 2010 chiếm 19%, tăng đáng kể so với mức trên 16% của cả năm 2009. Các  mặt  hàng  thủy  sản  XK chính gồm tôm, chiếm 26,4% tổng giá  trị XK  tôm của Việt Nam; cá tra  (11%  tổng XK cá  tra); cá ngừ (45,3%); nhuyễn thể (3,7%). Trong đó, cá ngừ có được tốc độ tăng trưởng mạnh, tăng 62,5% về  khối  lượng  và  112,8%  về  giá trị (gần 100 triệu USD), ấn lượng nhất  là  cá  ngừ  đại  dương  đông lạnh  cao  cấp  và  cá  ngừ  hộp. Tỷ lệ cá dạng nguyên liệu ngày càng giảm.  Dự  đoán,  XK  cá  ngừ  của nước ta sẽ tiếp tục giữ vững nhịp độ trên trong những tháng tới. Sản  phẩm  của Việt Nam  XK sang Mỹ đáng  lo ngại nhất hiện nay là cá tra, mặc dù theo thống kê,  9  tháng đầu năm nay giá  trị XK đạt trên 113 triệu USD – mức cao nhất tính theo thị trường đơn lẻ. Cả  khối  lượng  và  giá  trị  XK vẫn tăng mạnh, tương ứng 20,9% và 17,1%,. Nhưng mới đây, nhiều nhà XK cá  tra bị đe doạ áp mức thuế CBPG (sơ bô) cho giai đoạn từ  1/8/2008  đến  31/7/2009  rất cao  do  Bộ  Thương mại Hoa Kỳ (DOC)  cố  tình  thay  đổi  phương pháp tính biên độ phá giá đối với cá tra Việt Nam. XK tôm 9 tháng đầu năm nay có chuyển biến rất tích cực, từ mức giảm khá sâu trong cả năm 2009, cả về khối lượng và giá trị (giảm 8,3% và 15,4% tương ứng). Giá trị XK 9 tháng đầu 2010 đạt 376 triệu USD, chỉ thấp hơn không đáng kể so với cả năm 2009. Mặc  dù  thị  trường  tiêu  thụ tôm của Mỹ thường biến động và cạnh  tranh  gay  gắt,  nhưng  tôm Việt Nam  đã  có  uy  tín  tốt  trên thị  trường  này.  Có  nhiều  triển vọng  XK  từ  nay  đến  cuối  năm vẫn  thuận  lợi  và  đạt  giá  trị  cao hơn  đáng  kể  so  với  năm  2009. - Đứng hàng thứ ba là cá biển đông lạnh các loại ( cá phi lê tươi đông lạnh , cá ba sa phi lê đông , cá ngừ vây vàng tươi ... ) . Ngoài ra còn có : -Mực đông lạnh : gồm mực phi lê đông block , mực nguyên con IQF ... -Nhóm hàng thuỷ đặc sản : yến sào , ngọc trai , cua huỳnh đế , ốc hương , sò huyết , ... Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ năm 2010 và dự báo 2011 TT Hạng mục ĐVT 2010 Dự báo 2011 Xuất khẩu thủy sản Tỷ USD 5,03 5.0-5.2 1 Tôm Tỷ USD 2.08 2.0-2.2 2 Cá tra Tỷ USD 1.40 0.9-1.0 3 Khác Tỷ USD 1.55 1.8-2.0 Nguồn: Hiệp hội chế biến thủy sản (VASEP) và dự báo của tác giả 2. Thực trạng xuất khẩu Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện nay , Mỹ được đánh giá là thị trường đầy triển vọng , đứng hàng thứ hai sau Nhật Bản(trong 6 tháng đầu năm 2001, chiếm 25,3 % kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ) . Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp , chỉ có 6 triệu USD . Từ đó giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục qua các năm . Năm 1997 , xuất khẩu bình quân vào Mỹ bình quân 3 triệu USD / tháng , năm 1998 đã lên tới 82 triệu USD ( tăng 14 lần năm 1994 ) và đưa Việt Nam lên vị trí 19 trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ . Trong 7 tháng đầu năm 1999 , kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 70,5 triệu USD và cả năm 1999 đạt 130 triệu USD . Trong 8 tháng đầu năm 2000 , theo công bố của Mỹ , Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ 21.855 tấn sản phẩm thuỷ sản các loại trị giá trên 200 triệu USD , chiếm khoảng 3 % giá trị nhập khẩu thuỷ sản của họ , cả năm 2000 đã xuất khẩu đạt giá trị 302,4 triệu USD (tăng so với năm 1999 là 114 % ) và trong 6 tháng đầu năm 2001 , xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về khối lượng , với giá trị 210,4 triệu USD (tăng so với cùng kỳ năm trước tương ứng là 94 % và 70,5 % ) , đến cuối năm 2001 , Mỹ lần đầu tiên đứng vào danh sách các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam với giá trị gần 500 triệu USD ( chiếm 28,4 % thị phần ) . Trong 9 tháng đầu năm 2002 Theo Hải quan Mỹ, mặc dù nền kinh tế đang trong thời kỳ khó khăn, đặc biệt sau sự kiện ngày 11/9/2001, nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2001vẫn tăng 1,45% so với cùng kỳ năm 2000và đạt 1.334 nghìn tấn. Sau đây là các mặt hàng nhập khẩu chính. Chỉ tiêu Khối lượng nhập khẩu (1000T) % tăng, giảm so cùng kỳ Cá tươi và cá đông - Cá ngừ tươi và đông 76,3 - 16,2 - Cá rô phi 38,8 + 21,2 - Cá biển tươi và đông 250,0 - 6,7 - Cá đông block 39,2 - 36,7 - Cá philê : + Cá catfish 6,05 + 142 + Tổng cộng cá philê 267,2 + 9,5 Tổng cộng cá tươi và đông 616,9 - 1,5 Giáp xác, nhuyễn thể - Tôm đông 262,4 + 8 - Cua đông 53,9 + 42 - Thịt cua 9,3 + 43 - Tôm hùm 33,1 - 5,5 - Mực ống 21,0 - 3,2 - Điệp 14,4 - 15,3 Tổng cộng giáp xác, nhuyễn thể 451 + 8,4 Hộp thuỷ sản - Hộp cá ngừ 106,5 - 10,5 Tổng cộng hộp cá 143,7 - 9 Tổng cộng hộp thuỷ sản 187 - 5,6 Tổng cộng hàng thuỷ sản thực phẩm 1.292 + 1,4 Tổng cộng hàng thuỷ sản kỹ thuật 42 13,5 Toàn bộ sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu 1.334 + 1,4 Nhìn chung, nhập khẩu các sản phẩm cá của Mỹ trong 9 tháng đầu năm có giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2000 Tuy nhiên, các mặt hàng tăng trưởng rất nhanh là cá philê ba sa và cá tra Việt Nam, cá rô phi. Nhập khẩu cá đông block giảm tới 36,7%. Các mặt hàng cao cấp đều có nhiều biến động. Nhập khẩu tôm đông vẫn giữ mức tăng cao là + 8%, cua đông là + 42%, thịt cua + 43%. Tôm hùm là mặt hàng cao cấp nhất lại có mức nhập khẩu giảm 5,5%. Điệp đông lạnh giảm tới 15,3%. Hộp cá ngừ giảm tới 10,5%. Tình trạng khó khăn về kinh tế và sau sự kiện 11/9 đã ảnh hưởng rất lớn tới mức nhập khẩu các sản phẩm thuỷ sản cao cấp của Mỹ. Tuy khối lượng nhập khẩu các mặt hàng tôm, cua, cá philê ... có tăng, nhưng giá nhập khẩu lại giảm nhiều. Theo Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong năm2001 kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt giá trị 489 triệu UDS, chiếm 27% giá trị xuất khẩu thuỷ sản và Mỹ là thị trường xuất khẩu đạt giá trị lớn nhất. Theo Hải quan Mỹ xuất khẩu tôm đông của Việt Nam sang Mỹ 9 tháng đầu năm 2001 như sau : Tháng Khối lượng tôm đông xuất khẩu (tấn) 1 1.118 2 703 3 1.032 4 1.113 5 1.775 6 2.966 7 3.733 8 4.607 9 3.724 Tổng cộng 20.771 Tôm đông Việt Nam chiếm 8% thị phần nhập khẩu tôm của Mỹ và đứng hàng thứ 4 trong số các nước xuất khẩu tôm sang Mỹ. Điều đáng tiếc là giá trung bình tôm đông nhập khẩu 9 tháng qua của Mỹ giảm sút chỉ còn 9,14 USD/kg, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2001 Kết quả là khối lượng nhập khẩu tôm đông của Mỹ tăng 8%, nhưng giá trị chỉ có 2,4 tỷ USD so với 2,6 tỷ USD cùng kỳ năm 2000. Tính đến tháng 10 năm 2000 , tôm đông chiếm tỷ trọng áp đảo trong các mặt hàng xuất khẩu của ta với 13.243 tấn, giá trị 201 triệu USD, chiếm 81% giá trị xuất khẩu thuỷ sản nói chung . Rất ít quốc gia xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ lại có tỷ lệ mặt hàng tôm đông lớn như của Việt Nam. Tôm đông Việt Nam chiếm 4,7% khối lượng nhập khẩu tôm vào Mỹ và đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia xuất khẩu mặt hàng này. Khác hẳn với thị trường Nhật Bản , tại Mỹ tôm đông Việt Nam có giá rất cao, trung bình tới 15 USD/kg . Việt Nam cùng với Thái Lan, ấn Độ , Inđônêxia và Trung Quốc đã tăng nhanh mức xuất khẩu tôm đông sang Mỹ để lấp khoản thiếu hụt do tôm nuôi của Ecuađo, Mêxicô, Panama, En Xanvanđo bị giảm sản lượng nghiêm trọng vì dịch bệnh. Trong năm 2001 xuất khẩu sang Mỹ các mặt hàng có khối lượng lớn như là:Tôm các loại(33.200 tấn), cá tra và cá basa(7.800 tấn), cá ngừ cá các loại(1.200 tấn) Mặt hàng trên là những thế mạnh của Việt Nam ở thị trường Mỹ Năm 2000 giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt khoảng 235 triệu USD, chiếm vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu tôm vào Mỹ . Tuy nhiên , hàng tôm đông Việt Nam vẫn chỉ giữ vị trí rất khiêm tốn trên thị trường Mỹ , chiếm 5,3 % sản lượng tôm nhập khẩu , trong khi Thái Lan là 44,2 % , Mê hi cô là 10,2 %... Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 973 tấn , giá trị 9,3 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2002 , tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 ( chỉ có 1,5 triệu), riêng cá ngừ vây vàng tươi đạt 710 tấn , giá trị 4,3 triệu USD . Cá biển đông lạnh các loại có giá trị xuất khẩu đứng hàng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2002 , trong đó cá ba sa phi lê đông là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1, 7 triệu USD, ( năm 2000 , cá ba sa phi lê có mức xuất khẩu 2.045 tấn , giá trị 8, 3 triệu USD , là mặt hàng độc tôn của Việt Nam tại thị trường Mỹ ) , cá biển phi lê đông đạt 536 tấn , giá trị 1,5 triệu USD . Mặc dù xảy ra tranh chấp về thương hiệu cá ba sa , nhưng năm 2001 sản lượng cá ba sa , cá tra chế biến xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp đôi năm 2000 , từ 14.000 tấn ( trị giá 42 triệu USD ) lên 31.000 tấn ( trị giá gần 75 triệu USD). Mặt hàng cua biển cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ ( bao gồm cua sống , cua đông, cua luộc , thịt cua đông ) đạt giá trị xuất khẩu 1,8 triệu USD ( riêng thịt cua đông có giá trị 722 nghìn USD ) trong 2 tháng đầu năm 2002 . Hộp thuỷ sản là sản phẩm được người Mỹ rất ưa chuộng với đủ các loại mặt hàng như hộp cá, hộp tôm, hộp cua, hộp mực và hộp nhuyễn thể 2 vỏ . Mức nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2000 lên tới 220 nghìn tấn (riêng hộp cá ngừ là 130 nghìn tấn) . Rất tiếc trong thị trường nhập khẩu hộp thủy sản rất sôi động này, sản phẩm của Việt Nam còn gần như vắng bóng . Trong năm 2002 do sự việc hiệp hội thuỷ sản Hoa Kỳ kiên các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bán phá giá tại thị trướng Hoa Kỳ cho nên việc xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam sang Mỹ gặp những khó khăn trong việc xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng nhìn chung xuất khẩu thuỷ sản vẫn có triển vọng phát triển mạnh tại thị trường Mỹ. 3. Giải pháp tháo gỡ khó khăn Trên cơ sở nghiên cứu các khó khăn , thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ có thể đề ra một số giải pháp sau : Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới công nghệ , từ Bloock chuyển sang IQF và hàng hoá đạt tiêu HACCP. Với sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ kiểu mới , đặc biệt là việc đặt ra các quy chế nghiêm nghặt trong vệ sinh an toàn thực phẩm , đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải hết sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm , thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là mặt hàng để ăn uống nên vấn đề vệ sinh phải được đặt lên hàng đầu . Tiến hành xuất khẩu ra nước ngoài nói chung , xuất khẩu vào Mỹ nói riêng thì việc đảm bảo uy tín là hết sức quan trọng . Để mối quan hệ làm ăn lâu dài cần khắc phục kiểu làm ăn chụp giựt , có khi mang tính lừa đảo như cho đinh , chì ... vào tôm để gian dối trọng lượng và kích cỡ, bơm agar vào tôm và lòng đỏ trứng gà vào đầu tôm ... Cần hết sức coi trọng hoạt động maketing , cần nhận thức rõ quảng cáo , giới thiệu sản phẩm là rất quan trọng nhưng đó chỉ là một phần của hoạt động marketing , có nhận thức đúng đắn về hoạt động marketing sẽ giúp các doanh ngiệp tăng doanh số tiêu thụ sản phẩm. Một vấn đề cần quan tâm nữa là vấn đề bao bì , bao gói sản phẩm. Bao bì của Việt Nam hiện còn rất thiếu sức hút , hấp dẫn khách hàng . Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm cần chú trọng đổi mới mẫu mã bao bì , sao cho thực sự “ bắt mắt ” với khách hàng , nhất là đối với những khách hàng có lối sống hiện đại kiểu Mỹ . Góp phần hỗ trợ cho các doanh ngiệp , không thể thiếu vai trò của nhà nước trong việc đổi mới cơ chế chính sách , đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường nhất là khi các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ trên thị trường Mỹ , đào tạo cán bộ quản lý , cán bộ khoa học cho ngành thuỷ sản . Sau sự kiện ngày 11 – 9 , với sự lo ngại của người dân Mỹ về nguy cơ khủng bố sinh học , các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng tạo ra sự tin tưởng an toàn tuyệt đối các sản phẩm thuỷ sản của mình . Tạo được sự tin tưởng này sẽ có tác động rất lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ . III. ĐÁNH GIÁ CHUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG MỸ, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT. 1. Đánh giá chung hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ. Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường rất có tiềm năng nhưng Việt Nam mới chỉ khai thác được một phần rất khiêm tốn. Nhìn chung là việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ bên cạnh những thuận lợi thì cũng còn gặp rất nhiều khó khăn như chúng ta đã đánh giá ở trên 2. Thành tựu Năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ 70.931 tấn thuỷ sản các loại, trị giá 489 triệu USD. So với tổng kim ngạch gần 1,8 tỷUSD với số lượng 538.833 tấn thuỷ sản đã XK trong năm qua thì lượng XK vào thị trường Mỹ là rất đáng kể . Bộ thuỷ sản đánh giá , Mỹ đang là thị trường thuỷ sản dẫn đầu của ngành thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam. Thị trường Nhật tuy vẫn tăng về giá trị , nhưng tỷ trọng đã giảm dần . Mỹ đã trở thành thị trường quan trọng chiếm vị trí dẫn đầu , với thị phần tăng nhanh từ 6% năm 1998 lên 27,81% năm 2001. Thị trường Mỹ cần được quan tâm, tiếp tục mở rộng do nhu cầu nhập khẩu hàng năm lớn tới khoảng 10 tỷ USD. Yêu cầu về chất lượng và an toàn cao nhưng không khắt khe như thị trường EU. Giá bán thuỷ sản sang Mỹ lại cao hơn các thị trường khác. Mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ ngày càng mở rộng với các mặt hàng tươi sống như cá ngừ , cá thu, cua. Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ , đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 . Sự kiện đó mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cần được chuẩn bị nắm bắt ngay từ bây giờ đối với các doanh nghiệp Việt Nam Việc không ngừng tăng kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ qua các năm đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của ngành thuỷ sản Việt Nam , thể hiện sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo mở cửa của Đảng . Việt Nam đã có 77 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Bắc Mỹ . Nhật Bản – khách hàng tiêu thụ nhất nhì thế giới- lại chìm đắm trong khủng hoảng , chính trị – xã hội thiếu ổn định, kinh tế hồi phục chậm , đồng tiền chao đảo mất giá khiến sức mua của dân tiếp tục giảm sút . Nhập khẩu tôm của họ trong 6 tháng đầu năm 2001 giảm 10 % so với cùng kỳ năm ngoái , giá nhập khẩu trung bình cũng giảm khoảng 20 % . Kết quả là lượng sản phẩm tôm tăng lên được dồn sang thị trường Mỹ , nhà nhập khẩu tôm đầu bảng , thị trường này đã nhập tăng 11 % so với cùng kỳ năm ngoái , trong đó từ Việt Nam tăng 108 %. Đương nhiên , giá nhập khẩu tôm của Mỹ cũng giảm theo giá của Nhật Bản . Trong tình hình trên , việc Việt Nam vẫn gia tăng thêm 25 % , đạt trên 37 nghìn tấn tôm xuất khẩu với giá trung bình chỉ giảm khoảng 11 % đã đánh dấu những cố gắng vượt bậc của các nhà chế biến – xuất khẩu nước nhà . Trước đây , phái đoàn ICD ( Mỹ ) đến thăm Việt Nam và làm việc với Bộ thuỷ sản , nghiên cứu sâu rộng , toàn diện ngành thủy sản Việt Nam , đánh giá cao tiềm năng phát triển nghề cá nước ta , cũng như vị trí quan trọng của ngành này trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam . Hoa Kỳ có số dân 266 triệu người với GNP là 7080 tỷ USD , bình quân thu nhập đầu người là 26.000 USD . Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 1,4 triệu tấn thuỷ sản các loại với kim nghạch 6,5 tỷ USD . Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường này tuy còn rất khiêm tốn . Mỹ thật sự coi Việt Nam là nguồn chính thức cung cấp thuỷ sản , đặc biệt là tôm . Trong thời gian qua tôm nhập khẩu vào Mỹ tăng lên rất nhanh , nhất là mặt hàng tôm nõn , tôm nõn rút gân , PTO , ngoài ra còn có một số loại cá nhiệt đới cũng bán chạy ở Mỹ như cá hông phi lê, cá rô phi đỏ và đen phi lê . 3. Thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân. 3.1. Thuận lợi. Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường rất có tiềm năng,giới tiêu dùng Mỹ đã quen dùng các loại thuỷ sản của Việt Nam nhất là cá tra cá basa. Đây là một lợi thế lớn đối với Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường phát triển nhanh chóng,rộng lớn. Thị trường Mỹ đang có xu hướng gia tăng tiêu thụ thuỷ sản trong khi đó thì cung nước này lại đang giảm dần. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng thị phần tại Mỹ. Chúng ta học hỏi được những kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước bạn 3.2. Khó khăn. Tại Mỹ , vào tháng 1 năm 2001 , giá tôm có xu hướng giảm bởi mối lo ngại kinh tế Mỹ suy thoái.7 Việc được hưởng quy chế MFN ( quy chế tối huệ quốc ) chưa phải là điểm quyết định để tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam , vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viênWTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển , nhưng Việt Nam chưa được hưởng chế độ này . Mức thuế trung bình MFN là 5 % nhưng nếu được hưởng thuế ưu đãi thì gần như bằng 0 % . Ngoài ra, hiện tại các mặt hàng tôm đông lạnh , cá sống, nghêu sò , dù chưa có hiệp định thương mại đã được hưởng thuế suất 0 % . Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ loại hàng thuỷ sản vào Mỹ , trong đó có rất nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như Thái Lan ( tôm sú đông , đồ hộp thuỷ sản ) , Trung Quốc (tôm đông , cá rô phi lê ) , Canađa ( tôm hùm , cua ) , Inđônêsia ( cua , cá ngừ , cá rô phi phi lê ) , Philippin ( hộp cá ngừ , cá ngừ tươi và đông , tôm đông và rong biển ) ... nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt , đặc biệt đối với một số mặt hàng chủ lực như tôm đông , cá phi lê , cá ngừ . Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu, Mỹ có nhu cầu cao về các mặt hàng cao cấp tinh chế ( tôm luộc , tôm bao bột , tôm hùm , cá phi lê , hộp thuỷ sản ...) nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế , tỉ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm khoảng 30 % giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Cụ thể với mặt hàng cá ngừ , hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi đông vào Mỹ (95 % giá trị xuất khẩu cá ngừ ) trong khi cá ngừ đóng hộp là hàng thuỷ sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112693.doc
Tài liệu liên quan