Đề tài Văn hóa kinh doanh Trung Quốc

Vùng trung và thượng du sông Hoàng Hà miền bắc Trung Quốc có khá nhiều nhà hang.

Tại vùng hoàng thổ Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Nam, Sơn Tây cư dân địa phương đào hang trên vách đất tự nhiên, và thường nối liền mấy hang với nhau, trong hang lát gạch đá, làm thành nhà hang. Nhà hang tránh lửa, tránh tiếng ồn, mùa đông thì ấm mùa hè thì mát, tiết kiệm đất đai, ít tốn công lại kinh tế, kết hợp hữu cơ giữa cảnh tự nhiên với cảnh sinh hoạt, là hình thức kiến trúc hoàn mỹ tuỳ nơi mà vận dụng linh hoạt, thể hiện sự thiết tha và quyến luyến của mọi người đối với đất hoàng

thổ.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3983 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn hóa kinh doanh Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giữa người với người trong một xã hội bất kỳ nào đó. Trung Quốc là quốc gia có khoảng quyền lực lớn với chỉ số là 80, trong khi chỉ số trung bình của các nước trên thế giới là 55. Một quốc gia có điểm Khoảng Cách Quyền Lực lớn sẽ CHẤP NHẬN và kéo dài sự bất bình đẳng giữa người và người. Một ví dụ về xã hội như vậy sẽ là một tháp quyền lực cao và nhọn; và việc một người di chuyển từ chân tháp lên đỉnh tháp sẽ rất khó khăn và hạn chế. Vì thế, trong xã hội Trung Quốc, người ta chấp nhận sự độc tài hoặc các thể chế mang tính mệnh lệnh, nhân dân ngoan ngoãn phục tùng lãnh đạo, nhân viên làm theo lời sếp, học sinh răm rắp nghe theo thầy cô, con cái không dám cãi cha mẹ - bởi họ coi đó là bổn phận, là điều đương nhiên. Sự phân chia đẳng cấp rất rõ ràng. Việc một người ở đẳng cấp thấp chuyển lên đăng cấp cao hơn là khó khăn. Chiều thứ hai: Chủ nghĩa Cá Nhân (Individualism - IDV) Chiều văn hóa này liên quan đến mức độ mà một xã hội chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, hay yêu cầu mọi người phải sống vì tập thể. Người Trung Quốc xếp hạng thấp hơn so với trung bình các nước trong bảng xếp hạng IDV, chỉ số này là 20 so với chỉ số trung bình là 43. Điều này có thể một phần là do chế độ Cộng sản có mức độ tập trung vào xã hội tập thể là cao so với chủ nghĩa cá nhân. Ở Trung Quốc con người từ khi sinh ra đã buộc phải hòa nhập vào một cộng đồng rộng lớn hơn, thường là tập hợp của các gia đình (với cô, chú, bác và ông bà v.v...). Cộng đồng này sẽ bảo vệ họ những khi khó khăn, nhưng đổi lại họ phải trung thành với cộng đồng mà không được quyền thắc mắc. Trong cộng đồng như thế, thành viên của nó thường phải theo đuổi cái gọi là trách nhiệm với cộng đồng (thể diện dòng họ, thể diện hàng xóm láng giềng, v.v...). Vấn đề sống hòa hợp và tránh làm mất mặt người khác được người Trung Quốc đặt nặng. Chiều thứ ba: Tránh Rủi ro (Uncertainty Avoidance - UAI) Chiều văn hóa này nói lên mức độ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi, những điều mới mẻ của một cộng đồng. Chỉ số tránh rủi ro Trung Quốc là 30, thấp hơn nhìu so với chỉ số trung bình của các nước trên thế giới là 64. Văn hóa Trung Quốc thể hiện sự tránh thay đổi ở mức độ trung bình. Mọi người trong xã hội có cảm giác bị đe dọa bởi các tình huống không rõ ràng (hay không biết trước kết quả), và cố gắn tránh những tình huống như thế bằng cách tìm công việc ổn định, thiết lập các luật lệ chặt chẽ và tránh những ý tưởng và hành vi mang tính đột biến. Đây cũng là một trở ngại cho việc xâm nhập của các tư tưởng mới, khác lạ so với tư tưởng cũ vốn thống trị. Thay đổi thể chế chính trị cũng gặp khó khăn, trừ khi có những biến động kinh tế - xã hội rất lớn khiến thể chế cũ không thể tồn tại. Chiều thứ tư: Nam Tính (Masculinity - MAS) Chiều văn hóa này nói lên mức độ xã hội chấp nhận hay không chấp nhận quyền lực truyền thống của người đàn ông trong xã hội. Chỉ số nam tính ở Trung Quốc là 66, chỉ số này là tương đối cao so với chỉ số trung bình của các nước là 50 Điểm Nam Tính cao chỉ ra ở Trung Quốc có sự phân biệt giới tính. Đàn ông có xu hướng thống trị trong phần lớn cấu trúc quyền lực gia đình và xã hội. Luôn tồn tại sự đối xử bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong mọi khía cạnh xã hội. Chiều thứ năm: Hướng tương lai (Long-term orientation – LTO) Chiều Hướng tương lai mô tả cách nhìn của một xã hội là hướng tương lai, hay sống chỉ hướng vào quá khứ và hiện tại. Geeft Hofstede phân tích định hướng tương lai của Trung Quốc có chỉ số LTD cao nhất (118), đó là sự thật cho tất cả các nền văn hóa của châu Á. Điều này chứng tỏ người Trung Quốc rất quý trọng sự bền bỉ (hay kiên nhẫn, bền chí), thích tiết kiệm, sắp xếp các mối quan hệ theo thân phận hay đẳng cấp xã hội, có khái niệm về "xấu hổ". Các cá nhân trong xã hội luôn lo lắng tương lai của mình sẽ về đâu, họ tiết kiệm chi tiêu để dành dụm cho những lúc trái nắng trở trời hay về già, họ trông đợi việc kiên gan sẽ đem lại thành công trong tương lai. Họ cũng coi trọng "kết quả cuối cùng" (virtue) hơn là "sự thật" (truth), họ thường lấy kết quả biện hộ cho phương tiện. LỐI SỐNG, MỘT SỐ THÓI QUEN PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC Nhà ở Do môi trường tự nhiên và tình hình nhân văn các khu vực Trung Quốc khác nhau, kiến trúc nhà ở các nơi cũng thể hiện bô mặt đa dạng hoá. Dòng chính kiến trúc nhà ở truyền thống ở khu vực dân tộc Hán là nhà ở kiểu quy củ, tiêu biểu là Tứ Hợp Viện Bắc Kinh áp dụng bố cục đối xứng qua trục chính. Tứ Hợp Viện Bắc Kinh chia làm nhà trước và nhà sau, nhà chính giữa là nơi kính trọng và sùng bái nhất, đây là nơi tổ chức lễ nghi gia đình, tiếp đón khách quý, các nhà ở đều có cửa hướng vào sân giữa, có hành lang nối với nhau. Tứ Hợp Viện Bắc Kinh đã thể hiện quan niệm tôn pháp và chế độ gia đình thời cổ Trung Quốc, nhưng khu nhà rộng vuông vắn, yên lặng thân thiết, hoa lá, cây cỏ ngăn nắp, là không gian sinh hoạt ngoài trời rất lý tưởng. Kiến trúc nhà ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc phần lớn là khu nhà rộng rãi như vậy. Nhà chính và nhà lầu Kiến trúc nhà ở của miền Nam Trung Quốc khá chặt chẽ, nhiều nhà tầng, nhà ở điển hình là nhà hướng vào sân có diện tích nhỏ hình chữ nhật. Kiểu nhà ở này bên ngoài vuông vắn, chất phác đơn giản, phân bố rất rộng tại các tỉnh miền nam TQ. Người Khách Gia ở khu vực phía nam Phúc Kiến, phía bắc Quảng Đông và Quảng Tây thường ở khu nhà tập đoàn cỡ lớn, khu nhà ở có hình tròn và vuông, gồm khu nhà chính một tầng ở giữa và khu nhà 4-5 tầng ở xung quanh tạo thành, loại kiến trúc này có tính phòng thủ rất mạnh, tiêu biểu là nhà lầu Khách Gia huyện Vĩnh Định Phúc Kiến. Vĩnh Định có hơn 8 nghìn ngôi nhà lầu với các hình vuông, hình tròn, hình tám cạnh và hình bầu dục, những lầu đất này quy mô lớn, tạo hình đẹp, vừa khoa học thực dụng, vừa có đặc điểm riêng, đã tạo thành thế giới nhà ở kỳ diệu. Thổ Lâu (nhà lầu đất) ở tỉnh Phúc Kiến được xây bằng đất sét, cát đá, mảnh gỗ, nối liền với nhau thành một cụm kiến trúc thành quách mang tính phòng ngự khép kín, gọi là Thổ Lâu. Thổ Lâu mang tính kiên cố, an toàn, khép kín và đặc thù tông tộc. Trong Thổ Lâu có giếng nước, có kho chứa lương thực, nếu xảy ra chiến loạn, thổ phỉ thì chỉ cần đóng cửa lại là hình thành một khối, dù bị vây hãm vài tháng vẫn có đủ lương thực. Cộng thêm có đặc tính mùa đông ấm áp mùa hè mát mẻ, kháng chấn và bão, Thổ Lâu là nời nơi sính sống của các đời người Hẹ. Kiến trúc nhà ở dân tộc Thiểu số Kiến trúc nhà ở vùng dân tộc thiểu số Trung Quốc cũng rất đa dạng, như nhà ở của dân tộc Vây-ua Tân Cương tây bắc Trung Quốc phần lớn là nhà mái bằng, tường đất, một đến ba tầng, bên ngoài có vườn vây quanh; nhà ở điển hình của người dân tộc Tạng tường ngoài xây bằng đá, bên trong kết cấu gỗ, mái bằng; dân tộc Mông Cổ thường ở trong lều bạt Mông Cổ có thể di động; còn các dân tộc thiểu số vùng tây nam thường xây các nhà sàn bằng gỗ dựa vào thế núi hướng ra mặt nước, dưới sàn để không, bên trên ở người, trong đó nhà sàn tre của dân tộc Mèo, dân tộc Thổ Gia. Nhà sàn thường xây trên đường dốc, không đổ nền nhà, chỉ lấy cột chống, nhà có hai hoặc ba tầng, tầng trên cùng rất thấp, chỉ để lương thực không người ở, dưới sàn để đồ lặt vặt hoặc nuôi gia súc. Nhà hang miền bắc và kiến trúc nhà ở thành cổ Vùng trung và thượng du sông Hoàng Hà miền bắc Trung Quốc có khá nhiều nhà hang. Tại vùng hoàng thổ Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Nam, Sơn Tây… cư dân địa phương đào hang trên vách đất tự nhiên, và thường nối liền mấy hang với nhau, trong hang lát gạch đá, làm thành nhà hang. Nhà hang tránh lửa, tránh tiếng ồn, mùa đông thì ấm mùa hè thì mát, tiết kiệm đất đai, ít tốn công lại kinh tế, kết hợp hữu cơ giữa cảnh tự nhiên với cảnh sinh hoạt, là hình thức kiến trúc hoàn mỹ tuỳ nơi mà vận dụng linh hoạt, thể hiện sự thiết tha và quyến luyến của mọi người đối với đất hoàng thổ. Trang phục Sườn xám (hay còn gọi là Xường xám) là trang phục truyền thống nổi tiếng của thiếu nữ Trung Quốc. Xuất hiện lần đầu tiên dưới thời nhà Thanh và nhanh chóng được các thiếu nữ đón nhận và trở thành biểu tượng của thiếu nữ Trung Hoa. Sườn xám lúc đó là kiểu cổ cao tròn ôm sát, ống tay hẹp, bốn mặt vạt đều xẻ, có khuy nối các vạt lại với nhau kèm theo thắt đai lưng, chất liệu vải thường là da thuộc và chỉ có những thiếu nữ con nhà quý tộc, địa chủ hoặc những thương gia mới mặc. Theo thời gian và văn hóa phương Tây tràn vào cách thiết kế cũng như chất liệu của Sườn xám cũng thay đổi nhiều với chiều hướng gọn gàng hơn, hấp dẫn hơn 6m sát người nhằm tôn lên các đường cong và vẻ đẹp của phụ nữ. Và cho đến ngày nay trên đường phố Trung Quốc đặc biệt ở thành phố Thượng Hải những thiếu nữ thướt tha với những bộ Sườn xám hiện đại nhưng không kém phần truyền thống, hấp dẫn nhưng cũng rất kín đáo. Từ những năm đầu thế kỉ hai mươi, Sườn Xám có sự thay đổi khá nhiều về mặt kết cấu,ví dụ như: cổ dựng, chỉ có hai bên vạt áo xẻ, ôm sát thân, tay áo có thể liền hoặc rời thân. Và bắt đầu từ những năm hai mươi, Sườn Xám xuất hiện dần dần trên đường phố Thượng Hải rồi lan sang Tô Châu, Hàng Châu, Dương Châu… Sau đó do ảnh hưởng của nền văn hóa phương tây Sườn Xám đã có một vài đổi mới so với thời Mãn Thanh: Cổ áo có thể cao hoặc thấp, ống tay lúc hẹp lúc loe, vạt áo dài ngắn tùy sở thích mỗi người. Trang phục truyền thống tiêu biểu của giới nam gồm có: Trường Bào, Mã Quái (một dạng áo khoác bên ngoài), hai loại trang phục này đều là trang phục của dân tộc Mãn Thanh, áo cổ tròn, ống tay cửa hẹp, Mã Quái thường là xẻ giữa, cài nút thắt, ống tay áo hình chữ U, còn Trường Bào thường là xẻ bên. Cũng có loại trang phục được kết hợp giữa Trường Bào và Mã Quái, loại trang phục này chỉ có vạt áo dưới của Trường Bào còn phần trên là Mã Quái, hai phần được nối với nhau bằng một dải cúc được đính ở mặt trong của Trường Bào, mặc hai loại trang phục này không chỉ thể hiện được sự long trọng mà còn đem lại cảm giác tự nhiên, thoải mái cho người mặc. Ngoài ra, trang phục của từng vùng, từng dân tộc cũng không giống nhau, đều mang những bản sắc riêng của mình. Ví dụ như, Yếm là loại trang phục truyền thống sát thân của trẻ con Trung Quốc tại Quan Trung và Thiểm Bắc, hai vạt của Yếm phía trên được buộc với nhau bởi hai dây vải vòng qua cổ, phía dưới cũng được nối với nhau bởi hai dây buộc vòng qua thắt lưng. Mặt trước của Yếm thường được dùng chỉ ngũ sắc để thêu các hình đầu hổ và ngũ tú, thông qua đó muốn gửi gắm hy vọng cầu mong cho con cái mình được manh khỏe… Các trang phục truyền thống của những dân tộc thiểu số cũng rất đặc biệt, ví dụ như trang phục của Nữ Huệ An tại Phúc Kiến hay của các dân tộc thiểu số Di, Bạch, Cáp Nê, Miêu (H’Mông), Mông Cổ….. Ăn uống Đất nước Trung Quốc rộng lớn với hơn 1,3 tỉ dân và lịch sử lâu đời, nền ẩm thực của họ cũng rất đa dạng và phong phú. Người ta thường nói ” ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật” qua đó có thể thấy nền ẩm thực Trung Hoa được đánh giá rất cao. Ẩm thực Trung Quốc bao gồm 8 trường phái lớn đó là: Sơn Đông, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô và An Huy Có sự khác biệt văn hóa rất lớn giữa các vùng khác nhau của Trung Quốc và do đó dẫn đến sự khác nhau giữa phong cách ẩm thực các vùng miền của Trung Quốc. Có 8 vùng ẩm thực chính ở Trung Quốc: Sơn Đông, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Nam, Chiết Giang, Giang Tô, An Huy, Bắc Kinh Một bữa ăn theo văn hóa Trung Quốc thương gồm hai thành phần chính: (1) nguồn cấp chất bột, gọi là "主食" trong tiếng Trung, (''zhǔshí'' Pinyin , nghĩa "Thức ăn chính") - thường là cơm, mỳ, hay mantou), và (2) thức ăn kèm theo như rau, thịt, cá. Cơm là một phần quan trọng bậc nhất trong ẩm thực Trung Hoa, Tuy nhiên, nhiều nơi ở Trung Quốc, đặc biệt là miền Bắc Trung Quốc, các sản phẩm làm từ lúa mỳ như mỳ sợi và các loại bánh bao (như mantou) thì chiếm ưu thế, trái với miền Nam Trung Quốc nơi gạo là chủ lực. Tuy nhiên có nhiều trường hợp thì cơm là món phụ và được dùng sau dùng dưới dạng cơm chiên. Món xúp thường được dùng trước và sau một bữa ăn ở Nam Trung Hoa. Đũa là dụng cụ ăn uống của Trung Quốc. Uống trà Trong sinh hoạt hằng ngày của người Trung Quốc không thể thiếu một loại nước giải khát là trà. Tục ngữ nước này có câu: “Củi đóm, gạo dầu, muối, tương, dấm và trà”. Trà được liệt vào một trong 7 thứ quan trọng trong cuộc sống. Ở Trung Quốc, trà đã hình thành một nền văn hóa độc đáo. Mọi người coi việc pha, thưởng thức trà là một nghệ thuật. Dùng trà để tiếp khách là thói quen của người Trung Quốc. Khi có khách đến nhà, chủ nhà liền bưng một chén trà thơm ngào ngạt cho khách, vừa uống vừa chuyện trò, bầu không khí rất thoải mái. Đến đời nhà Đường, uống trà đã trở thành thói quen của mọi người. Năm 780, ông Lục Vũ chuyên gia về trà của nhà Đường đã tổng kết kinh nghiệm trồng, làm và uống trà, viết cuốn sách Kinh nghiệm về trà đầu tiên của Trung Quốc. Đời nhà Tống, nhà vua Tống Huy Tôn dùng tiệc trà để thết các đại thần, tự tay pha trà. Trong hoàng cung nhà Thanh, trà không những dùng để uống, mà còn được pha tiếp khách nước ngoài. Ngày nay, hằng năm vào những ngày tết quan trọng như tết dương lịch hoặc tết xuân…, có một số cơ quan, đoàn thể thường tổ chức liên hoan tiệc trà. Từ xưa đến nay, ở các nơi đều có mở quán, hiệu trà với những hình thức khác nhau. Trên phố Tiền Môn tấp nập ở Bắc Kinh cũng có quán trà. Ở miền Nam, không những có lầu trà, quán trà, mà còn có một loại lều trà, thường là ở những nơi phong cảnh tươi đẹp, du khách vừa nhâm nhi, vừa ngắm cảnh. Uống trà cũng có những thói quen riêng, các loại cũng không giống nhau. Người Bắc Kinh thích uống trà hoa nhài, người Thượng Hải lại thích uống trà xanh. Người Phúc Kiến ở miền Đông Nam thích trà đen. Có một số địa phương, khi uống trà lại thích gia giảm, chẳng hạn như một số địa phương ở tỉnh Hồ Nam ở miền Nam thường lấy trà gừng muối để tiếp khách. Khi uống vừa quấy vừa uống, cuối cùng đổ bột đỗ tương, gừng, vừng và trà vào miệng ăn, nhấm nháp hương vị thơm ngon. Vì vậy có nhiều địa phương còn gọi uống trà là ăn trà. Cách pha ở mỗi địa phương lại có thói quen khác nhau. Dân miền đông Trung Quốc thích dùng tích pha trà. Có nơi, như trà công phu ở Trương Châu tỉnh Phúc Kiến ở miền Đông, không những tách, chén rất khác biệt, mà cách pha trà cũng rất đặc biệt, hình thành nghệ thuật rất độc đáo. Nghi lễ uống trà ở các vùng cũng không giống nhau. Ở Bắc Kinh, khi chủ nhà bưng trà mời khách, người khách phải lập tức đứng dậy, hai tay đỡ lấy chén, rồi cảm ơn. Ở Quảng Đông, Quảng Tây, sau khi chủ nhà bưng lên, phải khum bàn tay phải lại gõ nhẹ lên bàn 3 lần, tỏ ý cảm ơn. Ở một số khu vực khác, nếu như khách muốn uống thêm, thì trong chén để lại ít nước, chủ nhà thấy vậy sẽ rót thêm, nếu như uống cạn, chủ nhà sẽ cho rằng bạn không muốn uống nữa, thì sẽ không rót thêm nữa. Thói quen và thẩm mỹ Ngắm hoa mai Hoa mai là một trong những loại hoa thưởng thức được người Trung Quốc rất ưa thích, đến mùa hoa mai nở, đi đạp thanh thưởng mai đã trở thành thói quen của người Trung Quốc khi mùa xuân tới, mọi người trong khi thưởng thức vẻ đẹp nhã nhặn của hoa mai, họ còn vẽ mai, quay phim chụp ảnh và ngâm vịnh hoa, qua đó thể hiện tấm lòng say mê của mình đối với hoa mai. Núi Hoa Mai của Nam Kinh, tỉnh Giang Tô là một trong những thắng cảnh thưởng thức mai nổi tiếng của Trung Quốc, nó cùng vườn mai Ma Sơn ở Đông Hồ - Vũ Hán; Vườn mai hồ Điện Sơn-Thượng Hải và vườn mai Vô Tích được gọi là "Bốn vườn mai lớn của TQ". Hoa nở từ cuối tháng 2 tới cuối tháng 3, trong dịp này thành phố Nam Kinh đều tổ chức ngày hội hoa mai với quy mô lớn. Đây là ngày hội du lịch cỡ lớn cấp quốc gia của Nam Kinh, đến nay đã tổ chức thành công 14 lần. Hiện nay, tại thung lũng hoa mai trong khu phong cảnh lăng Trung Sơn-Nam Kinh có khoảng 10 nghìn cây mai đang đua nở. Thẩm mỹ Người Trung Hoa rất kỵ màu trắng vì vậy nếu không thật sự cần thiết thì không nên mặc đồ màu trắng và cũng không nên gói quà bằng giấy màu trắng vì người Trung Hoa coi màu trắng là sự tang thương, chia ly. Màu đỏ được xem là màu may mắn của người Trung Hoa, màu đỏ thường xuất hiện trong các ngày lễ tết, đám cưới, mừng thọ… Thờ cúng tổ tiên, thần linh: Rồng là con vật đứng đầu trong tứ linh truyền thuyết, rồng là thần vật được sung bái nhất trong văn hóa tín ngưỡng của người dân Trung Hoa. Khi nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc, ta có thể bắt gặp được hình tượng con rồng ở khắp nơi: rồng trong truyện thần thoại, truyền thuyết, rồng trong các tác phẩm nghệ thuật, gốm sứ… Đối với người dân Trung Quốc, những gì vĩ đại nhất, lớn lao nhất thường được gắn với rồng, nó là biểu tượng của thần quyền, Lễ hội Mỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định theo âm-dương lịch, 2 lễ hội còn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa theo Mặt Trời. Hai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đông chí. Các ngày lễ hội của Trung quốc như sau: Ngày Tên Lễ hội ngày 1 tháng 1 Tết Nguyên Đán Năm mới Các gia đình sum họp và ăn Tết trong 3 ngày; trước đây là 15 ngày ngày 15 tháng 1 Tết Nguyên Tiêu Lễ hội đèn lồng 4 hay 5 tháng 4 Tết Thanh Minh Tảo mộ ngày 5 tháng 5 Tết Đoan Ngọ Đua thuyền rồng và ăn rượp nếp (bỗng rượu) ngày 7 tháng 7 Thất tịch Ngày lễ tình nhân ngày 15 tháng 7 Tết Trung Nguyên ngày 15 tháng 8 Tết Trung Thu Gia đình sum họp và ăn bánh Trung Thu ngày 9 tháng 9 Tết Trùng Dương Trèo núi và triển lãm hoa ngày 21 hay 22 tháng 12 Lễ hội Đông Nghệ thuật kinh kịch Kinh kịch hay còn gọi là “Kinh hí” phát triển mạnh dưới thời vua Càn Long đời nhà Thanh. Kinh kịch là một loại hình nghệ thuật diễn tuồng trên sân khấu xuất hiện từ rất sớm trong đời sống tinh thần của người Trung Hoa và từ thời nhà Đường trở về trước thường được gọi là “Hí kịch”. Trong các tiết mục Kinh kịch thường có các màn biểu diễn xiếc, múa hát và đặc biệt là có những màn biểu diễn võ thuật cực kỳ công phu. Ngày nay, tuy giới trẻ Trung Quốc không còn dành nhiều sự quan tâm cho Kinh kịch nữa tuy nhiên Kinh kịch vẫn còn ảnh hưởng rất nhiều trong đời sống tinh thần của người Trung Hoa và những buổi biểu diễn văn hóa của Trung Quốc không khi nào thiếu những tác phẩm Kinh kịch. Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ các tài liệu lưu trữ của các triều đại cho đến các tiểu thuyết hư cấu từ thời trung cổ để phục vụ cho các độc giả người Trung Quốc biết chữ. Trung Quốc có một kho tàng văn học cổ điển phong phú, bao gồm cả thơ và văn xuôi, có niên đại từ thời nhà Đông Chu (770-256 BCE) và bao gồm các tác phẩm kinh điển được cho là của Khổng Tử. Trong số các tác phẩm kinh điển nhất của văn học Trung Quốc là Kinh Dịch. Trong thời kỳ hiện đại, tác gia Lỗ Tấn (1881-1936) có thể được xem là người sáng lập văn học bạch thoại hiện đại ở Trung Quốc. Văn học cổ đại Trung Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học các nước Hán hóa như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Ngày nghỉ, lễ tết Kể từ tháng 10/1999, các ngày lễ chính thức ở Trung Quốc đã kéo dài từ 7 đến 10 ngày, bao gồm ngày 1 tháng 1 (Tết dương lịch), 3 ngày đầu của tết âm lịch, ngày 1, 2, 3 tháng 5 và ngày 1, 2, 3 tháng 10. Vào các dịp này số người đi lễ rất đông và kẹt xe thường hay xảy ra. Vì vậy du khách đến Trung Quốc nên chọn ngày đi để tránh bất tiện do nạn kẹt xe ngoài đường. Lễ hội Trăng tròn tháng 8 (Tết Trung Thu): là dịp lễ rất quan trọng của người Trung Quốc. Vào dịp này, mặt trăng trở nên tròn nhất trong năm ở Trung Quốc. Theo truyền thống lâu đời của người Hoa, con người là một phần hòa hợp của thiên nhiên. Vào ngày trăng tròn nhất trong năm là dịp đoàn tụ các thành viên trong gia đình. Nếu một thành viên trong gia đình vì công việc quá bận rộn không về nhà được để tham dự Tết Trung thu thì những thành viên còn lại trong gia đình có thể nhìn lên ông trăng tròn để "đoàn tụ" trong tâm trí với người vắng nhà. Các ngày quốc lễ ở Trung Quốc: + Ngày 1 tháng 1: Tết Dương lịch + 3 ngày đầu tiên của Tết Âm lịch: Lễ hội mùa xuân + Rằm tháng giêng âm lịch: Lễ hội đèn lồng + Ngày 8 tháng 3: Quốc tế Phụ nữ + Ngày 5 tháng 4: Ngày tảo mộ + Ngày 1 tháng 5: Quốc tế Lao động + Ngày 4 tháng 5: Ngày Thanh niên + Ngày 1 tháng 6: Ngày Quốc tế Thiếu nhi + Ngày Mùng 5 tháng 5 âm lịch: Lễ hội thuyền rồng + Ngày 1 tháng 7: Ngày Thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Kỷ niệm ngày Hồng Kông được trao trả về Trung Quốc + Ngày 7 tháng 7: Kỷ niệm chiến tranh chống quân phát xít Nhật + Ngày 1 tháng 8: Ngày Quân đội + Ngày 10 tháng 9: Ngày Nhà giáo + Ngày 15 tháng 8 âm lịch: Tết Trung Thu + Ngày 1 tháng 10 (Quốc khánh Trung Quốc) 2 ngày nghỉ CHƯƠNG 4: MỘT SỐ NÉT VĂN HÓA CẦN CHÚ Ý KHI THAM GIA KINH DOANH VỚI NGƯỜI TRUNG QUỐC Văn hóa kinh doanh Giờ làm việc + Ở Trung Quốc, giờ làm việc ở các cơ quan chính phủ thường kéo dài từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Từ 12 đến 13:00 giờ là giờ nghỉ trưa. Mỗi tuần làm việc 5 ngày từ thứ 2 đến thứ 6. + Giờ hành chính ở các ngân hàng thường kéo dài từ 9:00 sáng đến 12:00 trưa, và từ 13:00 đến 17:00. Một số ngân hàng đóng cửa vào thứ 2. + Các cửa hàng bách hóa tổng hợp thường mở cửa vào 8:30 hay 9:00 sáng và đóng cửa vào 8:30 hay 9:30 buổi tối. Giờ làm việc ở đây có thể kéo dài hơn vào mùa hè. + Các trung tâm thương mại, quán rượu và khách sạn mở cửa 24/24 mỗi ngày. Nghi thức xã giao Người Trung Quốc không thích đối tác tìm hiểu họ thông qua việc hỏi họ trực tiếp quá nhiều. Mặt khác, họ thường yêu cầu đối tác báo giá trước. Họ thích đối tác thông báo cho họ biết càng nhiều chi tiết càng tốt. Họ dễ dàng nghi ngờ nếu đối tác muốn giấu họ một số thông tin nào đó. Vì vậy, hãy tỏ ra chân thành và cởi mở khi cung cấp thông tin. Người Trung Quốc thường thương lượng về giá cả sau cùng, họ luôn nài ép đòi thêm các phụ khoản (nhằm gián tiếp giảm giá) bằng cách chứng minh đối thủ cạnh tranh đã báo giá thấp hơn. Do đó, cần cân nhắc khi giảm giá, và đòi hỏi có sự điều chỉnh điều khoản khác của hợp đồng nếu phải giảm giá. Họ thường dùng hợp đồng soạn sẵn (có lợi cho họ) để che chống mọi tình huống mà họ có thể nghĩ ra được và từ chối mọi đề nghị sửa đổi của đối tác. Tuy nhiên, họ lại ác cảm với từ ngữ pháp lý vì nó rắc rối và khó hiểu. Tốt nhất, nên có hai bản hợp đồng bằng tiếng Việt (hoặc tiếng Anh) và tiếng Hoa và quy định bản tiếng Việt (hoặc tiếng Anh) có giá trị pháp lý khi kiện cáo (vì dịch thuật có thể không khớp với nhau). Trong hợp đồng cần có điều khoản chọn Trọng tài và luật áp dụng (vì hệ thống pháp lý của Trung Quốc chưa hoàn chỉnh). Trong thương lượng, người Trung Quốc có khuynh hướng WIN-LOSE, thích tìm yếu điểm của đối tác như giá cao, sản phẩm kém chất lượng hơn đối thủ cạnh tranh, công ty của đối tác cũng nhỏ hơn, chưa có văn phòng đại diện tại Trung Quốc... để buộc đối tác giảm giá. Do vậy, cần phải biết đội giá một cách hợp lý và đưa ra đề nghị giảm giá đúng lúc để người Trung Quốc thoải mái trong chiến thắng. Không nên trả lời cho họ biết ngày về, vì nếu biết họ sẽ kéo dài cuộc thương lượng để chúng ta mất kiên nhẫn, đến ngày cuối cùng họ tấn công và ép buộc đối tác chấp nhận theo điều kiện của họ để họ được thắng, nhằm lấy tiếng, tạo ấn tượng tốt với cấp trên và đồng nghiệp. Trong quá trình thương lượng, nên trình bày ngắn từng vấn đề, nhưng đừng ngại phải lặp lại nhiều lần và biết cách tóm lại. Trong bản ghi nhớ, đừng để doanh nhân Trung Quốc ràng buộc (suốt thời gian sau) về điều khoản "cam kết giúp Trung Quốc phát triển" vì đây cũng là một chiến thuật của người Trung Quốc. Người Trung Quốc vốn hiếu khách, các chủ doanh nghiệp thường tổ chức ăn uống khá thịnh soạn lắm lúc rất lãng phí. Việc đầu tiên khi gặp đối tác của họ là trao đổi danh thiếp, hỏi thăm tên tuổi, sức khỏe, tình hình gia đình, sau mới bàn đến công việc. Trong giao dịch, lúc đầu họ thường cẩn trọng, nhưng khi đã tin tưởng rồi thì dễ dãi hơn, có thể cung cấp hàng trước, nhận tiền sau. Người Trung Quốc cũng rất thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động mời khách hàng sang thăm trụ sở, nhà máy hay dây chuyền sản xuất. Việc này được người Trung Quốc đánh giá là có thành ý hợp tác, tăng cường mối quan hệ lâu dài giữa hai bên. Một số điểm cần chú ý khác Thứ nhất là phải biết giữ chữ tín, đây là yếu tố căn bản trong làm ăn, không riêng gì đối với doanh nghiệp Trung Quốc. Thứ hai là đôi bên cùng có lợi, không thể nói đến làm ăn mà chỉ một bên có lợi, thay vào đó cần phải biết chia sẻ cái lợi với nhau. Nguyên tắc thứ ba là hợp tác tích cực. Điều này có nghĩa khi xác định được mối quan hệ hợp tác với doanh nghiệp Trung Quốc thì phải tích cực thực hiện hợp tác đó để kết quả nhanh chóng đạt được và đúng như mong muốn của hai bên. Nguyên tắc thứ tư cần chú ý là cung cấp những sản phẩm chất lượng cao. Mặc dù Trung Quốc không phải là thị trường khó tính nhưng không phải sản phẩm nào cũng có thể chinh phục được người tiêu dùng Trung Quốc. Hơn nữa, thị trường Trung Quốc tập trung rất nhiều loại sản phẩm từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có sản phẩm của Trung Quốc vốn cũng đã có sức cạnh tranh mạnh, nên sản phẩm chất lượng cao sẽ dễ làm cho người tiêu dùng chấp nhận. Nguyên tắc cuối cùng là nên chung thủy với đối tác. Doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận và dễ dàng chia tay với đối tác cũ để làm ăn với những đối tác mới có thể có lợi nhuận cao hơn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctim_hieu_van_hoa_Trung_Quoc.doc
  • pdftim_hieu_van_hoa_Trung_Quoc.pdf
Tài liệu liên quan