Đề tài Vị trí vai trò của gia đình trong xã hội xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay

 

Mục lục

Trang

A. Phần mở đầu . 2

B. Phần nội dung . 6

Chương 1: Vị trí và chức năng của gia đình trong xã hội . 6

1.1. Gia đình và các hình thức gia đình trong lịch sử . 6

1.1.1. Khái niệm gia đình 6

1.1.2. Các mối quan hệ cơ bản trong gia đình . 7

1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử 8

1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội 9

1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội . 9

1.2.2. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội . 10

1.2.3. Tác động của xã hội đến gia đình . 11

1.3. Chức năng của gia đình . 12

1.3.1. Chức năng duy trì nòi giống 12

1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái . 13

1.3.3. Chức năng kinh tế . 14

1.3.4. Chức nang tổ chức đời sống gia đình. 15

Chương 2: Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay . 18

2.1. Thực trạng gia đình Việt Nam . 18

2.1.1. Gia đình Việt Nam trong lịch sử . 18

2.1.2. Gia đình Việt Nam hiện nay . 20

2.2. Những vấn đề đặt ra và giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam 24

2.2.1. Những vấn đề đặt ra . 24

2.2.2. Giải pháp 36

C. Phần kết luận . 38

Tài liệu tham khảo . 40

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4318 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị trí vai trò của gia đình trong xã hội xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biết đầu tiên của con cái cũng được đem lại từ gia đình. Bởi vậy, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái là chức năng thường xuyên của gia đình, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống, đạo đức của mỗi người. Đối với chức năng này, vai trò của cha mẹ đối với con cái trong việc giáo dục con cái là hết sức quan trọng. Cha mẹ giáo dục con cái về mọi mặt từ nội dung đến hình thức. Nội dung giáo dục trong gia đình mang tính đa dạng, toàn diện. Từ giáo dục về cách ứng xử hàng ngày với ông bà, cha mẹ, anh em, láng giềng… đến những việc nhân nghĩa, tình yêu quê hương, đất nước… hay đó là những bài học về giới tính, lứa tuổi, công việc… Đồng thời, hình thức giáo dục của cha mẹ không chỉ bằng lời nói, thái độ, tình cảm mà cha mẹ phải nêu gương trước, phải trở thành tấm gương mẫu mực cho con cái noi theo. Bên cạnh gia đình, nhà trường, xã hội và các tổ chức quần chúng có sự phối hợp, hỗ trợ trong việc giáo dục con người, nhưng không thể thay thế được. Bởi vậy, sai lầm nhỏ trong việc giáo dục của cha mẹ đối với con cái cũng có thể gây nên hậu quả đáng tiếc. Hiện nay, việc con cái yêu sớm rồi nạo hút thai ngoài ý muốn đang gióng lên hồi chuông báo động không chỉ cho các bậc cha mẹ mà cho cả xã hội. Nhiều người có con cái lâm vào tình trạng này đều đổ lỗi cho xã hội. Nhưng nếu xét kĩ thì nguyên nhân chính dẫn đến việc trẻ em vị thành niên yêu sớm, và quan hệ tình dục dẫn đến nạo hút thai vẫn thuộc về các bậc làm cha làm mẹ nhiều nhất. Vẫn còn đa số các bậc cha mẹ không quan tâm đến các mối quan hệ của con cái ngoài việc học hành của chúng. Đó là chưa kể đến các bậc phụ huynh mải lo buôn bán làm ăn, khoán trắng việc học hành cũng như tâm tư tình cảm của con mình cho người giúp việc, gia sư, nhà trường… Phải chăng, chính từ suy nghĩ và quan niệm như trên mà các bậc phụ huynh đã vô tình cho con mình vào con đường tình ái sớm, để lại hậu quả đáng tiếc cho các em và nỗi hận day dứt cho chính mình. 1.3.3. Chức năng kinh tế. Theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhân tố quyết định trong lịch sử là sản xuất. Bản thân sản xuất lại có hai loại: sản xuất ra con người và sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Bên cạnh việc sản xuất ra con người (chức năng duy trì nòi giống) gia đình còn tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính là chức năng kinh tế của gia đình. Với chức năng này, gia đình huy động mọi tiềm năng về sức lao động, vốn, tay nghề của nguồn lao động mà gia đình cung cấp cho xã hội. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế phù hợp với từng lứa tuổi, giới tính, trình độ… Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình cũng phát triển khá đa dạng, phong phú. Nó thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… trên mọi lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình, đồng thời đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội. Từ khi chế độ tư hữu ra đời thì người đàn ông chiếm vị trí quan trọng hơn so với người phụ nữ trong lao động. Điều này dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội như quan niệm: “trọng nam khinh nữ”… Xã hội càng tiến lên, càng phải vật lộn với cuộc sống. Chẳng những người đàn ông mà người phụ nữ cũng phải có tài. Ngày nay, phụ nữ đã và đang chứng tỏ được vai trò của mình trong gia đình với việc thực hiện chức năng kinh tế. Giờ đây, phụ nữ làm giàu còn giỏi hơn đàn ông. Theo kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu Anh, số lượng những phụ nữ giàu có tăng lên rõ rệt. Điều đó khiến chỉ riêng ở Anh đã có tới 360 nghìn nữ triệu phú. Đương nhiên, nó có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân chủ yếu là do các phụ nữ trẻ tháo vát và mạnh dan hơn nam giới trong các vấn đề tài chính, họ tiết kiệm hơn và tính toán hiệu quả hơn, biết tận dụng mọi khả năng của họ tốt hơn nam giới. Phần lớn, những phụ nữ kinh doanh thành đạt thường có gia đình êm ấm, hạnh phúc, hơn nữa người chồng thường hỗ trợ cho vợ bằng cách tự nguyện đảm nhận phần chủ yếu công việc nội trợ. Thế mới biết “thành công trong kinh doanh không phụ thuộc vào giới tính, miễn là bạn có sản phẩm tốt và những kỹ năng cần thiết”. 1.3.4. Chức năng tổ chức đời sống. Đây cũng là chức năng thường xuyên của gia đình. Việc tổ chức đời sống là việc sử lý hợp lý các khoản thu nhập, đóng góp của các thành viên trong gia đình nhằm đảm bảo nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên, đồng thời tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khoẻ, tình cảm, trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Chức năng tổ chức đời sống, là công việc của mọi thành viên trong gia đình. Nó có tính đa chiều: các thành viên có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Cha mẹ, ông bà có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, cháu chắt. Ngược lại, con cái có bổn phận kính trọng, hiếu thảo và phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Trong chức năng tổ chức đời sống gia đình, vị trí, vai trò của người phụ nữ càng nổi lên rõ rệt, thể hiện qua cách cư xử thường nhật: từ chuyện nội trợ đến vai trò, trách nhiệm làm tròn đến đâu với con cái, với cha mẹ hai bên, với họ hàng làng xóm… Công việc nội trợ là công việc rất quan trọng. Người phụ nữ phải biết “giữ” chồng con qua bếp lửa ấm. Còn gì hạnh phúc hơn sau một ngày làm việc mệt mỏi, cả gia đình được sum vầy, ấm cúng bên nhau. Công việc nội trợ vừa gắn kết tình cảm các thành viên với nhau, vừa nhanh chóng tái tạo sức lao động, bồi dưỡng trí lực, thể lực của mọi thành viên trong gia đình… Như vậy, để có hoà khí êm ấm của gia đình hạnh phúc là cả mồ hôi, công sức, đôi khi cả xương máu của người chồng, người vợ và các đứa con - những thành viên luôn khao khát một tổ ấm sum vầy. Dù thế, cuộc sống vẫn như một dòng chảy bất tận, và trong dòng chảy của sinh sôi phát triển, con người luôn truyền giữ nhu cầu xây đắp hạnh phúc dài lâu. Hơn lúc nào hết, mỗi người chúng ta cần ý thức gia đình là vấn đề toàn cầu. Tóm lại gia đình là đặc ân của con người, gia đình luôn đòi hỏi tình yêu thương, ý thức vun đắp dựng xây của mỗi thành viên, qua đó các chức năng cơ bản của gia đình được bộc lộ. Các chức năng của giáo dục không tách rời nhau mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Mỗi một chức năng là một đặc thù của gia đình mà không một cộng đồng xã hội nào có thể thay thế được. Đặc biệt, phải chú trọng đến vai trò người phụ nữ trong gia đình bởi đấy chính là thiên chức của người phụ nữ. Kết quả từ các cuộc thăm dò xã hội cho thấy, tỉ lệ phụ nữ mong ước và đạt kế hoạch cụ thể phấn đấu cho mẫu hình gia đình hạnh phúc thương cao hơn so với nam giới. Như vậy, không nên hiểu nhầm nam giới có ý thức gia đình kém hơn nữ giới. Chẳng qua, thiên chức bẩm sinh của phái mạnh thường hướng về sự nghiệp. Phái yếu thường đề cao vai trò và ý nghĩa của gia đình hơn. Chính vì vậy, quan tâm đến việc xây dựng gia đình tốt là quan tâm đến người phụ nữ, tạo điều kiện cho họ vừa tham gia các hoạt động xã hội, vừa làm tốt vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình, xứng đáng là người phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Chương 2. Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. 2.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay. Gia đình có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngược lại, gia đình cũng chịu tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội . Trình độ phát triển của xã hội quy định các hình thức gia đình và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình . Nước ta hiện nay đang ở chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện được nhiều chiến lược đổi mới toàn diện. Đặc biệt nền kinh tế chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển của kinh tế, gia đình Việt Nam đã có sự đổi mới so với trước kia. 2.1.1. Gia đình Việt Nam trong lịch sử. Gia đình truyền thống Việt Nam gắn với xã hội cũ: nền kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp, xã hội chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Nho giáo… Do đó nó mang nặng tính chất phụ quyền và gia trưởng: “trọng nam khinh nữ”, người đàn ông nắm quyền chỉ huy. Gia đình được xây dựng theo kiểu tôn ti trật tự rõ ràng và mọi người đều phải ý thức về phân vị, xử sự theo đúng thân phận của mình. Ví dụ: người phụ nữ tề gia nội trợ, người đàn ông quyết định mọi việc trong gia đình, tham gia vào các hoạt động của làng xóm, dòng tộc. Như vậy, gia đình gia trưởng có nề nếp, nhưng các thành viên trong gia đình có quan hệ bất bình đẳng với nhau (chồng - vợ, đàn ông - đàn bà, người trên - kẻ dưới…). Gia đình gia trưởng rất coi trọng mối quan hệ chiều dọc giữa các thế hệ trên, dưới. Nó chi phối các mối quan hệ ngang như vợ - chồng, mối quan hệ giữa chị - em. Dựa trên quan hệ chiều dọc mà người trên bảo thì người dưới phải nghe. Cha mẹ có quyền quyết định và chi phối mọi hoạt động của con cái và ngược lại, con cái phải phục tùng mọi sự chỉ bảo, sai khiến của cha mẹ. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ép duyên: “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” tồn tại trong xã hội cũ. Trong khi coi tọng mối quan hệ chiều dọc, mối quan hệ theo chiều ngang bị coi nhẹ đi: cái tôi cá nhân bị chìm ngập trong gia đình, họ tộc. Bên cạnh những mặt hạn chế trên, gia đình truyền thống Việt Nam cũng có nhiều yếu tố tích cực, được lưu truyền đến tận ngày nay. Đó là tình cảm yêu thương gắn bó lẫn nhau giữa các thành viên, đạo vợ - chồng phải thương yêu nhau, đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ; rồi tình cảm yêu quê hương, đất nước, dân tộc, tinh thần đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Những nét đẹp truyền thống này được gìn giữ và kế tục, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá đậm đà của dân tộc. ở Việt Nam, gia đình kiểu cũ kéo dài hàng ngàn năm đã không thể tự bảo tồn trước sự đổi thay của đất nước. Hoàn cảnh một nước phương Đông bị phong kiến bên trong và thực dân bên ngoài áp bức, đòi hỏi nhân dân ta phải vượt ra khỏi sự kìm hãm và ràng buộc của gia đình cũ. Thời cuộc quyết định thái độ của mỗi người đối với đất nước, với nhà, với bản thân. Lợi ích của quốc tế, thắng lợi của cách mạng Việt Nam không cho phép duy trì sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng trong gia đình. Tình cảm con người phải vượt qua cái ngưỡng cửa gia đình để vươn tơí những tình cảm lớn hơn của tổ quốc, không cho phép bo bo giữ lấy những gì là hẹp hòi, là thiển cận, phản tiến bộ trong những phép nhà, phép nước của Nho giáo. Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lớn trong lịch sử. Cách mạng không chỉ giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ nói chung, mà còn giải phóng cho gia đình. Các tầng lớp thanh niên và phụ nữ thoát khỏi sự coi thường và áp chế của bậc bề trên cao tuổi và của nam giới. Cách mạng khơi dậy ở họ những suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ sức mạnh để vùng lên, để đứng thẳng với tư thế con người. Hai cuộc kháng chiến đã thu hút những lực lượng vật chất và tinh thần to lớn của cả dân tộc và của mỗi gia đình. thanh niên không còn chỉ ở trong nhà, dưới sự sắp đặt của cha mẹ, mà đã tự khẳng định mình, đứng lên gánh vác sự mệnh thiêng liêng là bảo vệ tổ quốc và chủ động tham gia những công việc chung. Phụ nữ không chỉ còn quẩn quanh làm nội trợ và tham gia sản xuất vì lợi ích gia đình mà phải đảm đang việc nước, việc nhà, cầm cày, cầm súng, không chịu thua kém nam giới. 2.1.2. Gia đình Việt Nam hiện nay. Nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã từng bước thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội…. mà trọng tâm là chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó kinh tế gia đình có vị trí rất quan trọng và được Đảng và Nhà nước khuyến khích giúp đỡ. Theo Nghị quyết của Đảng: “Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế cách mạng chủ nghĩa”. Gia đình trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, không còn tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước như thời kinh tế bao cấp. Ngày xưa ở nước ta đại gia đình truyền thống với tôn ti trật tự cũng là mẫu mực và chuẩn mực của xã hội. Dưới uy quyền của người gia trưởng, gia đình truyền thống đã quy tụ các con cái đã có chồng, có vợ cùng với con cháu họ. Điều được nhấn mạnh trong hoàn cảnh gia đình này là vấn đề dòng dõi, vấn đề chuyển giao tài sản vật chất và tinh thần, chuyển giao truyền thống, chuyển giao những giá trị từng tồn tại trong quá khứ. Ngày nay thì khác, ngày nay trong gia đình thu hẹp, hai vợ chồng cùng với con cái chỉ nghĩ đến tương lai của họ và họ tự làm ra lịch sử của họ. Trong gia đình gọi là gia đình hạt nhân này, những quan hệ về dòng máu, ngày càng nhường chỗ cho mối quan hệ về tình yêu. Gia đình truyền thống nơi chứa đựng những giá trị quá khứ của gia đình, nơi thiêng liêng mà ở đó củng cố và tái hiện mối quan hệ thân tộc thì đã dần dần bị chọc thủng trong mạng lưới đô thị hoá. Với sự biến động thường xuyên của xã hội hiện đại, sự phụ thuộc của cặp vợ chồng vào quá khứ ngày càng giảm bớt. Họ ít nghĩ tới ngôi nhà thời thơ ấu, nơi họ đã sống với cha mẹ của họ. Ngày nay, họ chỉ mong ước xây dựng được một ngôi nhà phù hợp với họ trong một nơi mà họ lựa chọn lấy. Chế độ hôn nhân ở nước ta là chế độ hôn nhân một vợ một chồng thật sự trọn vẹn và được pháp luật ghi nhận. Vợ và chồng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong đời sống xã hội. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác… Khác hẳn với xã hội cũ, gia đình một vợ - một chồng chỉ là hình thức, chỉ là một chồng đối với phụ nữ, còn đối với đàn ông là chế độ đa thê, người vợ không có tiếng nói trong gia đình. Vì vậy, thực hiện chế độ một vợ - một chồng là thực hiện giải phóng phụ nữ. Hiện nay, các gia đình vẫn phát huy được truyền thống yêu nước. Họ coi bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng. Họ đã động viên con em mình thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự. Còn trong lao động các gia đình hăng say lao động, sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật. Thực hiện đầy đủ bổn phận và trách nhiệm với Nhà nước … Nhìn chung các gia đình luôn luôn có ý thức bảo vệ tài sản Nhà nước, tuân thủ pháp luật. Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới. Gia đình cũng đang tiếp tục chuyển biến. Cái mới và cái cũ còn đan xen nhau. Không còn chữ Hiếu mù quáng như xưa. Nhưng trong gia đình lại có không ít hiện tượng cha mẹ thờ ơ với việc nuôi dạy con cái còn con cái thì hỗn láo, bạc đãi cha mẹ. Cũng không ít những hiện tượng bất hoà và tranh chấp giữa anh em, chị em. Sự biến đổi trong quan hệ gia đình diễn ra khá phức tạp. Mấy năm gần đây lại xuất hiện khuynh hướng trở lại với những nền nếp của gia đình xưa. Người ta xây dựng nhà thờ, sửa sang lại mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả, đi lại thăm hỏi lẫn nhau, bày tỏ tình cảm sẵn sàng cưu mang lẫn nhau trong nội bộ gia đình và dòng họ. Tuy nhiên, khôi phục truyền thống không có nghĩa là quay trở lại những cái tiêu cực của gia đình kiểu cũ, trong đó có nhiều nguyên tắc đã lỗi thời của đạo đức Nho giáo. Trong xã hội ta hôm nay và ngày mai, gia đình vẫn tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong sự nghiệp chung của đất nươc. Đạo đức cũ của dân tộc trong đó có những nhân tố đạo đức. Nho giáo còn tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều điều bổ ích nhưng chúng ta lại không thể tiếp thu toàn bộ những quy tắc sinh hoạt của gia đình kiểu cũ. Chúng ta cũng không thể bắt chước nước này hay nước khác trong cách thức họ tiếp thu những quan điểm Nho giáo về gia đình để phục vụ cho chế độ xã hội của họ, cho lợi ích giai cấp của giới cầm quyền. Sự khác nhau giữa ta với họ là sự khác nhau giữa hai chế độ. Khi giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản còn nắm quyền điều hành đất nước thì sinh hoạt và đạo đức gia đình ở những nước này không giống như sinh hoạt và đạo đức trong gia đình ở những nước mà nhân dân đã nắm chính quyền làm chủ đất nước như ở Việt Nam. Gia đình Việt Nam ngày nay không nằm trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và tư sản mà lại ra đời trên cơ sở đánh đổ những chế độ ấy. Cái gắn bó trong quan hệ gia đình cũ là quyền lợi kinh tế của mỗi thành viên do người gia trưởng chi phối. Cái gắn bó trong quan hệ gia đình mới là tình cảm trong sáng và sâu sắc giữa các thành viên trên cơ sở quyền lợi chung của dân tộc và quyền tự do hạnh phúc của mỗi con người. Tình cảm gia đình hiện nay phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện chứ không phải do sự áp đặt của quyền lực chính trị và sự trói buộc của quyền lợi kinh tế. Tình cảm sâu sắc trong gia đình nhỏ tất yếu dẫn tới những tình cảm đối với gia đình lớn, với bà con trong thân tộc, với dòng họ, với láng giềng xóm phố, với địa phương mình ở và thiêng liêng hơn nữa là tình cảm sâu sắc đối với tổ quốc của mình. Những tình cảm ấy là cơ sở vững chắc của mọi quan hệ đạo đức giữa người với người, cần được khồng ngừng củng cố và nâng cao ở mọi thành viên từ nhỏ đến lớn. Chính vì thế, giải pháp gia đình trước hết là giải pháp tình cảm. Để thực hiện giải pháp này nhân dân ta đã có rất nhiều sáng kiến được thực hiện có kết quả. Gia đình Việt Nam đang xây dựng những quy tắc mới bảo đảm những quan hệ lành mạnh và có kỷ cương giữa các thành viên trong gia đình. ở đây, những tình cảm lành mạnh và sâu sắc thể hiện qua những quan hệ chung thuỷ thân yêu, chăm lo cho sự tiến bộ của nhau về đạo đức và tài năng, phục vụ cho lý tưởng cao cả của dân tộc. Tình cảm ấy không giống như tình cảm ngày xưa thể hiện ra bên ngoài qua thái độ sợ sệt và hống hách ở chế độ phong kiến trong quan hệ giữa tầng lớp vua quan thống trị và các tầng lớp nhân dân bị thống trị. Sự bất bình đẳng này trong xã hội vốn tìm chỗ dựa của nó trong sự bất bình đẳng trong gia đinh. Nhân dân ta đã từng đổ bao xương máu và mồ hôi để giành lại độc lập tự do, xây dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là nền tảng của xã hội mới, phải bảo vệ những thành quả mà cách mạng đã đạt được chứ không phải đi ngược lại những thành quả ấy. 2.2. Những vấn đề đặt ra và giải pháp xây dựng gia đình hiện nay. 2.2.1. Những vấn đề đặt ra: *Bạo lực trong gia đình: Bạo lực trong gia đình là “bất kì một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn thất về thân thể, về tình dục, tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư”. Như vậy, bạo lực trong gia đình được đề cập đến nhiều nhất, nó tồn tại ở mọi vùng lãnh thổ, mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội. Thời gian gần đây xu hướng phi tập trung hoá trong quản lý kinh tế và xã hội đã đem lại cho hộ gia đình những chức năng và vai trò kinh tế - xã hội mới vô cùng quan trọng. Địa vị vai trò của các thành viên trong gia đình cũng thể hiện theo những xu hướng rất khác nhau. Đàn ông hành xử có tính hướng ngoại. Phụ nữ, ngoài việc tham gia vào các hoạt động kinh tế, còn phải gánh vác hâu như toàn bộ công việc gia đình. Nhất là ở nông thôn, khu vực kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, phụ nữ luôn là lao động chính trong hầu hết các khâu cảu quá trình sản xuất. Bạo lực không nhìn thấy được gắn liền với bất bình đẳng trong phân công lao động đang có xu hướng tăng lên. Trong xã hội hiện đại, bạo lực trong gia đình, ngày càng được biết đến với nhiều dạng thức tinh vi, gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng không chỉ trong gia đình, mà còn cho cả xã hội. Nỗi đau về thể xác, khủng hoảng về tinh thần, sự rạn vỡ các quan hệ thiêng liêng trong gia đình khó mà hàn gắn được. “ở Mỹ cứ 100 vụ ly hôn có 90 do bạo lực - Thái Lan là 76, ở Hà Nội là 51. Thành phố Hồ Chí Minh là 56. Chênh lệch này không phải do ở ta ít mà do phụ nữ không nói ra, do vậy phải đưa pháp luật vào gia đình” (M.Hoàng - Đăng Khoa, Lao động, 19-9-1999). Bạo lực trong gia đình ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới việc giáo dục, hình thành nhân cách, hành vi và ứng xử của con trẻ - nguồn lực cơ bản trong tương lai của xã hội. Trẻ trưởng thành trong các gia đình nhiều hành vi bạo lực, thường có các biểu hiện tâm lý: “Trẻ không biết ai đúng sai? Nghe theo ai?, trẻ trở nên bướng không vâng lời, trở nên hiếu thắng bằng bạo lực, dùng bạo lực với người khác, khi có gia đình lại lặp lại gương của bố mẹ”. (Nguyễn Vũ, Giáo dục và thời đại, 20-1-2000). Nếu lời cảnh báo trên được kiểm chứng, thì để chống lại “vi rút bạo lực”, xã hội không có phương thuốc nào hiệu quả hơn là ngăn chặn bằng mọi cách, bạo lực trong gia đình - môi trường xã hội hoá đầu tiên của trẻ thơ. Muốn hạn chế được bạo lực, việc đầu tiên là cần nâng cao đời sống tinh thần - văn hoá - xã hội, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật cho phụ nữ, tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể, hội phụ nữ… Bên cạnh thiết chế thân tộc, thái độ đúng đắn và tích cực của cộng đồng nơi cơ trú và làm việc của phụ nữ cũng là tác nhân tham gia vào quá trình kiểm soát và điều hoà, làm giảm bớt thói gia trưởng- nguyên nhân sâu xa của bạo lực. Đối với nạn bạo lực, ngoài sự can thiệp của luật pháp, áp lực của cộng đồng và các tổ chức xã hội, khi bạo lực xảy ra, chưa có sự can thiệp kịp thời từ bên ngoài, ở Việt Nam chúng ta nên chăng thử học tập kinh nghiệm của nước ngoài đó là nhà tạm lánh. “Nhà tạm lánh phải được phối hợp giữa Chính phủ và các tổ chức từ thiện - không chỉ để lánh mà còn tư vấn thậm chí còn dạy nghề. Quan niệm Việt Nam khó chấp nhận phụ nữ bỏ nhà ra đi. Khi hỏi người bị chồng đánh thì 13,3% cần tạm lánh, 86,7% không thể rời gia đình (mẫu 150). (Nguyễn Thiện, Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, 6-11-1999). Tuy nhiên, ai đứng ra xây dựng Nhà nước hay cộng đồng? Quản lý và hoạt động của nhà tạm lánh như thế nào còn là thách thức lớn với các nhà làm công tác xã hội ở nước ta. Một trở ngại khác là ràng buộc của tập tục phong kiến còn nặng trong chị em - nạn nhân chủ yếu của nạn bạo lực. *Tảo hôn, tình dục trước hôn nhân, sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Thanh niên đô thị hiện nay có xu hướng chung là chậm kết hôn, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, có con chậm, dành thời lực cho sự nghiệp. Thậm chí không ít người chịu ảnh hưởng của lối sống phương Tây, chấp nhận cuộc sống độc thân mưu cầu danh nghiệp. Ngược lại, thanh niên nông thông vẫn đang trong tình trạng tảo hôn. Những vùng dân tộc thiểu số hay các địa phương có đặc trưng riêng như ngư dân, làng nghề gia truyền tinh xảo,… nạn tảo hôn càng nghiêm trọng. Nạn tảo hôn ở nông thôn gấp 4 lần ở thành phố, trình độ văn hoá chủ yếu là chưa hết phổ thông trung học. Học vấn tỷ lệ nghịch với tảo hôn. Luật hôn nhân gia đình nước ta quy định nữ 18 tuổi mới được kết hôn, nhưng thực tế tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra công khai, pháp luật bị vi phạm ngang nhiên. Vì thế có thể nhìn thấy rất rõ sự sai lệch giữa các thể chế thực thi pháp luật và những ràng buộc khác trong cộng đồng ở nưcớ ta. ở nông thôn khi có trường hợp tảo hôn, chính quyền xã - cơ quan cấp giấy đăng ký kết hôn - biết thì cũng ít có khả năng ngăn chặn vì chúng đều là con cháu trong nhà. Nếu chính quyền không cho đăng ký thì lễ cưới vẫn được tổ chức, vài năm sau, có con lúc đó đã đủ tuổi thì đăng ký. Chính quyền không có bất cứ một biện pháp cưỡng chế hay chế tài nào. Khi còn kinh tế tập thể, việc thể chế bằng các biện pháp kinh tế của hợp tác xã, và hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng đã góp phần hạn chế tình trạng tảo hôn. Dường như tự chủ về kinh tế, làm cho các bậc cha mẹ cảm thấy họ có quyền tổ chức hôn nhân cho con bất cứ lúc nào họ thích. Quan hệ tình dục sớm, tình dục trước hôn nhân là hiện trạng đáng báo động. Nếu như ở nông thôn, tảo hôn là vấn đề nhức nhối, thì ở thành phố, xu hướng tách rời quan hệ tình dục với hôn nhân (được hiểu theo nghĩa trước và ngoài hôn nhân) đưa đến những hệ luỵ vô cùng nguy hại. Những “bà mẹ bất đắc dĩ”, những cuộc trả thù tình địch dã man, những vụ quyên sinh đầy thương tâm, là hậu quả xã hội của những hành vi tình dụng phi chuẩn mực và thiếu hiểu biết trong quan hệ giới tính. Nguyên nhân về mặt xã hội là sự buông lỏng kỷ cương, chuẩn mực đạo đức trong quá trình tăng trưởng kinh tế và mở cửa. Bố mẹ bị cuốn theo nhịp sống sôi động, không gần gũi con cái, ảnh hưởng của văn hoá đồi truỵ… Trong khi đó trẻ vị thanh niên đang trải qua giáo dục biến chuyển rất phức tạp về tâm-sinh lý, đòi hỏi việc quan tâm thường xuyên của cha mẹ, nhà trường và người xung quanh “Các biện pháp giáo dục giới tính, tránh thai chưa tới được vị thành niên, cần nghiên cứu đưa vào nhà trường. Chưa tận dụng hết được năng lực của các chuyên gia, học giả” (Nguyễn Văn Dũng, Nhân dân, 12-1-2000). *Giới, bất bình đẳng giới, phân công lao động gia đình và địa vị xã hội. Bản chất mối quan hệ gia đình phản ánh nền văn hoá của một dân tộc, tính chất của chế độ chính trị, xã hội và tác động của các nền văn hoá khác. Địa vị, vai trò của phụ nữ Việt Nam luôn bị ảnh hưởng bởi tập tục và lễ giáo phong kiến, hằn sâu từ bao đời trong nếp nghĩ, cách hành xử nơi gia đình và xã hội. Họ luôn phải đối mặt với áp lực công việc và áp lực gia đình. Đối mặt với sự khó tương thích giữa chăm sóc gia đình, giáo dục con cái được coi là thiên chức của phụ nữ - với nâng cao địa vị xã hội - nghề nghiệp. Sự bất bình đẳng giới được bắt nguồn từ trong gia đình, từ những mối quan hệ gần gũi như quan hệ vợ chồng. Chính vì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctlieu.doc
Tài liệu liên quan