Đề tài Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế

I.Lời mở đầu: 1

II.Phần nội dung: 2

1.Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế: 2

2.Quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế: 4

3.Một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế: 5

3.1 Các quy định cơ bản về thương mại hàng hóa quốc tế: 6

3.2 Các quy định cơ bản về thương mại dịch vụ: 11

4. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số những hoạt động cụ thể trong các tổ chức quốc tế : 20

4.1 Hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam vào ASEAN: 20

4.2 Hội nhập kinh tế của Việt Nam vào tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương: 24

4.3 Việt Nam hội nhập WTO: 26

5.Các giải pháp nhằm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả: 29

5.1 Giải pháp tổng thể: 29

5.2 Giải pháp trong một số lĩnh vực vụ thể: 30

III.Kết luận: 34

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tự vệ là yêu cầu nước thành viên khi xem xét sử dụng biện pháp tự vệ phải đưa ra cơ hội thích hợp để tham vấn trước với các nước thành viên có quyền lợi đáng kể với tư cách là nhà xuất khẩu sản phẩm liên quan. Các rào cản phi thuế quan: Hàng rào phi thuế quan là khái niệm chỉ các rào cản đối với thương mại và không phải thuế quan như : cơ chế cấp giấy phép nhập khẩu, các quy định về định giá hải quan đối với hàng hóa, kiểm hóa trước khi xuất; các quy tắc xuất xứ; các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. 3.2 Các quy định cơ bản về thương mại dịch vụ: +Theo hiệp định GATS thì thương mại dịch vụ được hiểu là sự cung cấp một dịch vụ: từ lãnh thổ nước này đến lãnh thổ của một nước khác theo phương thức cung ứng dịch vụ qua biên giới;trên lãnh thổ của một nước này (nước sử dụng dịch vụ) cho người sử dụng dịch vụ của bất kì nước nào khác theo phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài; Bởi người tổ chức cung ứng dịch vụ của nước này tại bất kì một nước khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức hiện diện thương mại; Bởi người thể nhân cung cấp dịch vụ của nước này (nước cung cấp dịch vụ) tại bất kì một nước khác (nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức hiện diện thể nhân. + Hoạt động thương mại dịch vụ quốc tế tuân theo những nguyên tắc cơ bản như là: - Đối xử tối huệ quốc (MFN) ưu đãi nào đã được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của một nước thì phải được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của tất cả các nước khác. Nguyên tắc MFN có nghĩa là tất cả các đối tác thương mại được đối xử công bằng theo đúng nguyên tắc không phân biệt đối xử.Trong khuôn khổ của GATS nếu một nước mở cửa một lĩnh vực cho cạnh tranh nước ngoài thì nước đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho các nhà cung ứng dịch vụ của tất cả các nước thành viên của WTO. Ngoài ra nguyên tắc MFN cũng có những ngoại lệ trong các quy định cụ thể của các tổ chức kinh tế. - Tuân thủ các cam kết mở cửa thị trường (MA) và đãi ngộ quốc gia (NT): Cam kết mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong các lĩnh vực cụ thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán.Các cam kết này được liệt kê trong các danh mục các ngành sẽ mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. - Chấp nhận loại trừ các dịch vụ công: Các dịch vụ công được loại trừ khỏi luật thương mại quốc tế và không có quy định nào của GATS buộc các cơ quan công quyền phải tư nhân hóa các ngành công nghiệp dịch vụ. - Đảm bảo tính minh bạch công khai: Chính phủ các nước phải công bố tất cả các luật, quy định phù hợp và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan hành chính của mình. - Công nhận hệ thống chất lượng: Khi hai hay nhiều chính phủ ký hiệp định công nhận hệ thống chất lượng của nhau( chẳng hạn trong việc cấp giấy phép hoặc chứng nhận cho các nhà cung ứng dịch vụ) thì họ phải tạo điều kiện cho các thành viên khác được đàm phán với họ về các thỏa thuận tương tự. - Được thanh toán và chuyển tiền quốc tế theo lộ trình tự do hóa từng bước: 3.3 Các quy định cơ bản của luật thương mại quốc tế về đầu tư nước ngoài: +Đầu tư nước ngoài là hình thức lưu chuyển tư bản từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kinh tế, kinh tế - xã hội nhất định. Có hai loại hình đầu tư nước ngoài phổ biến là : Đầu tư công cộng nước ngoài và đầu tư tư nhân nước ngoài . +) Đầu tư công cộng nước ngoài : Là đầu tư nước ngoài dưới dạng cho vay, tín dụng, trợ cấp hay viện trợ không hoàn lại của các quốc gia hoặc tổ chức quốc tế liên chính phủ cấp cho một nước ( thường là nước đang phát triển ) nhằm chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện mức sống ở nước đó, với những điều kiện tài chính dễ dàng, không áp dụng trong quan hệ thương mại thông thường . +) Đầu tư tư nhân nước ngoài : Là đầu tư nước ngoài của một cá nhân hay tổ chức trên lãnh thổ một quốc gia khác nhằm mục đích kinh tế, kinh tế xã hội nhất định. Hình thức đầu tư này làm phát sinh nhiều mối quan hệ pháp lý (giữa tư nhân xuất vốn với quốc gia nhập vốn hay với tư nhân nhập vốn thuộc quốc gia đó; giữa quốc gia có người xuất vốn với quốc gia nhập vốn). Các quan hệ pháp lý này vừa có nội dung pháp lý quốc tế, vừa có nội dung pháp lý quốc nội về dân sự, thương mại có yêu tố nước ngoài. + Vai trò của đầu tư nước ngoài Đối với các nước xuất vốn đầu tư, ĐTNN góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định, giá hạ; và bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Đối với các nước nhận vốn đầu tư, ĐTNN giúp giải quyết những khó khăn về kinh tế và xã hội trong nước như nạn thất nghiệp, lạm phát; tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế; tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại trong nước, giúp các nhà doanh nghiệp địa phương học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, ứng dụng kĩ thuật mới; và giảm một phần nợ nước ngoài. + Các hình thức đầu tư công cộng Thứ nhất , trong quan hệ đa phương Trên phạm vi toàn cầu, Hệ thống Liên hợp quốc thực hiện viện trợ tài chính công cộng đa phương thông qua Tập đoàn Ngân hàng Thế giới, đặc biệt là IBRD, IDA và IFC, trong đó Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển ( IBRD) là cơ quan tài trợ có thẩm quyền chung; Hiệp hội quốc tế phát triển ( IDA) là cơ quan cung cấp các khoản tín dụng cho nhu cầu phát triển của các nước nghèo nhất và công ty tài chính quốc tế ( IFC ) là cơ quan khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân trong nền kinh tế các nước đang phát triển . Ngoài ra, các nước còn lập ra một số quỹ viện trợ hoạt động với tư cách là những cơ quan phụ trợ hay tổ chức chuyên môn của Hệ thống Liên hợp quốc . Vấn đề ĐTNN cũng được xem xét thảo luận trong phạm vi của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). WTO đến nay chưa có một hiệp định chung, thống nhất điều chỉnh vấn đề ĐTNN, nhưng một số quy định về ĐTNN đã được ghi nhận trong các hiệp hội của WTO như Hiệp định GATT( đặc biệt là Hiệp định TRIMS, Hiệp đinh SCVM), Hiệp định GATS. Hiệp đinh TRIPS. Các quy định pháp luật của các nước thành viên WTO điều chỉnh hoạt động ĐTNN phải phù hợp với các quy định tối thiểu đó và các quy định khác có liên quan của WTO. Thứ hai, trong quan hệ khu vực Đầu tư công cộng nước ngoài trong phạm vi khu vực được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, hoặc thông qua các tổ chức kinh tế liên chính phủ khu vực. ASEAN có Hiệp định AIA ( Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN). Một hình thức phổ biến khác là thông qua các Ngân hàng phát triển khu vực ( như châu Á có Ngân hàng phát triển châu Á ). Mục tiêu của các nước thành viên là giúp cho sự phát triển kinh tế trong khu vực thông qua một cơ chế chung về đầu tư công cộng . Thứ ba, trong quan hệ song phương Đầu tư công cộng song phương thường được thực hiện thông qua các hiệp định đầu tư song phương liên chính phủ. Có nhiều dạng hiệp định này (như hiệp định khung về hợp tác tài chính, hiệp định viện trợ chính thức, hiệp định tài trợ cho một dự án cụ thể ). Việt Nam đã ký nhiều hiệp định loại này với các chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế liên quan, đáng chú ý nhất trong số các điều ước quốc tế đó là các hiệp định về ODA, về tài trợ cho các chương trình, dự án khác nhau ở Việt Nam. + Đầu tư tư nhân nước ngoài Cho đến nay, chưa có một điều ước quốc tế có tính toàn cầu thống nhất điều chỉnh toàn bộ các hoạt động đầu tư tư nhân nước ngoài . Dựa trên thực tiễn đầu tư tư nhân nước ngoài và xu hướng hiện nay về tạo thuận lợi cho việc di chuyển các luồng vốn đầu tư quốc tế, Ngân hàng Thế giới ( WB ) đã soạn thảo một văn kiện gọi là Những chỉ dẫn về đối xử đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài . Văn kiện này gồm những nguyên tắc cụ thể , nhằm hướng dẫn cách xử sự của Chính phủ nước nhận đầu tư đối với đầu tư nước ngoài . Ngoài ra, Tập đoàn WB còn có MIGA và ICSID có các quy định liên quan đến ĐTNN.Mặc dù các văn kiện quốc tế nói trên không có giá trị rằng buộc đối với các quốc gia, nhưng đó là cơ sở để các quốc gia tham khảo trong khi xây dựng luật quốc gia điều chỉnh đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của mình. Có một số điều ước quốc tế khu vực được ký giữa các quốc gia liên quan đến đầu tư nước ngoài. ASEAN thì có Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư 15/12/1987.WTO có Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs).Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa mà không áp dụng cho lĩnh vực khác.Hiệp định TRIMs cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và các biện pháp có tác dụng hạn chế thương mại chủ yếu bao gồm các biện pháp bắt buộc hay điều kiện quy định một tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp; Các biện pháp cân bằng thương mại buộc các doanh nghiệp phải tự cân đối về khối lượng và trị giá xuất nhập khẩu về ngoại hối. Rất nhiều hiệp định song phương về khuyến khích vào bảo hộ đầu tư được ký kết. Trong các hiệp định này thường có các quy định về: Các biện pháp chung về đối xử đối với đầu tư nước ngoài; bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp bị trưng thu tài sản; bồi thường thiệt hại do xung đột vũ trang hoặc biến động trong nước; chuyển lợi nhuận, vốn ra nước ngoài; giải quyết tranh chấp… Việt Nam đã ký kết với nhiều nước hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư theo các mô hình phổ biến về loại hiệp định này. Pháp luật quốc gia có vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư tư nhân nước ngoài . Pháp luật này có hai loại : pháp luật của nước xuất khẩu tư bản đối với đầu tư của tổ chức , cá nhân nước mình ở nước ngoài và pháp luật của nước nhập khẩu tư bản đối với đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của mình. + Những nội dung cụ thể của đầu tư nước ngoài bao gồm: Tiếp nhận đầu tư nước ngoài: Mỗi quốc gia có quyền quyết định việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ của mình. Quyền này bao gồm từ chối hay ngăn cấm đầu tư nước ngoài mà quốc gia đó cho là không phù hợp với yêu cầu về an ninh quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế hay các lợi ích khác của quốc gia, áp đặt những điều kiện hoạt động cho đầu tư nước ngoài, cho việc sở hữu tài sản của người nước ngoài hay cho hoạt động của các công ty xuyên quốc gia trên lãnh thổ của quốc gia đó. Đối xử đầu tư nước ngoài: Tiêu chuẩn đối xử với đầu tư nước ngoài được nhấn mạnh trong hầu hết các văn kiện pháp lý quốc tế và quốc gia liên quan đến đầu tư, được hiểu là mỗi quốc gia sẽ đối xử với đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ cuẩ mình một cách công bằng và thỏa đáng.Nội dung cơ bản nhất của đối xử công bằng thỏa đáng là không phân biệt đối xử. Nguyên tắc không phân biệt đối xử ở đây có hai mức độ khác nhau: Không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở quốc tịch ( tối huệ quốc); và không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư nước sở tại ( Chế độ đãi ngộ quốc dân). Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thực hiện và phổ biến ở các lĩnh vực: bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản và lợi ích kinh tế của nhà đầu tư, cấp phép đầu tư, xuất khẩu; thuê nhân công không phân biệt trên cơ sở quốc tịch; bảo đảm các thủ tục thị thực xuất nhập cảnh cho nhân công nước ngoài được thuê và di chuyển vốn lãi tiền lương,thu nhập hợp pháp, các khoản thanh toán theo các hợp đồng liên quan đến đầu tư. Trưng thu tài sản, những thay đổi đơn phương về phía nước nhận đầu tư: Mỗi quốc gia sẽ không trưng thu một phần hay toàn bộ vốn đầu tư của tổ chức cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ của mình, hay có những biện pháp đem lại hậu quả tương tự, trừ khi việc đó được thực hiện theo đúng các thủ tục pháp lý hiện hành, một cách thiện chí, vì mục đích công cộng, không phân biệt đối xử trên cơ sở quốc tịch và phải có bồi thường thích đáng. Một số quốc gia trong đó có Việt Nam quy định rõ trong luật đầu tư nước ngoài của mình sẽ không tiến hành quốc hữu hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.5 Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế: + Việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa các quốc gia không phải là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) chủ yếu của pháp luật quốc tế và các nguyên tắc cụ thể do các bên kí kết thỏa thuận trong các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương.Các nguyên tắc cơ bản bao gồm: Tôn trọng chủ quyền quốc gia, bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, quyền dân tộc tự quyết, không can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia khác, cấm dùng vũ lực đe dọa dùng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, tôn trọng các quyền cơ bản của con người, các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế.Trong số những nguyên tắc này thì nguyên tắc quan trọng nhất vẫn là tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế. Trình tự giải quyết tranh chấp thương mại giữa các quốc gia phụ thuộc vào việc giữa các quốc gia đã có điều ước quốc tế liên quan hay không.Nếu giữa các bên đã có các điều ước quốc tế, trong đó có quy định trình tự giải quyết các tranh chấp giữa các bên liên quan thì các bên sẽ phải tuân thủ trình tự đã thỏa thuận.Nếu giữa các bên không có một thỏa thuận nào thì vụ việc thường được giải quyết theo thủ tục ngoại giao.Sau quá trình thương lượng, nếu các bên tranh chấp không thể giải quyết một cách hữu nghị được với nhau thì có thể phải tính đến việc áp dụng các chế tài.Các chế tài thường được áp dụng tùy theo mức độ thiệt hại của bên khiếu nại là tạm đình chỉ quan hệ thương mại, bồi thường thiệt hại, chấm dứt quan hệ thương mại giữa các bên. + Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các quốc gia trong khuôn khổ WTO: Việc giải quyết tranh chấp thương mại phát sinh giữa các quốc gia là thành viên của WTO sẽ được thực hiện theo các quy định về giải quyết tranh chấp của WTO.Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên WTO được hình thành từ sau vòng đàm phán Urugoay và chính thức áp dụng từ tháng 12/1996. Sau thời gian đấu tranh giữa các nước thành viên của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT), vòng đàm phán Urugoay kết thúc với việc thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO và một bộ phận chức năng quan trọng của WTO là cơ quan giải quyết tranh chấp DSB. Việc thông qua thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp gọi tắt là DSU đã tạo nền tảng cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên. Thỏa thuận DSB quy định các phương pháp, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính công bằng thống nhất, khách quan trong thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như đưa ra các biện pháp đảm bảo thi hành các khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp. 4. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số những hoạt động cụ thể trong các tổ chức quốc tế : 4.1 Hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam vào ASEAN: a) Khái quát về ASEAN: ASEAN được thành lập trên cơ sở tuyên bố Bangkok 1967, hiện nay ASEAN có 10 nước thành viên.Hợp tác kinh tế ASEAN phát triển mạnh mẽ từ năm 1992,sau khi các nước thành viên kí kết hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV. Theo thỏa thuận ban đầu tại Singapo ngày 28/1/1992, các nước ASEAN sẽ thực hiện AFTA trong vòng 15 năm (1/1/1993 – 1/1/2008 ) , sau đó giảm xuống 10 năm (1/1/1993 – 1/1/ 2003) và sử dung CEPT là công cụ chính để thực hiện.Để thực hiện CEPT, tất cả các nước ASEAN đều phải lập chương trình cắt giảm thuế quan tiến hành trong 15 năm theo thỏa thuận ban đầu và sau đó rút ngắn xuống 10 năm kể từ ngày 1/1/1993 đến 1/1/2003. `Sau khi thực hiện CEPT, ASEAN tiếp tục đưa ra chương trình cắt giảm thuế quan ATIGA nhằm hoàn thành AFTA.Cách thức cắt giảm thuế quan cũng tương tự như CEFT, cũng dựa trên việc phân chia các loại hàng hóa thành 8 danh mục khác nhau với lộ trình chi tiết và và cụ thể hơn.Theo quy định của ATIGA, các quốc gia thành viên sẽ xóa bỏ thuế quan (mức thuế 0%) đối với tất cả các sản phẩm (trừ các sản phẩm thuộc diện loại trừ hoàn toàn trong danh mục H) trong quan hệ thương mại nội khối vào năm 2010 đối với ASEAN 6 và vào năm 2015 với linh hoạt tới năm 2018 đối với CLMV. b) Sự hội nhập kinh tế Việt Nam trong khuôn khổ ASEAN: + Việt Nam với nghĩa vụ thực hiện CEPT: Việt Nam tham gia AFTA, thực hiện CEPT từ ngày 1/1/1996 trong bối cảnh vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn thách thức.Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển vẫn giữ mức tăng trưởng khá.Tuy nhiên sự phát triển kinh tế còn chưa vững chắc, sức cạnh tranh còn thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và bền vững.Công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến còn chưa phát triển, năng suất lao động thấp, giá thành cao, công nghệ lạc hậu, cơ cấu kinh tế không còn phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển.Việc thực hiện AFTA và ATIGA đã có những tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Tháng 8/1997 thủ tướng chính phủ đã thông qua sơ bộ lộ trình giảm thuế từ năm 1996 đến 2006.Nhìn chung, lộ trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam theo phương án dồn vào giai đoạn cuối hay như theo cách gọi của các nhà nghiên cứu nước ngoài gọi là hậu tải. Phương án giảm hậu tải có thể duy trì bảo hộ sản xuất trong nước và nguồn thu từ nhập khẩu lâu hơn so với phương án giảm đều và giảm chủ yếu vào giai đoạn đầu.Căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình, Việt Nam thực hiện giảm thuế theo phương án này để tạo thêm thời gian cho các doanh nghiệp điều chỉnh sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trước khi xóa bỏ hàng rào bảo hộ thuế quan. Năm 2006, Việt Nam đã cắt giảm hầu hết các dòng thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN, trong đó, số dòng thuế có mức thuế suất từ 0% - 5% chiếm đa số. Theo Quyết định 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện CEPT/AFTA giai đoạn 2008-2013, trong năm 2010, Việt Nam áp dụng mức thuế nhập khẩu 0-5% đối với 99% dòng thuế nhập khẩu từ ASEAN, trong đó 57% số dòng thuế chỉ có thuế nhập khẩu là 0%. Nhìn chung tác động của việc tham gia vào AFTA đến nền kinh tế Việt Nam có thể xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau: - Tác động đến ngân sách chính phủ: Tác động của việc tham gia vào AFTA đến ngân sách thể hiện trong sự thay đổi khoản thu về thuế nhập khẩu.Khoản thu này đã căn cứ vào chương trình cắt giảm thuế đã được công bố, biểu thuế nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên AFTA.Việc gia nhập AFTA không gây biến động lớn do giảm khoản thu thuế nhập khẩu sẽ được bù lại bởi phần tăng của kim ngạch nhập khẩu và phần tăng thu từ các loại thuế khác. - Tác động đến thương mại và cơ cấu sản xuất: Việc tham gia vào AFTA ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại và hoạt động sản xuất.Tác động của AFTA đến các ngành sản xuất thể hiện ở tác động của AFTA đến khả năng cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam với hàng hóa các nước trong AFTA. - Tác động đến hoạt động đầu tư nước ngoài: Việc tham gia vào AFTA làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam.Đối với các nhà đầu tư ngoài AFTA, Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.Đồng thời,nguyên tắc xuất xứ hàng hóa của AFTA có yêu cầu thấp hơn so với yêu cầu của các khu vực mậu dịch tự do khác nên tham gia vào AFTA tạo điều kiện cho VN thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Việc tham gia vào AFTA còn tác động đến việc hình thành và phát triển thị trường tài chính- tiền tệ, mở rộng các hoạt động dịch vụ và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật. + Việt Nam với hiệp định khung ASEAN về dịch vụ: Trong khuôn khổ hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, Việt Nam tham gia hợp tác thương mại dịch vụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông và du lịch.Những hoạt động cụ thể mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực bưu chính viễn thông bao gồm : dịch vụ thư điện tử, dịch vụ thư tín, trao đổi dữ liệu điện tử, dịch vụ telex và dịch vụ điện tín.Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, Việt Nam tham gia vào hoạt động điều hành khách sạn quốc tế. Việc Việt Nam tham gia vào hiệp định khung ASEAN về dịch vụ tạo thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh cải cách kinh tế,cụ thể là trong lĩnh vực pháp luật về đầu tư nước ngoài, những quy định về hối đoái và sự di chuyển của thể nhân, những lĩnh vực sẽ có ảnh hưởng rộng lớn hơn đối với quá trình giao lưu kinh tế nói chung của đất nước.Bên cạnh đó mặc dù hiệp định không nhằm mục đích đồng nhất ASEAN, nhưng nguyên tắc bảo đảm sự minh bạch của chính sách của chính phủ đã tạo cho Việt Nam cơ hội để đánh giá sự mở cửa và tính hạn chế của một lĩnh vực dịch vụ nào đó, từ đó xác định được lĩnh vực mở cửa thị trường của nước mình. Nhìn chung sự tham gia ban đầu của Việt Nam vào hiệp định là tương đối hạn chế về quy mô.Việt nam chỉ đưa ra một số ít cam kết theo ngành.Hiện nay Việt Nam đang duy trì những hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc NT.Trong hầu hết các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực nằm trong chương trình cam kết theo ngành, những cam kết có Việt Nam đều có tính không ràng buộc, nghĩa là những quy định hiện hành về tiếp cận thị trường và áp dụng nguyên tắc NT có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào. + Việt Nam tham gia khu vực đầu tư ASEAN: Các nước ASEAN luôn ở tình trạng cạnh tranh với nhau trong hoạt động đầu tư nước ngoài.Do đó cần thiết lập một khu vực đầu tư chung giữa các thành viên, trong đó áp dụng các nguyên tắc chung về đầu tư.Đó là: Áp dụng nguyên tắc NT cho nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 Mở cửa tất cả các ngành công nghiệp cho đầu tư đối với các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Các mục tiêu của AIA là một trong những bước quan trọng để hội nhập kinh tế khu vực, là động lực thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, góp phần từng bước khôi phục dòng FDI vào Việt Nam bị suy giảm trong thời gian gần đây. 4.2 Hội nhập kinh tế của Việt Nam vào tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương: APEC được thành lập tháng 11/1989 tại Australia nhằm đáp ứng xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docViệt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế.doc