Đề tài Xã hội hóa vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông đại chúng

Giới và các sản phẩm truyền hình

Truyền hình hiện vẫn duy trì các khuôn mẫu giới bởi nó phản ánh các giá trị xã

hội ưu trội.

Truyền hình không chỉ phản ánh mà còn củng cố và thể hiện các giá trị xã hội này

như là cái tự nhiên vốn dĩ phải như vây. Khi một người mong đợi vào một xã hội

vẫn do đàn ông thống trị, đàn ông thống trị các sản phẩm truyền hình và bị ảnh

hưởng bởi các khuôn mẫu đó thì một cách vô thức sẽ tái sản xuất ra cách nhìn của

nam giới, duy trì các khuôn mẫu giới ưu trội. Một số chương trình truyền hình

tường thuật thực chất được thiết kế để truyền tải cái nhìn của nam giới. Người xem

thường bị lôi cuồn vào việc bị đồng nhát hóa bằng cái nhìn của nam giới (cái nhìn

lấy nam giới làm trung tâm).

pdf32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2588 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xã hội hóa vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông đại chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến đổi theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian. (Hoàng Bá Thịnh, 2005) • Các đặc điểm về xã hội, liên quan đến vị trí, tiếng nói, công việc của người phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội được gọi là giới. Đây là những đặc điểm có thể đổi chỗ cho nhau, ví dụ: Phụ nữ có thể làm bộ trưởng bộ quốc phòng, nam giới có thể làm người nuôi dạy trẻ. Giới không bất biến mà thay đổi tùy theo sự biến đổi của điều kiện kinh tế, xã hội, chính tri, văn hóa, tập quán…Ví dụ: Địa vị xã hội của phụ nữ hiện nay hoàn toàn khác so với phụ nữ thời phong kiến. Ngay như ở thời nay thì địa vị người phụ nữ nông thôn cũng không hoàn toàn giống với phụ nữ ở đô thị. Vì vậy khi nói tới quan hệ giới thì cần phải xem xét đến các đối tượng cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của họ. ( Nguồn: Bình đẳng giới và kỹ năng sống- Bộ tài liệu đào tạo dành cho nữ và nam thanh niên hiện nay) 1.2.3. Vai trò giới. Vai trò giới là một hệ thống chuẩn mực hành vi được đặc biệt quy gán cho đàn ông và đàn bà trong một nhóm hay hệ thống xã hội nhất định. Theo cách phân tích của Khoa học xã hội, nó có thể là một dạng của phân công lao động theo giới. Giới là một thành phần của một hệ thống giới/ giới tính có liên quan đến “hệ thống sắp xếp mà qua đó một xã hội chuyển giao bản năng giới tính thành những sản phẩm của hoạt động con người”.(Reiter 1975:159) ( Nguồn: http:// en.wikipedia.org/wiki/ Gender role ) • Vai trò giới là những công việc khác nhau mà phụ nữ và nam giới thực tế đang làm. Những công việc này xuất phát từ những mong đợi/ trông chờ của xã hội đối với mỗi giới. 12 ( Nguồn: Bình đẳng giới và kỹ năng sống- Bộ tài liệu đào tạo dành cho nữ và nam thanh niên hiện nay) • Vai trò giới là những hành vi được học trong bất kỳ một cộng đồng xã hội nào hay một nhóm mà quy định những hành động, nhiệm vụ và trách nhiệm của nam giới và nữ giới. Vai trò giới bị chi phối bởi độ tuổi, giai cấp, và bởi môi trường địa lý, kinh tế, chính trị. Những biến đổi trong vai trò giới thường xảy ra tương ứng với sự biến đổi kinh tế, điều kiện chính trị và tự nhiên bao gồm cả những hoạt động phát triển. ( Nguồn: Kỷ yếu hội thảo giới- truyền thông và phát triển) 1.2.4. Xã hội hóa vai trò giới. Theo Heslin: “Một phần quan trọng của xã hội hóa là việc học tập cách thể hiện một cách văn hóa vai trò giới”. Do vậy xã hội hóa vai trò giới chính là việc học các hành vi và thái độ phù hợp với một giới tính nhất định. Các cậu bé học cách làm các cậu bé và các cô bé học cách làm các cô bé. Việc học này xảy ra ở nhiều kênh trung gian của quá trình xã hội hóa như gia đình, nhà trường, bạn bè, công việc và truyền thông đại chúng. ( Nguồn: Dịch từ socialization) Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu xã hội hóa vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông đại chúng như báo in, truyền hình… 1.2.5. Truyền thông đại chúng. Khái niệm “truyền thông đại chúng” chủ yếu dùng để chỉ quá trình giao tiếp, thông tin trên quy mô rộng lớn, đại chúng cả về nội dung bản tin, nguồn phát, triueenr tin và người tiếp nhận, sử dụng thông tin. Truyền thông đại chúng là những thiết chế sử dụng những tiến bộ kỹ thuật ngày càng tinh vi của công nghệ để thực hiện sự giao lưu tư tưởng, những mục đích 13 thông tin, giải trí, và thuyết phục tới đông đảo khán thính giả, cho dù bằng báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách, báo, tạp chí hay bất cứ gì đó” ( Nguồn: Tonybilton và các cộng sự, “Nhập môn xã hội học”, tr.381) Truyền thông đại chúng là một cách truyền tín hiệu bằng radio, internet hay tivi tới một đại chúng (thính giả, độc giả hay khán giả). ( Nguồn: Từ điển wikipedia) 1.3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Xã hội hóa vai trò giới trên các phương tiện truyền thông đại chúng là một đề tài khá mới ở Việt Nam. Mặc dù vậy nó lại có một nển tảng khá vững vàng bởi có những tác phẩm nghiên cứu về giới và truyền hình, nhưng đa số vẫn là các nghiên cứu ở nước ngoài. Trong quá trình tìm hiểu vấn đề, nhóm chúng tôi cũng đã tiếp cận với một số tác phẩm liên quan đến vấn đề về giới, vai trò giới và truyền thông. • Nghiên cứu “Television and Gender role” (Daniel Chandler). Trong tác phẩm tác giả đã phân tích và đưa ra một vài số liệu cho thấy sự khác biệt trong việc mô tả giới nam và nữ trên truyền hình và phần nào ông khẳng định vai trò của truyền hình trong việc củng cố nên những khuôn mẫu vai trò giới cho trẻ em. • Nghiên cứu mang tên “Media and the gender” (John. K. Simon): Tác phẩm nêu ra số liệu và một số đặc điểm của nam giới và nữ giới trên truyền hình, chân dung của nhà truyền thông theo góc độ giới. Chương 2: Xã hội hóa vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông. Xã hội hoá vai trò giới không đến một cách tự nhiên mà nó là quá trình con người học cách thích ứng với đặc điểm giới của cá nhân.Truyền thông đại chúng từ lâu đã đóng vai trò là phương tiện xã hội hoá cùng với gia đình và các nhóm đồng đẳng, làm nên vai trò giới. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các hình 14 ảnh phản ánh sự khác biệt giới là rất phổ biến. Do đó, truyền thông đại chúng thực hiện vai trò quan trọng của mình trong việc gây dựng quan niệm về vai trò giới, góp phần đem lại cho người xem những mô hình điển hình trong một thế giới rộng lớn. Nghiên cứu về sự xuất hiện các hình ảnh nam - nữ trên truyền thông, truyền thông đại chúng thường rập khuôn trong sự trình bày các vai trò giới. So với phụ nữ, nam giới thường theo mẫu hình năng động, quyết đoán, thông minh, tháo vát. Ngày nay, sự thể hiện vai trò giới đã đa dạng hơn và bớt đi tính khuôn mẫu so với quá khứ. Phụ nữ và nam giới nhìn chung đã bình đẳng hơn trên tivi và phim ảnh cho dù các nhân vật nam có thể vẫn ở địa vị lãnh đạo. ( Nghiên cứu của David Gauntlett, 2003). Hình ảnh nam – nữ trên truyền thông cũng là vấn đề quan tâm ở Việt Nam trong 10 năm trở lại được. Phần lớn các nghiên cứu tập trung trả lời câu hỏi: Hình ảnh người phụ nữ trên truyền thông hiện nay như thế nào? Có hay không những hiện tượng phân biệt đối xử với phụ nữ trên truyền thông? Các phát hiện cho thấy, hình ảnh nam- nữ trên các phương tiện truyền thông vẫn được thể hiện trong những khuôn mẫu truyền thống. Trong các quảng cáo thương mại, hình ảnh người phụ nữ vẫn được giới thiệu như những bà nội trợ thuần túy hoặc như những biểu tượng gợi dục nhằm gây sự chú ý đối với người tiêu dùng. 2.1. Xã hội hóa vai trò giới trên truyền hình. Số lượng nam giới và nữ giới xuất hiện trên truyền hình. Số lượng phụ nữ xuất hiện trên tuyền hình ít hơn là nam giới rất nhiều. Tỉ lệ nam giới xuất hiện trên truyền hình nhìn chung so với nữ giới là 3 đến 4 nam trên 1 nữ, 70 – 80 % những nhân vật xuất hiện trong các chương trình thiếu nhi là nam giới và trên các bộ phim hoạt hình dành cho thiếu nhi nam giới xuất hiện nhiều hơn nữ giới với tỉ lệ là 10 nam trên 1 nữ. Thậm chí là trong các phim truyền hình dài tập thì tỉ lệ này cũng là 7 nam trên 3 nữ. Số lượng nam giới cũng đông hơn nữ giới trong các bảng phân vai. Trái với thực tế sự thống trị của nam giới trên truyền 15 hình, ta nhận thấy trong đời sống hàng ngày phụ nữ đông hơn rất nhiều so với nam giới. Ở góc độ này truyền hình không phản ánh được thực tế nhân khẩu học quan sát được, tuy nhiên nó lại phản ánh khá rõ sự phân phối quyền lực và các giá trị của người nắm giữ nó. Giới và nghề nghiệp. Vai trò của phụ nữ trên truyền hình đa số đều bị hạn chế. Bên cạnh đó vai trò của nam giới rộng hơn và thú vị hơn. Phụ nữ thường xuất hiện trên truyền hình với các vai trò như người nội trợ, người mẹ, thư ký và y tá; người đàn ông không chỉ xuất hiện với vai trò của người chồng, người cha mà còn là vận động viên, người nổi tiếng và các trùm tư bản. Khi nói đến phụ nữ trên truyền hình thường nhắc đến tình trạng hôn nhân hơn đàn ông. Đàn ông trên truyền hình thường được miêu tả như những người đi làm, có xu hướng địa vị cao hơn trong xã hội và ít khi họ được mô tả khi ở nhà. Phụ nữ thì thường được mô tả thành công trên các lĩnh vực như công việc nội trợ trong khi đó không được hạnh phúc lắm trong đời sống cá nhân của họ. Đây thực sự là phân phối vai trò nghề nghiệp trên truyền hình chậm hơn so với thực tế tại các công sở. Giới và các sản phẩm truyền hình Truyền hình hiện vẫn duy trì các khuôn mẫu giới bởi nó phản ánh các giá trị xã hội ưu trội. Truyền hình không chỉ phản ánh mà còn củng cố và thể hiện các giá trị xã hội này như là cái tự nhiên vốn dĩ phải như vây. Khi một người mong đợi vào một xã hội vẫn do đàn ông thống trị, đàn ông thống trị các sản phẩm truyền hình và bị ảnh hưởng bởi các khuôn mẫu đó thì một cách vô thức sẽ tái sản xuất ra cách nhìn của nam giới, duy trì các khuôn mẫu giới ưu trội. Một số chương trình truyền hình tường thuật thực chất được thiết kế để truyền tải cái nhìn của nam giới. Người xem thường bị lôi cuồn vào việc bị đồng nhát hóa bằng cái nhìn của nam giới (cái nhìn lấy nam giới làm trung tâm). Trong những năm gần đây có sự tăng đáng kể về số lượng phát thanh viên thời sự là nữ giới. Trước đây các đạo diễn tryền hình ( phần lớn là nam giới) đã cho rằng 16 khán giả ít xem trọng phụ nữ hơn. Tuy nhiên, có người cũng cho rằng sự hấp dẫn về ngoại hình có thể đóng vai trò nhiều hơn trong việc họ lựa chọn hơn chỉ vì phát thanh vên đó là nam giới. Phụ nữ trong các bản tin và chương trình truyền hình. Tin tức được coi là tấm gương phản chiếu thế giới. Thế nhưng, kết quả nghiên cứu của Dự án kiểm soát truyền thông toàn cầu trên khoảng 13000 bản tin của các báo, đài phát thanh và đài truyền hình ở 76 quốc gia dường như không chứng minh được điều đó. Phụ nữ hiện chiếm khoảng 52% dân số thế giới, chỉ chiếm 21% trong số các chủ đề hay được nhắc đến trong thông tin. Trong khi đó tỷ lệ này là 79% ở nam giới. Điều đó có nghĩa cứ 5 nam giới được phỏng vấn hay nhắc đến trong các bản tin thì mới có 1 phụ nữ. Cũng theo báo cáo, phụ nữ là trung tâm của 10% tin tức trên thế giới. Thông tin về phụ nữ trên truyền thông chủ yếu giới hạn ở những ngôi sao trong lĩnh vực nghệ thuật, những nhà quyền quý hay các chuyên gia và đại diện chính quyền. Chỉ có 29% nội dung thông tin trên các phương tiện truyền thông là do phóng viên nữ viết. Trên truyền hình, phát thanh viên nữ và phóng viên nữ có xu hướng “biến mất” khi họ nhiều tuổi hơn. Hai chủ mục có phóng viên nữ nhiều hơn phóng viên nam là bản tin thời tiết trên đài phát thanh và truyền hình; tin tức về nạn đói, nhà ở và phúc lợi xã hội. Như vậy phụ nữ đang đứng cách khá xa so với vị trí của nam giới trong lĩnh vực truyền thông và thông tin. Đứng ở góc độ của người xem truyền hình, không có gì ngạc nhiên khi nhiều phụ nữ được hỏi đã tỏ ra không hài lòng với các phương tiện truyền thông. Một nghiên cứu tiến hành năm 1994 ở Anh cho biết phụ nữ cảm thấy chưa hài lòng với khái niệm “các vấn đề phụ nữ” và dường như những vấn đề này không được chú trọng trên các phương tiện truyền thông, trong khi phụ nữ rất cần được quan tâm. Vấn đề giới được thể hiện rõ qua việc trình bày cá hình ảnh phụ nữ và nam giới trên phương tiện truyền thông đại chúng. Một nghiên cứu về các thông tin quảng 17 cáo đăng trên báo và tạp chí cuối thập niên 1970 cho thấy hình ảnh nam giới thường đứng cao hơn nữ giới, điều này ngụ ý ưu thế xã hội nổi trội của nam giới so với phụ nữ. Trong khi đó, nữ giới thường xuất hiện trong tư thế nằm, ngồi (trên ghế, trên giường) nhiều hơn nam. Các tư thế của nam thường biểu lộ năng lực tháo vát, hiểu biết, mạnh mẽ. Còn phụ nữ biểu lộ sự mềm mại, tự vệ hoặc thụ động, phụ thuộc2. Ở Việt Nam, qua lăng kính truyền hình, hình ảnh người phụ nữ trong các bản tin truyền hình, các gameshow… không chỉ với tư cách là những người được nhắc đến hay những người chơi mà còn là những người dẫn dắt các chương trình. Tần số lên hình của các MC nữ đang ngày càng gia tăng, không chỉ vậy, các MC nữ còn luôn giành thế “thượng phong” khi xuất hiện trong các chương trình mà số người dẫn từ 2 trở lên. Khán giả rất dễ dàng nhận cặp đôi 1 nam 1 nữ hoặc cả 2 đều là nữ dẫn dắt chương trình, nhưng nếu cả 2 MC đều là phái mạnh thì lập tức chương trình bỗng trở nên không thuận lợi lắm. Như vậy, trong những trường hợp này vị trí của người phụ nữ rất quan trọng. Không dừng lại ở đó, khía cạnh người dẫn chương trình, ngay cả việc lựa chọn các đề tài giữa thời buổi bùng nổ phim truyền hình, hầu như lúc nào phái đẹp cũng được ưu tiên làm nhân vật chính, vấn đề chính. Những câu chuyện về các kiều nữ, cô gái xấu xí, các nàng lọ lem thời hiện đại hay những cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu… luôn là đề tài được giới làm phim quan tâm và khai thác quanh năm suốt tháng. Trong các chương trình như thời trang và cuộc sống, các chương trình về làm đẹp dành riêng cho phụ nữ cũng được các nhà đài quan tâm. Trong các chương trình này hình ảnh người phụ nữ xuất hiện với tư cách là những người đẹp, những người cần được nâng niu, tôn trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó hình ảnh người phụ nữ trên truyền hình chủ yếu vẫn được khắc họa như người chăm sóc gia đình và làm các công việc nội trợ. Hình ảnh phụ 2 Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc – Xã hội học về giới và phát triển, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000 , tr 154. 18 nữ là lãnh đạo hoặc tham gia hoạt động thể thao mặc dù có nhưng xuất hiện với tần suất rất thấp. Có 16.7% số khán giả nữ được hỏi cho biết họ thấy nữ giới xuất hiện trên truyền hình với vai trò lãnh đạo, trong khi 87.7% nhìn thấy nam giới xuất hiện trên truyền hình với vai trò này. Phụ nữ thường gắn với công việc nhà và hiếm khi xuất hiện như những người năng động, quyết đoán và có lý trí. Đây được coi là sự phân biệt đối xử với phụ nữ trên các phương tiện và nội dung truyền thông. Trên truyền hình, phụ nữ thường được nhắc đến như những người cần phải có tính dịu dàng. Hình ảnh “người đàn ông mạnh mẽ và người phụ nữ dịu dàng” là sự khác biệt giới có thể chấp nhận được nếu nó không gây ra những đối xử bất bình đẳng. Tuy nhiên, thực tế, những quan điểm như vậy có thể khiến nhiều phụ nữ bị hạn chế cơ hội thể hiện năng lực của mình chỉ vì muốn giữ hình ảnh dịu dàng, nữ tính trước con mắt của cộng đồng và xã hội. Điều này ảnh hưởng không chỉ đến cuộc sống riêng của người của người phụ nữ mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của gia đình và toàn xã hội khi giới nữ không phát huy hết vai trò và năng lực của mình. Theo dõi dòng phim truyện nhựa, phim truyền hình, kịch nói hay chương trình phóng sự, điều dễ dàng nhận thấy là hình ảnh phụ nữ thành đạt còn quá ít ỏi so với hình ảnh người phụ nữ là người mẹ, người mẹ, người yêu… có hoàn cảnh éo le. Trong trường hợp ngược lại, hình ảnh người phụ nữ thành đạt trong công việc thường đi liền hoặc được nhấn mạnh với sự thất bại (một cách đáng thương hoặc đáng chê trách) trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình và tình yêu đôi lứa3. Điều này góp phần vào việc thúc đảy người phụ nữ chấp nhận vai trò gia đình và gây thêm những định kiến đối với phụ nữ phấn đấu cho sự nghiệp. Trước đây, trên VTV3 có chiếu bộ phim Hướng nghiệp, chủ yếu tập trung vào đối tượng thanh niên, những người trẻ tuổi. Tuyến nhân vật là những sinh viên mới ra 3 Trần Thị Minh Đức, Hoàng Xuân Dung, Đỗ Hoảng – Định kiến và phân biệt đối xử theo giới, lý thuyết và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006, tr 151. 19 trường đang trên con đường phát triển sự nghiệp. Có thể dễ dàng nhận thấy, đa phần các nhân vật nữ đều xuất hiện với tính cách nhu mỳ, ngoan ngoãn và có vị thế trong xã hội khá khiêm tốn. Đặc biệt, xuất hiện nhân vật Thư với tính cách khác biệt. Đây là nhân vật nữ “nổi loạn” nhất trong bộ phim. Cô tự mình quyết định nghề nghiệp tương lai của mình, mạo hiểm gây dựng sự nghiệp và đã có những thành công lớn trong công việc. Tuy nhiên, nhân vật này ngay lập tức chịu những éo le trong cuộc sống như: công ty phá sản, vào tù, hạnh phúc lứa đôi tan vỡ do người chồng – người bạn thời đại học không chấp nhận được một người vợ giỏi hơn mình. Và như vậy, một cách vô hình, các nhà làm phim đã đưa đến một thông điệp ngầm về giới: Những phụ nữ nhu mỳ, ngoan ngoãn với vai trò làm vợ, làm mẹ, làm người yêu sẽ có kết quả tốt đẹp. Trong khi đó, những phụ nữ có quyết tâm vươn lên, thăng tiến trong sự nghiệp sẽ lãnh những hậu quả khôn lường. Và khi hạnh phúc gia đình tan vỡ, thì người phụ nữ là người có lỗi lớn hơn cả. Bên cạnh đó, phim truyền hình ngày nay đang có một xu hướng đưa yếu tố sex, những cảnh quay tình cảm nghệ thuật vào phim, và coi đó là những cảnh quay nghệ thuật nhằm thu hút sự chú ý của khán giả. Tuy nhiên, cũng có những điều đáng bản ở đây. Thứ nhất, sử dụng những cảnh quay có yếu tố sex, vô hình chung là sử dụng thân thể phụ nữ cho mục đích của nhà làm phim. Thứ hai, có thể dễ dàng nhận thấy một điều: Các nhà làm phim thường đưa ra hình ảnh sex để lôi kéo người xem, nhưng đó không phải là thân thể của nhà làm phim, dư luận xã hội thì có nhiều luồng ý kiến khác nhau và họ bình phẩm, nhận xét lại là trên thân thể của người diễn viên – mà ở đây chủ yếu là người phụ nữ. Có thể để ý trên một số trang web, khi các nhà làm phim đưa ra trailer bộ phim có xuất hiện những hình ảnh nhạy cảm, sex, ngay lập tức, có ý kiến phản hồi, nhận xét từ phía khán giả. Khen – chê đều có. Nhưng tất cả, đều là nhận xét trên thân thể diễn viên – đại diện cho phụ nữ chứ không phải là nhận xét trên thân thể của ông đạo diễn. 20 Như vậy, người đạo diễn vô hình chung đã lạm dụng hình ảnh, thân thể người phụ nữ cho mục đích của mình. Và qua đó, tạo ra những định kiến về vị thế, vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Đặc biệt, nếu cho tần suất xuất hiện trên phim những cảnh quay nhạy cảm của nam và nữ là như nhau. Thì nữ giới bao giờ cũng phải nhận sự đánh giá, nhận xét và chủ yếu là chỉ trích nhiều hơn nam giới. Tính cách ưa mạo hiểm, khát khao chiến thắng của nam giới cũng được các chương trình truyền hình góp phần khẳng định rất nhiều. Trong các chương trình “Tôi yêu thể thao”, “7 ngày công nghệ”… hình ảnh nam giới luôn được thể hiện là những người năng động, tự chủ. Họ có thể tập hợp thành nhóm cùng đi thám hiểm (Ví dụ chương trình “xe và đời sống”). Họ là những người giỏi lái xe, đam mê khám phá…Ngược lại, hình ảnh người phụ nữ luôn xuất hiện bên cạnh máy giặt, tủ lạnh, bếp núc… Không chỉ góp phần duy trì các khuôn mẫu về tính cách, các khuôn mẫu giới liên quan đến nghề nghiệp, vai trò của nam - nữ, và quan hệ vợ chồng cũng được củng cố trong các chương trình truyền hình, kể cả các chương trình được coi là dành cho phụ nữ. Thứ nhất, khuôn mẫu giới liên quan đến nghề nghiệp: người xem dễ dàng nhận thấy hình ảnh người phụ nữ trong các công việc nhẹ nhàng hoặc những công việc bị xã hội cho rằng không cần nhiều đến sự uyên bác. Chẳng hạn chương trình “Sức sống mới” ngày 20/11/2007 cho thấy một thực tế là càng ở cấp thấp càng ít giáo viên nam, đặc biệt là cấp tiểu học khi giáo viên phải vừa dạy, vừa chăm sóc học sinh. Khách mời của chương trình là 3 thầy cô đến từ các bậc dạy từ tiểu học đến đại học, nhưng dạy tiểu học là cô giáo, hiệu trưởng trung học là cô giáo, còn dạy đại học là thầy giáo. Thứ hai, khuôn mẫu giới liên quan đến vai trò và trách nhiệm: Thông qua việc ca ngợi vai trò tái sản xuất của người phụ nữ, nhiều chương trình truyền hình đã góp phần củng cố quan niệm cho rằng việc bếp núc, chăm sóc con cái và các công việc trong gia đình là của người phụ nữ. 21 Phụ nữ dường như là những người phi thường với gánh nặng trên vai của nhiều loại vai trò khác nhau: Làm đẹp cho cuộc sống, có ích cho xã hội và quan tâm, chăm sóc cho gia đình. Hình ảnh này rất dễ tác động đến nhận thức và duy trì những mong đợi của xã hội, đặc biệt là nam giới. Có thể cả nam và nữ đều lấy đó làm hình mẫu cho người vợ và người phụ nữ nói chung. Những mong đợi này luôn có trong cuộc sống thường ngày, tuy nhiên khi được đưa lên truyền hình thì lại có sức mạnh lớn hơn rất nhiều trong việc khẳng định đó là những mong đợi chính đáng. Thứ ba là những khuôn mẫu trong quan hệ vợ chồng: liên quan tới vấn đề tình dục, phụ nữ luôn được mong đợi là người phải chiều chồng, phải biết chăm sóc bản thân để trở nên quyến rũ. Trái ngược với luồng ý kiến trên, tác giả Vũ Thị Gái (2003) trong tham luận của mình tại Hội thảo về giới, truyền thông và phát triển, cho rằng truyền thông, cụ thể là truyền hình đã có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao hình ảnh người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ không bị giới hạn, họ có mặt trên truyền hình với những tấm gương là một giám đốc giỏi, một cô giáo hết lòng vì học sinh, một nhà nghiên cứu khoa học tận tụy….chính họ đang khẳng định khả năng không thua kém của phụ nữ so với nam giới trên mọi lĩnh vực. Chương trình thiếu nhi. Có trên 85% các nhân vật trên các chương trình truyền hình thiếu nhi là nam giới, ngay cả trong các phim hoạt hình, những nhân vật động vật như khủng long, sư tử thì sự phân bố giới cũng diễn ra tương tự (Vua sư tử, Tom và Jerry, Phim hoạt hình siêu nhân…). Các phim, các chương trình truyền hình, phát thanh dành cho thiếu nhi thể hiện rất rõ vai trò giới: trẻ em trai thường được khắc họa là những 22 nhân vật nhanh nhẹn, tháo vát, dũng cảm; trẻ em gái khéo léo, nhẹ nhàng, tình cảm.4 Trẻ em trên truyền hình. Trên truyền hình nói chung, các bé trai được miêu tả với đặc điểm là hoạt bát, hiếu thắng, xử sự lý trí và hay bướng bỉnh. Do đó các bé trai cũng thường gắn với các hoạt động đặc trưng cho nam giới như thể thao, thám hiểm và gây chuyện. Trong khi các bé gái thường được miêu tả là đang đọc sách, nói chuyện điện thoại hay giúp bố mẹ việc nhà. Tóm lại, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực liên quan đến hình ảnh người phụ nữ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, song vẫn còn nhiều vấn đề cần phải quan tâm cả về chất lượng và số lượng. Về số lượng, đó là việc phụ nữ cách xa so với vị trí của nam giới trong lĩnh vực truyền thông và thông tin. Cụ thể tần suất xuất hiện trên các bản tin của các báo, đài phát thanh và đài truyền hình của phụ nữ chỉ bằng 1/5 nam giới. Về chất lượng, các vấn đề của phụ nữ không phải lúc nào cũng được đề cập ở các chương trình được cho là nghiêm túc. Phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử trên truyền thông với những hình ảnh có tính khuôn mẫu về tính cách, vai trò xã hội và vai trò nghề nghiệp. 2.2. Phụ nữ trong các chương trình quảng cáo và sự lạm dụng hình ảnh người phụ nữ. Xuất hiện muộn hơn so với các loại hình khác, song quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình, đã tỏ rõ tính vượt trội của nó. Hoạt động quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đã trở thành một công cụ hiệu quả để các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm tới người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quảng cáo trên truyền hình cũng đang xuất hiện mặt tiêu cực. “Lạm dụng hình ảnh người phụ nữ” trong quảng cáo là một trong những khía cạnh được nhiều nghiên cứu đề cập. Ở đây “lạm dụng hình ảnh người phụ nữ” được 4 Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mĩ Lộc – Xã hội học về giới và phát triển, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000 – tr 154 23 hiểu là việc sử dụng quá mức hình ảnh người phụ nữ trong các quảng cáo theo chiều hướng không có lợi có việc cảm nhận về vị thế, vai trò của người phụ nữ. Có vô vàn những hình ảnh quảng cáo trên truyền hình chứa đựng những thông điệp giới, trong đó chủ yếu là hình ảnh chứa đựng những khuôn mẫu và định kiến giới chống lại phụ nữ. Rõ ràng với mục đích tiêu thụ sản phẩm, quảng cáo sẽ nhằm tới những đối tượng là người sử dụng sản phẩm và cách tốt nhất là nhắm tới những vai trò giới sẵn có. Đây là một cách quảng cáo đã củng cố các khuôn mẫu giới sẵn có, ít nhiều đã bị lạc hậu so với thực tế. Ngay từ thập kỷ 1970, nghiên cứu về các thông tin quảng cáo đăng trên báo và tạp chí cho thấy trong ảnh, nam thường đứng cao hơn nữ, điều này ngụ ý ưu thế, vị trí xã hội nổi trội của nam so với nữ giới. Các tư thế của nam thường biểu hiện sức mạnh, ưu thế “đàn ông’, khỏe mạnh, dũng cảm, hiểu biết sâu rộng, còn phụ nữ biểu lộ sự mềm mại, tự vệ hoặc thụ động, phụ thuộc. Phụ nữ phần lớn được giới thiệu như những bà nội trợ ngoan ngoãn, biết nấu ăn ngon, biết phục vụ chồng con. Hình ảnh người phụ nữ tham gia công tác xã hội đã có nhưng vẫn còn mờ nhạt. Người ta hiếm khi được thấy năng lực của người phụ nữ trong các cương vị như giám đốc, nhà doanh nghiệp, bác sỹ…Trong khi nam giới xuất hiện trong quảng cáo thường có vai trò xã hội đa dạng như giám đốc, chủ doanh nghiệp, chuyên gia… hoặc người phụ nữ được trình bày như những người ốm đau, bệnh tật hoặc như là những người mang lại “niềm vui” nào đó (chẳng hạn sử dụng nước hoa có mùi thơm quyến rũ hay mặc bộ váy lộng lẫy) cho đồng nghiệp. Hình ảnh người phụ nữ trong quảng cáo luôn là những người nội trợ thuần túy, người bận rộn với những bữa ăn gia đình, việc chăm sóc con cái và chỉ gắn với những sản phẩm nội trợ và chăm sóc con cái như: sữa bột, bột giặt, máy giặt, dầu ăn, nước tẩy sản nhà, nước rửa chén, dầu gội đầu, xã phòng…hầu như không thấy hình ảnh phụ nữ quảng cáo cho những sản phẩm khoa học kỹ thuật, máy móc công nghệ cao như máy tính, robot…Trong khi trên thực tế, phụ nữ có đã m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXã hội hóa vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông đại chúng.pdf
Tài liệu liên quan