Đề tài Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ giảng dạy trong trường đại học

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 7

1. Lý do chọn đềtài 7

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9

3. Mục đích nghiên cứu 10

4. Câu hỏi nghiên cứu 11

5. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu 11

6. Phạm vi và thời gian khảo sát 12

7. Cấu trúc của luận văn 12

Chương 1: TỔNG QUAN VÀ CƠSỞLÝ LUẬN 13

1.1. Tổng quan vềcác nghiên cứu liên quan đến đềtài 13

1.2. Một sốkhái niệm cơbản liên quan đến đềtài 17

1.2.1. Khái niệm năng lực 17

1.2.2. Năng lực giảng dạy 18

1.2.3. Khái niệm dạy học 21

1.2.4. Khái niệm đánh giá 22

1.2.4.1. Đánh giá định hình 24

1.2.4.2. Đánh giá tổng kết 25

1.3. Thực tiễn công tác đánh giá giảng viên trong trường đại học 26

1.3.1. Thực tiễn công tác đánh giá giảng viên trong trường đại học trên Thếgiới 26

1.3.1.1. Lịch sửphát triển của đánh giá giảng viên 26

1.3.1.2. Một sốtiêu chí đánh giá giảng viên hiện nay 28

1.3.1.3. Các phương pháp đánh giá giảng viên hiện hành 33

1.4. Thực tiễn công tác đánh giá giảng viên trong trường đại học ởViệt Nam 33

1.4.1. Thực trạng đội ngũnhà giáo 33

1.4.2. Việc đánh giá giảng viên đại học 36

1.4.2.1. Đánh giá của SV 37

1.4.2.2. Tự đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên 39

Chương 2: ĐỀXUẤT XÂY DỰNG BỘTIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN50

2.1. Hình thành bộtiêu chí 50

2.1.1. Các phương pháp và cách tiếp cận đánh giá 50

2.1.2. Nội dung các tiêu chí đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên 50

2.1.3. Phương pháp thu thập thông tin 52

2.1.3.1. Phiếu hỏi và thang đo 53

2.1.3.2. Thửnghiệm và hoàn thiện phiếu hỏi 53

2.1.3.3. Chọn mẫu 61

2.2. Kết quả điều tra nghiên cứu 61

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 72

1. Kết luận. 72

2. Khuyến nghị 73

Tài liệu tham khảo 76

Phụlục. 79

pdf89 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6844 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ giảng dạy trong trường đại học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư là hơn 4%, số giáo sư 1%. Các tỷ lệ này ở những vùng khó khăn còn thấp hơn rất nhiều. Đội ngũ GV giỏi kế cận chưa được chuẩn bị để thay thế đội ngũ GV 36 đầu ngành là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có nhiều kinh nghiệm nay đã lớn tuổi. Một bộ phận nhỏ nhà giáo nhận thức còn hạn chế, thiếu gương mẫu, vi phạm đạo đức lối sống và chuẩn mực của người thầy, gây bức xúc và lo lắng của nhân dân, không đấu tranh, thậm chí còn bị lôi cuốn, thoả hiệp, tham gia vào những tiêu cực trong thi cử, chấm luận văn, luận án tốt nghiệp. 1.4.2. Việc đánh giá giảng viên đại học Theo PGS.TS Nguyễn Phương Nga “Thực trạng hiện nay trong các trường ĐH - CĐ của Việt Nam, GV được đánh giá chủ yếu bằng việc lên lớp đúng giờ, giảng đủ tiết, tham gia đầy đủ các cuộc họp, học Nghị quyết, sinh hoạt tập thể và không gây mất đoàn kết nội bộ sẽ được công nhận với mức thấp nhất là “hoàn thành tốt nhiệm vụ” và 3 năm tăng lương một lần” [22]. Như vậy, những GV thực sự đạt thành tích cao cũng không có chế độ phân biệt ưu tiên khác. Tuy nhiên, thực tiễn này đang từng bước được thay đổi. những năm gần đây các trường đại học cũng dần dần áp dụng những nét đổi mới trong việc đánh giá, khuyến khích cán bộ, GV nhà trường nâng cao thành tích giảng dạy. GV đạt danh hiệu những danh hiệu như GV dạy giỏi, thành tích trong NCKH sẽ được xét tặng, công nhận các danh hiệu mà nhà nước và ngành quy định như: lên lương trước thời hạn, giấy khen, bằng khen, huân chương... tuy nhiên các các danh hiệu đó vẫn bị khống chế về số lượng GV được xét tặng hay công nhận các danh hiệu nêu trên, do vậy sự khống chế tỷ lệ khen thưởng này dẫn đến những bất cập trong công tác thi đua. Việc xây dựng nên những tiêu chuẩn ĐG hiệu quả việc làm của GV và có chính sách thưởng, phạt tương ứng phù hợp với các kết quả GV đạt được theo các bằng chứng ĐG khách quan và có độ tin cậy cao là hết sức cần thiết. Hiện nay, cũng giống như nhiều nước trên thế giới, chúng ta áp dụng một số phương thức sau để ĐG năng lực giảng dạy của GV: - GV tự đánh giá - ĐG của đồng nghiệp 37 - ĐG của SV - ĐG của các nhà quản lí giáo dục - ĐG qua hồ sơ giảng dạy - Quan sát của tổ trưởng chuyên môn - ĐG của các chuyên gia ĐG ngoài Tuy nhiên, ở mỗi đơn vị cụ thể không nhất thiết phải áp dụng đồng bộ 07 phương thức trên để ĐG năng lực giảng dạy của GV. Để đạt hiệu quả ĐG và kết quả ĐG có tính khách quan cao, người ĐG hoặc đơn vị tổ chức ĐG cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng trong việc sử dụng một hoặc phối hợp nhiều phương thức ĐG cụ thể. Ở đây, chúng tôi xin đề cập đến phương pháp ĐG năng lực giảng dạy của GV thông qua việc đánh giá của SV và GV tự đánh giá GV (Tự đánh giá). 1.4.2.1. Đánh giá của SV SV tham gia ĐG hoạt động giảng dạy của GV là việc làm không mới ở các nước có nền giáo dục phát triển thuộc Châu Âu, Hoa Kỳ. Riêng ở Việt Nam, hoạt động này chưa được ủng hộ nhiều. Từ xưa đến nay, trong quan niệm của người Việt Nam “một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” mà đã là thầy thì SV không có quyền nhận xét, ĐG. Chỉ có thầy đánh giá trò, không có chuyện trò ĐG thầy. Tuy vậy, theo xu thế phát triển chung của xã hội, việc ĐG hoạt động giảng dạy của GV thông qua ĐG của SV đã bắt đầu được thực hiện trong nhiều trường ĐH. Thực chất của việc SV đánh giá GV là việc lấy ý kiến phản hồi của SV đối với việc giảng dạy của GV. Ngoài việc phản hồi về chất lượng mà SV thu được qua việc giảng dạy của GV, việc làm này còn mang ý nghĩa là sự phản hồi của xã hội đối với chất lượng của nhà trường, của cơ sở giáo dục và đào tạo. Việc lấy ý kiến của SV thể hiện mức độ hài lòng của SV đối với GV, là cơ hội để SV đóng góp ý kiến với GV, khắc phục tình trạng trao đổi ngoài lề hay tạo ra những dư luận không mang tính xây dựng phía sau giảng đường. 38 Đồng thời hình thức này cung cấp những “thông tin ngược” để GV kiểm tra lại hoạt động giảng dạy của mình. Qua đó GV phát huy những thế mạnh, ưu điểm và khắc phục những tồn tại, hạn chế nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động giáo dục. Việc làm này có ý nghĩa thiết thực trong điều kiện hiện nay khi đa số các trường ĐH đã, đang và sẽ triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ mà một trong những đặc trưng của loại hình đào tạo này là SV có quyền chọn lớp, chọn GV. SV sẽ chọn những GV giỏi. Đây là động cơ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các GV. Thêm vào đó, trình độ và đòi hỏi về kiến thức của SV ngày càng cao, GV cần có ý thức thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy, liên tục làm mới mình thì mới đáp ứng được yêu cầu thiết thực đó. Để ĐG năng lực giảng dạy của GV thông qua lấy ý kiến phản hồi của SV đạt hiệu quả và tính khách quan cao, cần chú ý một số điểm sau: - Nâng cao nhận thức đối với GV và SV về hoạt động SV tham gia đánh giá GV. - Tuỳ theo điều kiện cụ thể, từng trường có thể trao quyền tự quyết cho các khoa trong việc triển khai thực hiện. - Dựa trên tình hình GV và công tác đào tạo của mình, các đơn vị có thể tự xây dựng các tiêu chí đánh giá. - Là một hoạt động quan trọng trong việc nỗ lực nâng cao chất lượng GV của đơn vị nên cần thực hiện nghiêm túc, có qui trình, chuẩn mực cụ thể, tránh tình trạng “giơ cao, đánh khẽ”. - Cần từng bước công khai ý kiến ĐG của SV để tránh nguy cơ gây nên tác dụng ngược. - Việc ĐG năng lực giảng dạy của GV cần thực hiện đồng thời với việc đổi mới công tác kiểm tra, ĐG hết môn học, trong đó khắc phục tình trạng GV vừa là người tham gia giảng dạy, vừa là người ra đề, chấm thi. 39 - Nhà trường cần quan tâm về xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giáo trình...để GV có được những điều kiện thuận lợi trong việc nâng cao chất lượng giờ giảng của mình. Hay còn một thuật ngữ "Trò chấm điểm thầy": Thời gian gần đây, chúng ta nghe nhiều đến cụm từ "trò chấm điểm thầy". Những người ủng hộ cho rằng đây mới là dân chủ, là tôn trọng người học. Những người không đồng tình với cách thức ĐG này thì cho rằng, với truyền thống tôn sư trọng đạo của phương Đông thì việc đó không nên. Vậy "trò chấm điểm thầy" có phải là một phương pháp hiệu quả để ĐG chất lượng GV? Việc lấy ý kiến của học viên, về bản chất nó chỉ đảm bảo được sự hài lòng của học viên về phương pháp giảng dạy của học viên. Còn chất lượng thực sự của GV được ĐG qua tiêu chí là tỷ lệ đỗ của học viên qua các kỳ thi. Ở nước ta, hầu hết là thầy dạy môn nào ở lớp nào thì cũng là người ra đề thi cho môn đó ở lớp đó. Do vậy, kết quả thi chỉ là sự kiểm tra của thầy đối với những kiến thức đã dạy chứ không ĐG được chất lượng giảng dạy của thầy. Xây dựng được một quy chuẩn ĐG chính xác chất lượng và năng lực GV ở các trường ĐH phải chăng là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng đào tạo? và chừng nào không lượng hóa được kết quả thì còn lúng túng trong công tác ĐG. Theo GS Vũ Minh Giang, Phó giám đốc ĐHQG Hà Nội từ "đánh giá" hay "chấm điểm" nghe nặng nề, do vậy để chính xác hơn chúng ta nên dùng từ phản hồi (feed back). Feed back hiểu theo nghĩa rộng là những phản hồi, chứ không phải là ĐG của người học với người thầy và còn cần được mở rộng ra là feed back của xã hội đối với nhà trường, cơ sở đào tạo. 1.4.2.2. Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên Tự ĐG là một trong những phương thức, hoạt động ĐG năng lực giảng dạy của GV. Thông qua việc tự ĐG, GV sẽ tự nhìn nhận lại và có cơ hội để hoàn thiện và làm mới mình hơn. Nói cách khác, đây là phương tiện để từng cá nhân GV xác định năng lực, hiệu quả giảng dạy của mình. Thực hiện hoạt 40 động tự ĐG năng lực giảng dạy cũng gần như tiến hành một nghiên cứu. Trong cả hai trường hợp, GV phải trả lời những câu hỏi chính yếu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Điểm mấu chốt để thực hiện tự ĐG hay một nghiên cứu đạt kết quả tốt là phải xác định được những câu hỏi cần trả lời và cách thức trả lời những câu hỏi đó. Thông thường GV thường đặt ra những câu hỏi đối với việc giảng dạy của mình là: Tôi giảng như thế nào? Khía cạnh nào đã được thực hiện tốt và khía cạnh nào cần phải được thay đổi cải tiến? Câu hỏi thứ nhất nhằm xác định một sự ĐG chung trên tất cả các mặt của cả quá trình giảng dạy. Ở câu hỏi thứ hai, cần có những phương pháp, kĩ thuật nhằm ĐG chi tiết hơn những khía cạnh cụ thể của năng lực giảng dạy. Qua thời gian, hầu hết GV đều thể hiện năng lực giảng dạy của mình tốt hơn vì được trau dồi, tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn. Thực ra việc tiến hành tự ĐG của GV được thực hiện thường xuyên, liên tục và là việc làm tự thân của mối GV khi bắt đầu bước vào nghề. Mỗi GV với đạo đức nghề nghiệp phải không ngừng trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn cũng như phương pháp giảng dạy để đáp ứng nhu cầu học tập của SV và bắt kịp với thời đại. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp GV tự ĐG, cải tiến trong giai đoạn nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra và sau đó họ tạm dừng lại quá trình tự ĐG. Điều đó sẽ dẫn đến, những người này năng lực giảng dạy và hiệu quả hoạt động giảng dạy của họ ngày một kém đi. Xét dưới góc độ tâm lý, tự ĐG là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu cao hơn trong thang nhu cầu của Mashlow. Đó là nhu cầu về sự tự hoàn thiện và được tôn trọng. Một GV có tinh thần cầu tiến sẽ luôn thực hiện hoạt động tự ĐG và kết quả của hoạt động này phần nào đáp ứng được nhu cầu tinh thần của họ. GV có thể tự ĐG năng lực giảng dạy của mình thông qua các hoạt động như: Tự giám sát, sử dụng phương tiện ghi lại hoạt động giảng dạy, lấy ý kiến từ người học, ĐG kết quả học tập của SV, lấy thông tin từ chuyên gia trong 41 ngành, nhà trường, GV khác. Mỗi một nguồn thông tin đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Do vậy, người GV cần có sự lựa chọn, kết hợp khéo léo, để hoạt động tự đánh giá của mình cho kết quả trung thực, khách quan; căn cứ vào đó phát huy những mặt mạnh và khắc phục những tồn tại trong giảng dạy. Điểm mạnh: Sử dụng như một quá trình liên tục; GV tự ĐG việc giảng dạy của mình để điều chỉnh và cải tiến phương pháp giảng dạy; các thông tin ĐG liên quan trực tiếp đến mục tiêu và nhu cầu của GV. Điểm yếu: Kết quả khó đồng nhất với các ĐG khác, tính khách quan thấp; có những GV miễn cưỡng khi nộp báo cáo tự ĐG vì quan niệm đó là kết quả tự ĐG riêng của bản thân. Phương thức GV tự ĐG sẽ đạt hiệu quả sử dụng khi GV có sự tự tin, yên tâm làm việc này. Hơn nữa, GV cần có kĩ năng thu thập các bằng chứng thông tin phù hợp cho việc ĐG của bản thân. Trên cơ sở, Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 02/12/2004 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT về ”Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học”. ĐHQG Hà Nội đã tiến hành xây dựng bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đơn vị đào tạo trong ĐHQGHN (sau đây gọi tắt là bộ tiêu chuẩn KĐĐT) và được ban hành theo Quyết định số 01/QĐ-KĐCL ngày 03 tháng 06 năm 2005 của Giám đốc ĐHQG Hà Nội. Bộ tiêu chuẩn KĐĐT này có 10 tiêu chuẩn với 53 tiêu chí tương ứng với 10 Tiêu chuẩn và 53 tiêu chí kiểm định các trường ĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Song mỗi tiêu chí có 4 mức thể hiện những yêu cầu từ thấp đến cao, mức sau mặc nhiên được hiểu là bao hàm cả các yêu cầu của mức trước, đồng thời trình bày thêm những yêu cầu bổ sung. Mức 1 và Mức 2 là các mức tương ứng trong Bộ tiêu chí của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Mức 3 và Mức 4 là các yêu cầu kiểm định bổ sung của ĐHQG Hà Nội được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn kiểm định của mạng lưới các trường ĐH trong khối ASEAN (AUN) kết hợp với các tiêu chuẩn kiểm định của Hiệp hội các trường ĐH ở Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ (nơi có Đại 42 học Harvard, Đại học MIT...). Trong bộ tiêu chuẩn KĐĐT này có Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên [21]. đã được thể hiện rất rõ như sau; Đội ngũ cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên của đơn vị đáp ứng các yêu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và được đảm bảo các quyền lợi theo qui định. (10 tiêu chí) Trong quá trình triển khai và áp dụng quy định trên vào kiểm tra đánh giá các trường đại học, ngày 01/11/2007 Bộ GD&ĐT ra quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ban hành kèm theo quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học để hoàn thiện các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá. Trong đó, Điều 8. Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên 1. Có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên và nhân viên; quy hoạch bổ nhiệm cán bộ quản lý đáp ứng mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của trường đại học; có quy trình, tiêu chí tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng, minh bạch. 2. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên được đảm bảo các quyền dân chủ trong trường đại học. 3. Có chính sách, biện pháp tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên tham gia các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ ở trong và ngoài nước. 4. Đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý chuyên môn, nghiệp vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao. 5. Có đủ số lượng giảng viên để thực hiện chương trình giáo dục và nghiên cứu khoa học; đạt được mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục nhằm giảm tỷ lệ trung bình sinh viên / giảng viên. 6. Đội ngũ giảng viên đảm bảo trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo theo quy định. Giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo; đảm bảo cơ 43 7. Đội ngũ giảng viên được đảm bảo cân bằng về kinh nghiệm công tác chuyên môn và trẻ hoá của đội ngũ giảng viên theo quy định. 8. Đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên đủ số lượng, có năng lực chuyên môn và được định kỳ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ có hiệu quả cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Để cụ thể hoá quy định trên của Bộ GD&ĐT, ngày 30/11/2007 Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội ra quyết định số 4447/QĐ-KĐCL kèm theo ban hành Tiêu chuẩn kiểm định chất lượng chương trình đào tạo ĐHQGHN. Trong đó, Tiêu chuẩn 4: Giảng viên, cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và nhân viên thực hiện chương trình đào tạo là: Tiêu chí 4.1. Đảm bảo đủ số lượng giảng viên có trình độ và năng lực triển khai đào tạo theo nhiệm vụ và yêu cầu được giao trong chương trình đào tạo Mức 1: Có đủ đội ngũ giảng viên được bố trí giảng dạy và hướng dẫn người học phù hợp với chuyên môn đào tạo; có học vị và kinh nghiệm giảng dạy theo quy chuẩn của ĐHQGHN để đảm bảo thực hiện chương trình đào tạo. Mức 2: Đội ngũ giảng viên đủ năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ để tham gia hợp tác nghiên cứu, hội thảo cùng các chuyên gia có uy tín trên thế giới, có bài báo đăng ở tạp chí chuyên ngành quốc gia. Mức 3: Có các giảng viên đủ năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ trực tiếp giảng dạy bằng tiếng nước ngoài; có công trình công bố tại các hội thảo quốc tế, tạp chí các nước phát triển, tạp chí của khu vực ASEAN. 44 Mức 4: Có giảng viên công bố công trình trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế. Tiêu chí 4.2. Đảm bảo đủ cán bộ quản lý và chuyên viên tham gia thực hiện chương trình đào tạo đạt trình độ và có kinh nghiệm thực hiện các nhiệm vụ và yêu cầu được giao Mức 1: Có đủ cán bộ quản lý và chuyên viên theo quy chuẩn của ĐHQGHN để đảm bảo công tác phục vụ chương trình đào tạo. Mức 2: Đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên viên thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý chương trình đào tạo. Mức 3: Đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên có nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ phù hợp chức trách đảm nhiệm; thực hiện nhiệm vụ quản lý chương trình đào tạo theo mô hình của các trường đại học tiên tiến trong khu vực ASEAN. Mức 4: Đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên viên áp dụng thành thạo các phương pháp quản lý và điều hành việc thực hiện chương trình đào tạo theo mô hình của các đại học tiên tiến trên thế giới. Tiêu chí 4.3. Đảm bảo đủ kỹ thuật viên và nhân viên thành thạo các yêu cầu về nghiệp vụ hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện chương trình đào tạo Mức 1: Có đủ kỹ thuật viên và nhân viên theo quy chuẩn của ĐHQGHN đáp ứng các yêu cầu của việc thực hiện chương trình đào tạo. Mức 2: Đội ngũ kỹ thuật viên và nhân viên các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, nhân viên quản lý thiết bị phục vụ có hiệu quả chương trình đào tạo. Mức 3: Đội ngũ kỹ thuật viên và nhân viên được kịp thời cập nhật kiến thức và kỹ năng sử dụng các thiết bị tiên tiến, hiện đại để vận hành có hiệu quả các trang thiết bị mới phục vụ chương trình đào tạo. 45 Mức 4: Đội ngũ kỹ thuật viên và nhân viên sử dụng được ngoại ngữ trong công tác nghiệp vụ để phục vụ chương trình đào tạo. Tiêu chí 4.4. Giảng viên, cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và nhân viên tham gia thực hiện chương trình đào tạo được đánh giá chất lượng và được đáp ứng các nhu cầu phát triển chuyên môn nghiệp vụ Mức 1: Xác định được các nhu cầu phát triển chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, kỹ thuật viên, nhân viên để xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển đội ngũ. Mức 2: Hoạt động đánh giá chất lượng đội ngũ sử dụng các công cụ đã chuẩn hoá và có sự tham gia của các bên liên quan. Mức 3: Định kỳ đánh giá và điều chỉnh mục tiêu xây dựng và phát triển đội ngũ phù hợp với biến động của xã hội. Mức 4: Các kết quả đánh giá chất lượng đội ngũ được sử dụng làm căn cứ triển khai những hoạt động đáp ứng các nhu cầu phát triển chuyên môn nghiệp vụ và chính sách lương, phụ cấp, khen thưởng hoặc khuyến khích. Trong những nghiên cứu về chất lượng GDĐH (Bourke, 1986; Rowly, 1996; John, 1998; AYER, 1999; DETYA, 2000) các tác giả đã đưa ra một số tiêu chí ĐG chất lượng đào tạo có thể triển khai, áp dụng cho các cơ sở GDĐH ở Việt Nam như sau: - Mục tiêu đào tạo rõ ràng - Tuyển sinh đầu vào đảm bảo độ tin cậy - Chương trình đào tạo được tổ chức thành hệ thống, liên ngành và có mối liên quan chặt chẽ với nhau - Nội dung chương trình và mục tiêu đào tạo phù hợp với nhau - SV có thái độ học tập tích cực - GV có trình độ chuyên môn và lòng nhiệt tình 46 - Phương tiện và tài liệu học tập đảm bảo tốt - Có các đơn vị chuyên trách quản lí hoạt động giảng dạy - Đảm bảo số lượng GV phù hợp với qui mô đào tạo của nhà trường - Tỉ lệ GV và SV hợp lí - Số lượng môn học nhiều đủ để SV lựa chọn một cách linh hoạt. Các trường ĐH và cao đẳng ở châu Âu và Hoa Kì thường ĐG hoạt động của GV theo 3 lĩnh vực chính là: giảng dạy, nghiên cứu khoa học và dịch vụ [24]. Khi ĐG hoạt động giảng dạy họ đã đưa ra 02 tiêu chí và chỉ số sau: - Giảng dạy: giảng dạy trên lớp, biên soạn bài giảng, biên soạn giáo trình... - Hướng dẫn SV: tư vấn cho SV về chương trình học, giúp đỡ ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn luận văn, luận án thạc sĩ và tiến sĩ. Vào năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương về việc lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động giảng dạy của GV, các trường ĐH (kể cả công lập và ngoài công lập) đang triển khai ĐG các hoạt động giảng dạy của GV. Một số trường ĐH đã đưa ra bộ tiêu chí ĐG của mình. Ví dụ như: Trường Đại học Cần thơ; Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên... đã thiết kế phiếu ĐG hoạt động giảng dạy với những tiêu chí và chỉ số sau: Phiếu ĐG của Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên; - Nội dung môn học thiết thực hữu ích - Nội dung giảng dạy vừa sức với SV - GV đã thiết kế, tổ chức học phần và thời gian khoa học, hợp lí - GV đến lớp khi đã chuẩn bị tốt bài giảng - SV cảm thấy hứng thú trong giờ học - GV đề cập và nhấn mạnh những thông tin quan trọng một cách rõ ràng dễ hiểu - GV đã tạo cơ hội cho SV ứng dụng những kiến thức lĩnh hội được - GV tỏ ra luôn sẵn sàng tư vấn giúp đỡ SV học tập 47 - GV đã hướng dẫn hiệu quả và thúc đẩy việc tự học của SV - GV khuyến khích SV nêu câu hỏi và bày tỏ quan điểm riêng về các vấn đề của học phần - GV thường nêu vấn đề để SV suy nghĩ, tranh luận - GV quan tâm tổ chức cho SV tham gia hoạt động nhóm, thảo luận để giải quyết cac nhiệm vụ học tập - GV quan tâm đến giáo dục đạo đức, ý thức tổ chức kỉ luật cho SV - GV đã sử dụng hiệu quả phương tiện dạy học - GV tỏ ra nhạy cảm và quan tâm tới sự tiến bộ của SV - GV giới thiệu giáo trình, tài liệu tham khảo, đề cương bài giảng phù hợp, cập nhật và dễ tiếp cận - GV tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV đảm bảo tính trung thức, công bằng, phản ánh đúng thực lực của SV - GV có kiến thức chuyên môn tốt (thực sự có năng lực chuyên môn) - GV luôn thể hiện rõ sự nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao trong giảng dạy - GV lên lớp đúng giờ và thực hiện đúng lịch giảng dạy theo qui định - GV thể hiện sự thân thiện, cởi mở trong giao tiếp với SV - GV luôn thể hiện chuẩn mức trong tác phong nhà giáo - SV đã lĩnh hội được những kiến thức cơ bản của học phần - Nhờ có GV, SV đã đạt được những kĩ năng thực hành có thể cần thiết cho tương lai - Thông qua hoạt động giảng dạy của GV, SV đánh giá cao giá trị của học phần - GV đã sử dụng hiệu quả phương tiện dạy học Bên cạnh đó, Trường Đại học Cần Thơ đưa ra các tiêu chí và chỉ số đánh giá môn học như sau: - Mức độ hợp lí của việc tổ chức môn học? 48 - Khối lượng kiến thức bạn tiếp thu được trong môn học này? - Trình độ kiến thức của môn học này phù hợp với bạn đến mức độ nào? - Khối lượng công việc của môn học này phù hợp với bạn đến mức độ nào? - Kiến thức của GV về môn học tốt đến mức nào? - GV chuẩn bị bài giảng tốt đến mức nào? - Đánh giá một cách tổng quát về chất lượng giảng dạy của GV đối với môn học này? - GV có vui vẻ tiếp nhận câu hỏi, ý kiến phản hồi…hay không? - Các buổi học được thực hiện theo đúng lịch học hoặc được dạy bù đầy đủ không? - Phòng học, bàn ghế, bảng, trang thiết bị…đủ tốt để giảng dạy không? Một số nhà khoa học cho rằng các tiêu chí cần thiết để đánh giá hoạt động giảng dạy bao gồm: i, Sự truyền đạt kiến thức ii, Kỹ năng giảng dạy và quản lí lớp iii, Sự tư vấn, hướng dẫn cho SV/học viên/nghiên cứu sinh iv, Biên soạn bài giảng, tài liệu giảng dạy v, Hoạt động phát triển trình độ chuyên môn, học thuật. [22]. Những nghiên cứu trên cho thấy các tiêu chí và chỉ số đánh giá chất lượng hoạt động giảng dạy khá khác nhau. Việc đánh giá chất lượng giảng dạy của cả một khóa học đòi hỏi phải chính xác, bao quát mọi mặt nên bao gồm nhiều chỉ số thuộc về các tiêu chí sau: i, Mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo ii, Cấu trúc chương trình đào tạo iii, Trang thiết bị dạy học iv, Hoạt động giảng dạy v, Đánh giá chung toàn khoá học. 49 Từ 5 tiêu chí trên, chúng ta có thể triển khai ra khoảng 30 chỉ số. Tuy nhiên với số lượng chỉ số nhiều như vậy SV sẽ phải dành nhiều thời gian để trả lời (khoảng 20-30 phút). Điều này chỉ phù hợp với SV cuối khóa, khi lần cuối cùng họ dành thời gian để phản hồi về khóa đào tạo. Các nghiên cứu với mục tiêu rõ ràng và có sự hỗ trợ tài chính cho người trả lời cũng thu được các kết quả khả quan với độ tin cậy cao. Với tiêu đề “Đổi mới giáo dục đại học bắt đầu từ giảng viên” trả lời báo VietNamNet ngày 09/8/2006, GS.Vũ Minh Giang, Phó giám đốc ĐHQG Hà Nội, Trưởng ban Đại học Hội đồng Giáo dục Quốc gia Việt Nam cho rằng "Bài toán cứ luẩn quẩn loanh quanh ở chỗ: Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết phải ở người thầy. Nhưng người thầy thì lại tự mình không sẵn sàng. Điều kiện cho người thầy nâng cao thì thiếu đủ mọi thứ". Đối với giáo dục ĐH, đổi mới căn bản, quan trọng nhất là đổi mới đội ngũ cán bộ giảng dạy. Đây là khâu mở đầu cho tất cả các khâu - GS Vũ Minh Giang khẳng định. Đổi mới không có nghĩa là thay thầy này bằng thầy khác, mà làm sao để các thầy ý thức được việc đổi mới quan niệm về giáo dục ĐH, đổi mới cách thức lên lớp, đổi mới suy nghĩ về vai trò của SV. Với điều kiện hiện có, làm sao thầy có thể mua nổi sách tham khảo với giá sách hiện nay. Thầy kiếm thêm thu nhập ở đâu ngoài lương? (lương rất thấp). Chỉ bằng cách dạy thêm nhiều giờ, dạy càng nhiều giờ càng tốt. Vậy thì thời gian đâu mà ngẫm nghĩ, mà nghiên cứu, mà đọc sách, mà đổi mới phương pháp. Bài toán cứ luẩn quẩn loanh quanh ở chỗ: Muốn nâng cao chất lượng thì trước hết phải ở người thầy. Nhưng người thầy thì lại tự mình không sẵn sàng. Điều kiện cho người thầy nâng cao thì thiếu đủ mọi thứ. Định mức lao động, chế độ giảng dạy, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học hiện vẫn áp dụng theo quyết định từ năm...1978. Chế độ thâm nhập thực tế, trao đổi học thuật, tham gia hội thảo...chưa được quy định rõ. Không có quy định cụ thể về mức độ được phép làm việc ngoài trường đối với GV... 50 CHƯƠNG 2 ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN 2.1. Hình thành bộ tiêu chí 2.1.1. Các phương pháp và cách tiếp cận đánh giá Như đã trình bày ở chương 1, để ĐG năng lực giảng dạy của GV ta có thể sử dụng nhiều phương pháp và cách tiếp cận khác nhau như sau: - GV tự đánh giá. - Đánh giá của đồng nghiệp - Đánh giá của SV - Đánh giá của nhà quản lí - Đánh giá qua hồ sơ giảng dạy - Đánh giá qua quan sát của tổ trưởng chuyên môn - Đánh giá của các chuyên gia đánh giá ngoài - Đánh giá của các nhà tuyển dụng lao động .v..v. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi đã d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXây dựng bộ tiêu chí đánh giá cán bộ giảng dạy trong trường đại học.pdf
Tài liệu liên quan