Đề tài Xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

MỤC LỤC

 

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1

B. PHẦN NỘI DUNG 2

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CƠ BẢN 2

1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG. 2

1.1. Khái niệm về cơ chế thị trường 2

1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. 3

1.3. Giá cả thị trường – tín hiệu của cơ chế thị trường 4

1.4 Những ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường 7

1.4.1. Những ưu điểm: 7

1.4.2. Những hạn chế. 8

2 . SỰ QUẢN LÝ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. 9

2.1 Sự cần thiết khách quan : 9

2.2 Sự quản lý của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường hiện nay. 11

CHƯƠNG II: NHỮNG THỰC TRẠNG VA GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 14

1. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 14

1.1. Thành tựu. 14

1.2. Những hạn chế. 18

2. GIẢI PHÁP. 21

PHẦN KẾT LUẬN 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng lên hay giảm xuống. Sự chênh lệch đó là hiện tượng tự nhiên. Nếu giá cả hàng hóa luôn ngang bằng giá trị thị trường của hàng hóa thì nó sẽ phủ định quy luật giá trị. Bởi vì giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Vì vậy chỉ có thông qua sự lên xuống của giá cá thị trường ta mới biết được sự tồn tại, tác động của quy luật giá trị. Quan hệ cung – cầu: sự tác động qua lại cung – cầu hình thành giá cả thị trường. Giá đó không thể đạt ngay mà phải trải qua thời kì dao động quanh giá trị cân bằng. Hay nói cách khác cung – cầu điều chỉnh độ chênh lệch giữa giá cá thị trường với giá trị thị trường. Biểu hiện ra ngoài thì giá cả thị trường được hình thành do sự thỏa thuận giữa người mua và người bán. Nhưng thực tế giá cả thị trường ngang bằng với giá trị thị trường (cung = cầu) chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên. Còn tương quan cung cầu là không cân bằng.Khi cung lớn hơn cầu, giá cả thị trường nhỏ hơn giá trị hàng hóa.Khi cung nhỏ hơn cầu giá cả thị trường lớn hơn giá trị hàng hóa.Cung cầu thay đổi có tác động đến giá cả thị trường thì giá cả thị trường cũng có tác động ngược trở lại cung cầu. Khi cầu giảm thì giá cả thị trường cũng giảm. Mà giá cả thị trường giảm khiến cho các nhà sản xuất giảm đầu tư vào các nghành này và dẫn tới giảm cung sao cho cân bằng được với cầu. Sự biến động tạo ra chênh lệch cung cầu vừa có xu hướng tự phát vừa thủ tiêu sự chênh lệch đó. Cạnh tranh: là một hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có cạnh tranh. Cạnh tranh có thể diễn ra trong nội bộ ngành, giữa các ngành, giữa những người sản xuất với nhau, giữa người mua và người bán hoặc giữa những người mua với nhau. Cạnh tranh diễn ra theo nguyên tắc: ai mạnh người đó có lợi nhuận cao, ai yếu người đó sẽ bị thua lỗ thậm chí phá sản. Điều này đã thúc đẩy những người sản xuất hàng hóa ứng dụng khoa học –công nghệ để phát triển sức sản xuất của lao động làm sao giảm giá trị cá biệt của hàng hóa nhỏ hơn giá trị thị trường .Và dần dần sẽ dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa. 1.4 Những ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường 1.4.1. Những ưu điểm: Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sán xuất xã hộ ví nó có những ưu điểm sau: Cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển năng động có hiệu quả . Bởi người nào đưa ra thị trường một loại hàng hóa mới đặc biệt thì sẽ được nhiều khách hàng ưa chuộng và thu lợi nhuận tối đa . Vì thế cơ chế thị trường tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh tự do một cách thuận lợi nhất , kích thích hoạt động sáng tạo của họ trong việc kinh doanh đẻ tìm ra phương thức kinh doanh hiệu quả , những sản phẩm mới đa dạng phong phú nhất đáp ứng được thị trường và kiếm lời nhiều nhất . Trong môi trường này, mọi người dân sẽ được thỏa mãn tốt nhất nhu cầu tiêu dùng của mình dù khó tính đến đâu hoặc phù hợp với thu nhập của người dân. Vì trong cơ chế thị trường, người sản xuất được tự do kinh doanh , tự do quyết định việc sản xuất của mình. Nên trong thị trường có hàng ngàn hàng vạn sản phẩm khác nhau với số lượng lớn thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đây là điều rất khó thực thi trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Ưu điểm này có được là do sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến thích ứng tự phát giữa tổng cung và tổng cầu . Trong cơ chế thị trường chính vì có nhiều mặt hàng để thỏa mãn nhu cầu của người dân. Nên các doanh nghiệp mà không cạnh tranh được thì sẽ không thể tồn tại . Vì vậy họ phải đi tìm những phương pháp sản xuất tốt nhất không ngừng đổi mới công nghệ, kĩ thuật sản xuất, đổi mới phương thức hoạt động quản lý để nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất cá biệt tới mức tối thiểu để kiếm lời nhiều nhất. Chính điều đó mà cơ chế thị trường đã kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo có khả năng thích ứng cao trước những biến đổi của nền kinh tế. Nó luôn luôn thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu các yếu tố sản xuất , vốn đều tuân theo nguyên tắc thị trường và luôn được chuyển đến nơi có hiệu quả sử dụng cao nhất, thích ứng kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu của xã hội . 1.4.2. Những hạn chế. Ngoài những ưu điểm ở trên, thì cơ chế thị trường cũng có những khuyết điểm như các cơ chế thị trường khác. Do cạnh tranh không hoàn hảo. Việc xuất hiện độc quyền sẽ ảnh hưởng đến giá cả thị trường tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp thu được lợi nhuận siêu ngạch rất lớn. Nhiều công ty nhỏ không trụ được sẽ bị phá sản. Việc xuất hiện độc quyền còn ảnh hưởng đến việc đổi mới kỹ thuật, mất tính năng động sáng tạo của nền kinh tế. Vì vậy cần có sự can thiệp của nhà nước trong cơ chế thị trường để ngăn chặn độc quyền . Trong cơ chế thị trường , các doanh nghiệp được tự do kinh doanh , tự do quyết định quy mô sản xuất tùy thuộc vào mức vốn của họ .Chính vì thế các doanh nghiệp luôn có xu thế mở rộng sản xuất để sản xuất hàng hóa với khối lượng lớn .Tất cả vì mục đích lợi nhuận Nhưng chính vì điều này đã dẫn đến hai nhược điểm của cơ chế thị trường khó tránh khỏi : Thứ nhất : vì lợi nhuận tối đa , vì phải cạnh tranh mạnh trong cơ chế thị trường mà có thể xuất hiện sự lừa ngạt , hàng chất lượng kém , hàng giả….Làm cho thị trường hàng hóa mất ổn định . Thứ hai: tình trạng khủng hoảng kinh tế :số lượng hàng hóa sản xuất ra quá nhiều vượt quá sức mua có hạn của người tiêu dùng đã dẫn đến khủng hoảng thừa . Cung vượt quá cầu nhiều .Gắn liền ,đi đôi với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp .Đây là một điều khó tránh khỏi, nó có tính chu kỳ. Trong cơ chế thị trường , phân phối thu nhập không cân bằng dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo .Một bộ phận dân cư có điều kiện thuận lợi về tài sản trí tuệ kinh nghiệm , có khả năng kinh doanh thích ứng với cơ chế mới trở nên giàu có. Ngược lại , không thích ứng với được với cơ chế mới dẫn đến phá sản ; một bộ phận khác không có điều kiện thuận lợi về tài sản , trí tuệ để kinh doanh. Điều này khiến họ phải đi làm thuê ,khó có thể giàu lên được. Sự phân hóa giàu nghèo còn ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức và nhân cách của mỗi người sự mất bình đẳng… Cơ chế thị trường giúp phát huy được các tiềm lực kinh tế tiềm ẩn của nước nhà nhưng việc quá lạm dụng các tài nguyên vì lợi nhuận tối đa mà có thể ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống khí thải, rác thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên. Nguyên nhân hậu quả này sẽ là nguyên nhân cho nhiều hậu quả khác trong xã hội mà con người phải ghánh chịu: Bệnh tật, kinh tế phát triển không bền vững… 2 . SỰ QUẢN LÝ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. 2.1 Sự cần thiết khách quan : Trước đổi mới (1986), do nhận thức còn đơn giản nên chúng ta đã thiết lập cơ chế kế hoạch hóa tập trung , bao cấp . Nhưng cơ chế này bộc rõ khuyết tật của mình , trong đó khuyết tật lớn nhất là sự vi phạm quy luật kinh tế khách quan , làm mất động lực kinh tế dẫn đến những hậu quả kinh tế - xã hội nặng nề . Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế , quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính và buộc các đơn vị kinh tế phải nghe theo . Từ khâu vốn , nguyên nhiên vật liệu cho đến khâu sản xuất :sản xuất ra loại hàng gì , số lượng bao nhiêu nhà nước đều quyết định . Thậm chí đến khâu phân phối nhà nước cũng quyết định . Nhà nước sử dụng hình thức tem phiếu trong phân phối nên quan hệ tiền tệ bị coi thường . Lãi hay lỗ đều do nhà nước chịu trách nhiệm . Tất cả những điều trên làm cho các doanh nghiệp không phát huy được tính năng động sáng tạo của mình, không chịu trách nhiệm trước các hoạt động kinh tế dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh mất ,động lực kinh tế . Điều này làm nảy sinh sự trì trệ , hình thành nên cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội . Thêm vào đó , bộ máy quản lý kinh tế nhà nước cồng kềnh , kém năng động , quan liêu . Theo đó đội ngũ cán kém năng lực quản lý , không có nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách làm việc thì quan liêu , cửa quyền. Diều đó càng làm hạn chế tính năng động sáng tạo của nền kinh tế nước ta . Vì vậy cần phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó mới có thể phát triển kinh tế . Và cơ chế thị trường với những ưu điểm ở trên cùng với lịch sử xã hội chứng minh nó chính là cơ chế phù hợp với điều kiện hiện nay ở nước ta . Đảng ta đã xác định điều đó tại đại hội VI và VII : “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , hình thành đồng bộ và vận hành hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước “ Cơ chế thị trường có nhiều khuyết tật nên trong thực tế theo đà phát triển của trình độ xã hội hóa của sản xuất tất yếu nảy sinh cơ chế thị trướng có sự điều tiết của nhà nước chứ không phải là cơ chế thị trường thuần túy , tự phát . Đây là cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa gồm cơ chế thị trường tự do vf có sự điều tiết của nhà nước vĩ mô của nhà nước để sửa chữa những thất bại của thị trường ,thực hiện các mục tiêu xã hôi , đảm bảo công bằng xã hội mà bản thân cơ chế thị trường không làm được , giúp nền kinh tế thị trường phát triển theo định hứong xã hội chủ nghĩa . Người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp . Như vậy nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Mà nhà nước quản lý nền kinh tế ở nước ta không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nướ xã hội chủ nghĩa. 2.2 Sự quản lý của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường hiện nay. Ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết , đều có sự quản lý của nhà nước vào kinh tế . Tuy nhiên ở mỗi nước sự can thiệp này là không giống nhau . Nó tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế chính trị và xu thế khách quan của mỗi quốc gia . Sự can thiệp của nhà nước ta vào kinh tế nhằm : Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định , dẫn dắt định hướng cho nền kinh tế đi theo đúng quỹ đạo của nó, tránh những thăng trầm, những đột biến xấu. Đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Mỗi doanh nghiệp trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của mình có thể làm tổn hại đến lợi ích xã hội. Nhà nước phải giải quyết nhũng vấn đè đó để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội: “Dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh “. Nhà nước cần hạn chế khắc phục các mặt tiêu cực sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội: nghèo túng , thất nghiệp , mất bình đẳng trong xã hội… Để làm được điều đó nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý của miình .Đó là: Có đường lối ,sách lược dựa trên sự phân tích thực trạng kinh tế - xã hội ở nước ta .Xác định rõ mục tiêu ngắn hạn, trung hạn ,dài hạn để có phương pháp thực hiện . Tạo môi trường và điều kiện hoạt động cho các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội.Tạo môi trường pháp lý tốt nhất để các doanh nghiệp hoạt động được thuận lợi .Thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế đẻ họ có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh ,tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia , có chế độ thưởng phạt rõ ràng .Nếu làm lợi cho kinh tế thì được khuyến khích ,ngược lại đi trái với định hướng của nhà nước thì phải ngăn chặn và trừng phạt. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô : khống chế lạm phát ,thực hiện những biện pháp chống khủng hoảng, ngăn ngừa nhũng đột biến xấu của nền kinh tế . Xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện hoạt động cơ bản cho nền kinh tế .Xây dựng hhệ thống thị trường đồng bộ có tính cạnh tranh , giá cả do thị trường quyết định . Để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô , nhà nước sủ dụng những công cụ quản lý vĩ mô: hệ thống pháp luật , kế hoạch hóa, chính sách tài chính, tiền tệ Hệ thống pháp luật :tạo ra quy định cùng với chế tài kèm theo làm cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường giúp cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội . Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường tồn tại khách quan tự vận đọng theo quy luật vốn có của nó .Kế hoạch là sự tự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế . Kế hoạch có ưu diểm là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội , đảm bảo cân đối cho nền kinh tế như: cung – cầu , sản xuất – tiêu dùng ; gắn mục tiêu phát kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu, uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra. Chính sách tài chính đặc biệt là ngân sách nhà nước. Thông qua ngân sách này nhà nước bảo đảm phân bố các nguồn lực Kinh tế và thặc hiện được các chức năng xã hội của mình. Nguồn thu ngân sách chủ yêu là thuế: thuế đối với các doanh nghiệp, thuế xuất - nhập khẩu… Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta. Còn chính sách tiền tệ khống chế được lượng tiền phát hành từ đó kiềm chế lạm phát. CHƯƠNG II NHỮNG THỰC TRẠNG VA GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 1. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. Thành tựu. Trong thời gian qua nhà nước ta đã đạt được 1 số thành tựu trong sự quản lý cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đước xây dựng tương đối đồng bộ. Nhà nước với đặc thù vừa tham gia hoạt động kinh tế vừa tham gia điều hành hoạt động kinh tế. Sự điều hành của nhà nước rất linh hoạt, ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường: thay đổi phương thức điều hành, cơ cấu quản lý bộ máy nhà nước, quản lý kinh tế; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp theo hướng gần với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây nhà nước là chủ thể sở hữu thì bây giờ nhà nước chấp nhận đa sở hữu và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu đó. Trước đây, nhà nước trược tiếp điều hành sản xuất kinh doanh làm thay doanh nghiệp, bao cấp tràn lan thì bây giờ nhà nước tập trung vào việc quản lý nhà nước, định hướng phát triển, xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các cá nhân thông qua các mệnh lệnh hành chính nữa. Thay vào đó, đã đổi mới công tác, tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng và thực thi các công cụ điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân. Còn các doanh nghiệp nhà nước đang được đổi mới trên cơ sở xác định rõ chức năng sỡ hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước để đảm bảo minh bạch quyền của chủ sở hữu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế khác nên đã tạo điều kiện cho các thành phần đó phát triển tự do theo những gì pháp luật không cấm do đó tạo động lực cho kinh tế phát triển,giải phóng lực lượng sản xuất thực hiện dân chủ hóa về kinh tế. Trước đây nhà nước ta không chấp nhận quy luật giá trị và quan hệ thị trường, hay can thiệp sâu vào cơ chế khiến chúng bị phá vỡ đi tính khách quan vốn có. Làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Nhưng nay, nhà nước điều hành tốt lưu thông ở nhiều lĩnh vực, ngành hàng, với nguyên tắc chủ yếu là nắm chắc thông tin, có giải pháp can thiệp kịp thời để cân đối cung - cầu, bình ổn giá cả trên cơ sở tôn trọng cơ chế thị trường. VD: Với nhu cầu và giá gạo thế giới tăng cao, việc xuất khẩu gạo Việt Nam tăng trưởng mạnh ngay từ đầu năm đến cuối năm. Khả năng xuất khẩu đạt 5 triệu tấn là có thể làm được. Tuy nhiên, do dịch bệnh trên lúa đã làm giảm sản lượng gạo, cùng với việc nhu cầu gạo của các tỉnh miền Trung tăng đột biến sau cơn bão số 6, nên việc thu mua mạnh phục vụ xuất khẩu đã làm giá gạo trong nước tăng cao. Với sự theo dõi sát sao, nhà nước đã ra lệnh kịp thời ngừng xuất khẩu gạo và mở cửa thị trường cho gạo từ Campuchia tràn vào, nhanh chóng làm cân đối cung - cầu. Mặt hàng xăng dầu thay vì luôn tăng giá như các năm trươc, đến năm 2006, tuy biến động thất thường song có những thời điểm giảm và có xu hướng ổn định. Thích ứng với điều này, giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh 4 lần (2 tăng, 2 giảm). Khi giá thế giới giảm tiếp song giá bán trong nước còn chưa đủ bù chi phí cho doanh nghiệp thì nhà nước dã xử lý bằng phương pháp thuế, do đó dù giá trong năm qua tăng 10-15% (2005: 35-40%) nhưng giá xăng dầu không ảnh hưởng lớn tới chỉ số giá phương tiện đi lại. Nhà nước đã thiết lập được rất nhiều văn bản pháp luật kinh tế ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường, với thông lệ quốc tế. Khung pháp luật đã tạo được hành lang phatp lý cho việc thực hiện tự do kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhà nước chỉ tác động gián tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh phân biệt và tách rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính chính theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch. Cải tiến việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật trên diện rộng và phổ biến thông tin pháp luật trên diện rộng đã tích cực góp phần làm cho pháp luật kinh tế đi nhanh vào cuộc sống và chấp hành nghiêm chỉnh hơn.Đặc biệt luật doanh nghiệp thống nhất và luật đầu tư chung là những bước cải cách mạnh mẽ và hứa hẹn sẽ phát huy tác dụng trong năm 2006 tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng và có trật tự. Những thành tựu khác mà việc xây dựng kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước đinh hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được. Trong cơ chế thị trường, sự quản lý của nhà nước ở trên là đúng đắn điều này đã tạo điều kiện cho nền kinh tế có nhiều bước chuyển biến rất đáng kể. + Mức độ tăng trưởng hàng năm đạt 7-8,5%, riêng tháng 9 đầu năm 2006: 8,2%; GDP/đầu người: năm 2000: 241USD; năm 2005: 624 USD; năm 2006: 820USD. Từ chỗ 80% dân cư đói nghèo (1980) xuống dưới 20% (2005). + Có thay đổi tích cực trong các thành phần kinh tế: trước kia thành phần phần kinh tế nhà nước đóng góp khoảng 40% GDP những năm. 95-2000 thì đến bây giờ, con số đã giảm so với sự tăng của các thành phần kinh tế nhà nước tuy vẫn là lớn nhất. Kinh tế tư bản tư nhân: 3,9%. Các công ty liên doanh và nước ngoài:13,9% GDP. + Việc phát triển kinh tế đã nâng cao được đời sống của nhân dân, tạo cơ sở kinh tế cho nhà nước đầu tư phát triển cho các ngành xã hội, khoa học giáo dục, văn hóa thể thao… tạo đà cho xã hội phát triển vững chắc. Nhà nước cũng thực hiện được chính sách xã hội theo hướng công bằng và tiến bộ. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tạo mọi điều kiện để khuyến khích người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách ưu đãi, phân phối thu nhập hợp lý, góp phần chống tiêu cực và tệ nạn xã hội. + Góp phần đa dạng và năng động hóa nền sản xuất với nhiều loại mặt hàng hóa phân phối chất lượng tốt thỏa mãn nhu cầu của mọi người. Tổng quan tình hình giá cả thị trường năm 2006. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng đầu năm 2006 tăng 5,4% so với tháng 12/2005; trong đó 3 nhóm hàng tăng cao nhất: may mặc, mũ nón, giày dép 5,0%; nhà ở và vật liệu xây dựng: 5,6%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống: 5,9%. Giá vàng tăng mạnh tới 21,1% giá đo la Mỹ ổn định, chỉ tăng 0,8%. Chỉ số giá tiêu dùng trong 2 tháng còn lại của năm 2006 dự báo chỉ tăng khỏan 1,0 – 1,5%. Chỉ số tăng giá cả năm đạt mục tiêu Quốc hội đề ra: chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. 1.2. Những hạn chế. Tuy đã có sự can thiệp đúng vào cơ chế thị trường, nhưng đôi khi sự can thiệp đó còn chưa đúng chỗ, đúng lúc, nhiều biện pháp thực thi còn kém hiệu quả, thậm chí còn tác động ngược lại với mong đợi Sự hiện diện rộng khắp của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng thể nền kinh tế cũng là một bất cập. Bởi vì nhiều lúc ngoài duy trì và hỗ trợ mạnh một số doanh nghiệp nhà nước, nhà nước còn trực tiếp đầu tư quá nhiều vào sản xuất kinh doanh kể cả vào các lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước có thể làm được và làm với chi phí thấp. Bộ máy nhà nước chậm đổi mới chưa theo kịp yêu cầu. Yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức là yếu tố con người. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, bộ máy nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng những của chế độ cũ. Việc thay đổi tư duy, trang bị kiến thức mới còn rất chậm chạp. Chất lượng đội ngũ công chức cho đến nay vẫn chưa đáp ứng đựoc những yêu cầu của cơ chế thị trường. Không những thế một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ bị thoái hóa biến chất, tình trạng quan liêu, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy công quyền, nhất là các cơ quan giải quyết việc cho dân và cho doanh nghiệp chưa bị đẩy lùi, bộ máy Đảng và nhà nước vẫn cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ không rõ ràng. Tình trạng trên đã làm hạn chế vai trò lao động của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Them vào đó sự phân cấp quản lý còn rất yếu đến bất hợp lý trong hệ thống tổ chức, sự phối hợp giữa các cấp tỏ ra không hiệu quả, còn phụ thuộc, ỷ lại lẫn nhau gây khó khăn trong công tác quản lý và xử lý công việc. Tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế nhà nước cũng phải thừa nhận, hệ thống này vẫn chưa theo kịp nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn bản pháp luật quan trọng còn thiếu tính cụ thể. Trong một số luật đã ban hành có biểu hiện không nhất quán, nội dung nhiều luật còn thiếu tính cụ thể. Nội dung của một số luật còn mang nặng tư duy chủ quan, bao cấp, cục bộ , không còn phù hợp với cơ chế thị trường và lợi ích toàn xã hội. Hiện nay mặc dù chúng ta đã tiến hành bãi bỏ và rà soát hàng loạt giấy phép bất hợp lý nhưng đến nay vẫn còn tới 315 giấy phép kinh doanh không thể hiện mục tiêu rõ ràng, hiệu lực quản lý thấp và thiếu sự tham gia của người xin cấp phép nên đã vô tình tạo điều kiện cho bộ phận cán bộ công chức lạm quyền. Tính khả thi cua một số luật chưa cao, dự án luật thông thường được xây dựng với tư duy hướng về phiá thuận lợi cho công tác quản lý của các cơ quan nhà nước và thường được chính các cơ quan quản lý chuyên ngành soạn thảo. Nên không ít luật mới đưa ra đã xuất hiện bất hợp lý cần chỉnh sửa, thậm chí khó đi vào cuộc sống. Đăng ký kinh doanh ở nước ta được xếp trong nhóm 60 quốc gia có đăng ký kinh doanh khó khăn nhất. Để khởi sự một doanh nghiệp ở Việt Nam phải mất 50 ngày trong khi đó ở Thái Lan chưa đến 30 ngày. Việc đăng ký tài sản có đảm bảo của Việt Nam phải từ 60 – 70 ngày, còn có ở Thái – Lan chỉ mất 2 ngày để giải quyết. Cái giá phải trả để dăng ký được một doanh nghiệp tại Việt Nam lên đến ½ thu nhập bình quân đầu người vì vậy nhiều doanh nghiệp cho rằng họ không nhất thiết phải “lộ diện” mà cứ việc hoạt động ngầm, không hề đăng ký kinh doanh vì như thế sẽ dễ chiụu hơ. Chính vì điều này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cho các nhà quản lý cũng như đối với các doanh nghiệp. Do không tin tưởng vào hệ thống luật pháp của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp thích hợp tác với các đối tác đã quen biết, ngại mở rộng quan hệ làm ăn. Hà Nội tập trung 10 nghìn doanh nghiệp, cả năm 2003 các tòa kinh tế chỉ giải quyết được 70 vụ tranh chấp, trọng tại thương mại thì giải quyết được 20 vụ. Báo cáo toàn cầu của Ngân hàng Thế giới xếp Việt Nam ở thứ 99 trên tổng số 155 quốc gia về mức độ dễ dàng của môi trường kinh doanh. Ngoài ra tác động của cơ chế thị trường đối với xã hội còn có một số mặt hạn chế: Sự phân hóa giàu nghèo, sự phân hóa xã hội sâu sắc. Đó là sự cách biệt giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề khác trong xã hội, giữa người có thu nhập thấp với người có thu nhập cao Tính hệ số chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo. Các chỉ số thống kê cho thấy. Hệ số chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo ở nước ta như sau: năm 1999: 7,6 lần; năm 2002: 8,1 lần; 2004: 8,4 lần. Hệ số chênh lệch ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2004 là 8,1 lần so với 6,4 lần). Theo vùng lãnh thổ chênh lệch cao nhất là ở Đông Nam Bộ(8,7 lần), tiếp theo là Tây Nguyên (7,6 lần), Đông Bắc (7 lần). So với hệ số chênh lệch tương ứng của 126 nước và vùng lãnh thì hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao đứng thứ 50. Sự chênh lệch tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình quân mỗi năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn tăng cao hơn nữa trong thời gian tới. Trong hệ số chênh lệch giàu nghèo của nước ta còn chứa đựng nhiều yếu tố bất hợp lý ở cả hai đầu: đầu giầu và đầu nghèo. Hệ số chênh lệch tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng quan tâm, nhất là đối với nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tính tự phát không được kiểm soát, kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi làm tăng lên tính vị kỉ trong mỗi cá nhân gây ra đối kháng giữa các tần lớp (lao động, xí nghiệp), làm xã hội phân hóa gay gắt hơn. Nhiều giá trị đạo đức trong xã hội có nguy cơ bị xói mòn với sự lên ngôi của đồng tiền, chủ nghĩa thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35891.doc
Tài liệu liên quan