Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ 3

I. Hệ thống kiếm soát nội bộ và vai trò của kiểm soát nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát. 3

1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ . 3

1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ. 3

1.2.1. Môi trường kiểm soát. 3

1.2.2. Hệ thống kế toán. 6

1.2.3. Các thủ tục kiểm soát. 6

1.2.4. Kiểm toán nội bộ. 7

1.3. Vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát. 8

II. Khái quát về kiểm toán nội bộ. 8

2.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ. 8

2.2. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và quyền hạn của kiểm toán nội bộ. 9

2.2.1. Chức năng. 9

2.2.2. Nhiệm vụ. 10

2.2.3. Quyền hạn. 10

2.3. Phạm vi hoạt động và các loại hình kiểm toán nội bộ. 10

2.3.1. Phạm vi hoạt động. 10

2.3.2. Các loại hình kiểm toán nội bộ. 11

2.4. Tổ chức kiểm toán nội bộ. 13

2.4.1. Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 13

2.4.1. Mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ. 15

Phần II: Xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. 18

I. Khái quát về các tổ chức tín dụng. 18

1.1. Khái quát chung. 18

1.2. Các loại hình tín dụng. 19

1.3. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát tại các tổ chức tín dụng. 19

1.4. Một số tiền đề hiện nay cho hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. 21

II. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. 22

2.1. Thực trạng hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại. 22

2.1.1. Kết quả đạt được. 22

2.1.2. Hạn chế. 23

2.2. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các quỹ tín dụng. 25

 

Phần III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. 26

Kết luận 32

Tài liệu tham khảo 34

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát trong các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm toán giữa tiền kiểm và hậu kiểm cũng khác nhau. Mặc dù có các khác biệt trên, hai loại hình kiểm toán này vẫn có sự hỗ trợ nhau rất hữu hiệu. Một mặt, chính nhờ các kinh nghiệm, các kết luận rút ra được từ những cuộc hậu kiểm mà các chuyên mới xây dựng, thiết lập các biện pháp phòng ngừa cho công tác tiền kiểm. Mặt khác ban hành các biện pháp phòng ngừa không chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ thị, các quy định mà còn phải có những sự kiểm soát theo dõi sự tuân thủ, chấp hành nữa và việc này có thể coi như một dạng hậu kiểm đầu tiên. 2.4. Tổ chức kiểm toán nội bộ. 2.4.1. Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. a/ Nguyên tắc: Công tác kiểm toán nội bộ phải được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: *Tính độc lập : Ngoài quyền chỉ đạo của Ban giám đốc về việc tổ chức các cuộc kiểm toán bổ sung, thì Kiểm toán nội bộ phải thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự chủ và độc lập. Đặc biệt cần đảm bảo rằng Kiểm toán nội bộ không chịu bất cứ một sự chỉ đạo rong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá các kết quả kiểm toán. *Sự phân tách chức năng: Về nguyên tắc, không được phép giao cho các nhân viên làm việc tại kiểm toán nội bộ thực hiện những nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm toán. Tuyệt đối họ không được phép đảm nhận những nhiệm vụ không tương hợp với công tác kiểm toán. Về nguyên tắc, cũng không nên giao cho những nhân viên làm việc tại các phòng ban khác của tổ chức tín dụng đảm nhận các công việc kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên điều đó không loại trừ khả năng, trong những trường hợp cụ thể có lý do chính đáng, cũng có những người khác tạm thời làm việc cho kiểm toán nội bộ vì họ có những kiến thức chuyên môn đặc biệt. Chừng nào tính độc lập của kiểm toán nội bộ được đảm bảo thì họ có thể trong khuôn khổ công việc của mình thực hiện công tác tư vấn cho Ban giám đốc hoặc cho các đơn vị tổ chức khác trong tổ chức tín dụng. *Thông tin đầy đủ: Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ có quyền được nhận thông tin đầy đủ và không hạn chế. Như vậy, kiểm toán nội bộ phải được trả lời ngay về các thông tin mà họ yêu cầu, được cung cấp ngay tất cả mọi hồ sơ tài liệu cần thiết và được xem tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh trong tổ chức tín dụng. Các chỉ thị và nghị quyết của ban giám đốc phải được thông báo cho Kiểm toán nội bộ biết, nếu như chúng có thể có tầm quan trọng trực tiếp hay gián tiếp đối với Kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, tất cả các đơn vị tổ chức đều có trách nhiệm cung cấp những thông tin cho kiểm toán nội bộ, nếu như trong lĩnh vực hoạt động của mình thấy có những sai phạm nghiêm trọng hay phát sinh những thiệt hại đáng lưu ý hoặc cố một nghi vấn cụ thể nào đó. Nếu có những hay đổi quan trọng trong cơ chế kiểm tra nội bộ thì phải thông báo kịp thời cho Kiểm toán nội bộ biết. *Trình độ nghiệp vụ của nhân viên: Ban giám đốc cần đảm bảo sao cho trang bị nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức và quy mô công việc của họ. Trang bị về nhân sự và vật chất trước hết phải định hướng theo tổ chức doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh doanh, tình hình hoạt động kinh doanh và cơ cấu rủi ro của các tổ chức tín dụng cũng như theo các quy định về thanh tra giám sát. Thông qua các biện pháp thích hợp, cần phải đảm bảo rằng những người làm công tác kiểm toán nội bộ luôn có một trình độ nghiệp vụ phù hợp với bước phát triển mới nhất trong quy trình hoạt động và kinh doanh đưọc kiểm toán. Họ phải thấu hiểu về cơ cấu rủi ro của các quá trình. Họ phải có một kiến thức chuyên môn được cập nhật về kiểm toán và hiểu biết toàn diện về lĩnh vực được kiểm toán. Như vậy mới có thể thực hiện được công tác kiểm toán nội bộ một cách đúng đắn và hiệu quả. b/ Nhiệm vụ: Kiểm toán nội bộ phải thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh của tổ chức tín dụng tuỳ theo quy mô và mức độ rủi ro trong công việc của doanh nghiệp hay giao dịch kinh doanh. Kiểm toán nội bộ đặc biệt phải kiểm toán và đánh giá về khả năng hoạt động, tính hiệu quả, tính kinh tế và sự thoả đáng của cơ chế kiểm tra nội bộ, kiểm toán và đánh giá việc áp dụng, khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự thoả đáng của các cơ quản lý và điều hành rủi ro, của chế độ thông tin báo cáo, của hệ thống thông tin và của chế độ tài chính kế toán, kiểm toán và đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định về pháp lý thanh tra hiện hành cũng như các quy định khác, việc chấp hành các quy chế, chế độ và quy tắc của doanh nghiệp cũng như tính nghiêm túc đúng đắn của tất cả các quy trình hoạt động kinh doanh và các quy định và biện pháp nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp. Nguyên tắc giám sát độc lập với quá trình không loại trừ khả năng kiểm toán nội bộ, trong khuôn khổ các quy định được cụ thể hoá trong từng trường hợp, cũng có thể thực hiện nhiệm vụ gắn liền với quá trình thực hiện dự án. Khi đó, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng tính độc lập của họ vẫn được giữ nguyên và không xảy ra bất kỳ một sự xung đột quyền lợi nào. Kiểm toán nội bộ cũng thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt. Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ trong các TCTD có 11 nhiệm vụ, cụ thể: Dự thảo để Tổng giám đốc (giám đốc) trình HĐQT, ban hành các phương thức, nội dung và quy trình nghiệp vụ trông kiểm tra, kiểm toán noọi bộ tổ chức tín dụng. Xây dựng và trình Tổng giám đốc (giám đốc) duyệt và triển khai thực hiện kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Trực tiếp hoặc phối hợp với Ban kiểm soát tiến hành kiểm tra công tác quản lý và điều hành theo đúng quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nôi bộ của các tổ chức tín dụng. Kiểm tra việc chấp hành quy trình hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng và các đơn vị thành viên. Giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của NHNN về bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đánh giá mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và kiến nghị các bbbiện pháp nâng cao khả năng bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ. Báo cáo Tổng giám đốc (giám đốc), Ban kiểm soát kết quả kiẻm tra định kỳ hoặc đột xuất và nêu những kiến nghị khắc phục khuyết điểm, tồn tại. Trong phạm vi chức năng và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Xem xét giải quyết hoặc trình Tổng giám đốc (giám đốc) giaỉ quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tổ chức tín dụng, hoặc kiểm tra công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các đơn vị thuộc tổ chức tín dụng. Đối với tổ chức tín dụng thành lập thường trực chống tham nhũng do bộ phận này thực hiện. Rà soát hệ thống các quy định an toàn trong kinh doanh, phát hiện các cơ sở, bất hợp lý để kiến nghị bổ sung, sửa đổi. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc (giám đốc) giao. 2.4.1. Mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện chức năng kiểm toán trong phạm vi đơn vị phục vụ yêu cầu quản lý nội bộ đơn vị. Do mục tiêu được giới hạn ở phạm vi nội bộ đơn vị nên bộ máy này chỉ bao gồm những kiểm toán khôn chuyên nghiệp. Về nội dung kiểm toán, trong thời kỳ đầu cũng giới hạnở kiểm toán chất lượng thông tin kế toán, tài chính sau này mới phát triển sang các lĩnh vực khác của quản lý. Như ở Mỹ, những tư tưởng hiện đại về kiểm toán đã xuất hiện từ năm 1914 song chính sau cơn khủng hoảng nặng nề về tài chính 1929 – 1931, kiểm toán mới phát triển. Trong bối cảnh đó, kiểm toán nội bộ cũng phát triển. Năm 1914, trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ (I.I.A) được thành lập và các năng của kiểm toán nội bộ được xác định chủ yếu trong lĩnh vực tài chính. Từ năm 1950 trở đi, kiểm toán nội bộ phát triển vào khía cạnh quản lý của doanh nghiệp, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh và năng lực quản lý. ở cộng hoà Pháp, chức năng của kiểm toán nội bộ đã xuất hiện chính thức vào năm 1960 trong các công ty chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốc. Tiếp đó, các công ty khác, đặc biệt là trong ngân hàng cũng định ra những chức năng tương tự. Đồng thời, việc du nhập kiểm toán nội bộ vẫn tiếp tục phát triển vì các công ty mong muốn duy trì sự ổn định và tăng cường hiệu quả của các xí nghiệp, đến năm 1965 đã thành lập Hội kiểm toán viên nội bộ của Pháp và sau đó, trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm 1973. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách hữu hiệu, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Tuy vậy, khi xem xét vấn đề này, hiện nay ở Việt Nam, có ít nhất là ba quan điểm khác nhau: Loại quan điểm thứ nhất cho rằng: Bộ phận kiểm toán nội bộ nên đặt trực thuộc phòng kế toán dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng, bởi vì lâu nay phòng kế toán doanh nghiệp có chức năng kiểm tra kế toán, kế toán trưởng của doanh nghiệp là kiểm soát viên của Nhà nước. Cho đến nay, quan điểm này xét ra không còn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế đang phát triển theo cơ chế thị trường. Loại quan điểm thứ hai: Bộ phận kiểm toán nội bộ ở các tổng công ty có Hội đồng quản trị nên đặt trực thuộc Hội đồng quả trị, vừa trực tiếp chịu sự chỉ đạo của ban kiểm soát, có như vậy, bộ phận kiểm toán nội bộ mới phát huy được tính độc lập, kết quả kiểm toán nội bộ mới có tính khách quan, khắc phục tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Theo quan điểm này, chức năng này đã đảm bảo điều kiện về tính độc lập của kiểm toán nội bộ nhưng không có tính thực tế vì Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp. Hơn nữa, Họi đồng quản trị ở tổng công ty đặc biệt là các công ty thuộc Nhà nước thực tế còn nhiều thành viên kiêm chức được cử từ cơ quan tài chính tới. Loại quan điểm thứ ba: bộ phận kiểm toán nội bộ nên đặt trực thuộc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp. Quan điểm này dựa trên cơ sở kiểm toán nội bộ là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, đặt tại Ban điều hành doanh nghiệp, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểmyếu để báo cáo kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểm yếu để báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để kịp thời khắc phục, hoàn thiện chúng. Để đạ được mục tiêu, vai trò của kiểm toán nội bộ cần phải đặt kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Trong thực tế, quan điểm này phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, người đứng đầubộ phận kiểm toán nội bộ phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (nếu có). Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức có sử dụng các nguồn lực thuộc ngân sách Nhà nước, là đơn vị kế toán riêng, vẫn phải tổ chức Bộ máy kiểm toán nội bộ, trực thuộc thủ trưởng đơn vị. Như vậy, mô hình tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ có thể được tổ chức như sau: *Đối với các loại hình doanh nghiệp: Trong các doanh nghiệp Nhà nước là tổng công ty, bộ phận kiểm toán nội bộ có thể tổ chức thành một phòng ban trực thuộc tổng công ty. Người đứng đầu bộ phận này có thể được gọi là kiểm toán trưởng nội bộ hoặc trưởng phòng kiểm toán nội bộ, có trách nhiệm, quyền hạn theo chức năng, nhiệm vụ nhưng có quyền tự do liên hệ và báo cáo kết quả kiểm toán với lãnh đạo và ban kiểm soát của Hội đồng quản trị. Các kiểm toán viên nội bộ được cử đến làm việc thường xuyên, ổn định tại các doanh nghiệp thành viên theo đúng chức năng của kiểm toán viên nội bộ, nhưng chịu sự chỉ đạo và điều hành chung của trưởng phòng kiểm toán nội bộ. Hoặc các kiểm toán viên nội bộ thực hiện công việc theo chương trình, mục tiêu cụ thể của từng cuộc kiểm toán đối với các doanh nghiệp thành viên. Đối với các doanh nghiệp độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ đặt trực thuộc Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình trong phạm vi doanh nghiệp đảm bảo tính độc lập của quá trình kiểm toán, trưởng bộ phận kiểm toán có quyền báo cáo kết quả kiểm toán cho giám đốc hoặc khi thấy cần thiết có thể báo cáo cho các cơ quan tài chính Nhà nước hoặc cấp trên. *Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Các Bộ và cơ quan cấp Trung ương, có thể thành lập Vụ, Phòng, Ban kiểm toán nội bộ giúp thủ trưởng đơn vị kiểm soát các hoạt động tài chính, thẩm định các thông tin do cấp dưới báo cáo và có trách nhiệm là người phối hợp với cơ quan ngoại kiểm. Các đơn vị dự toán, cần có phòng hoặc một kiểm toán viên nội bộ. Mô hình tổ chức hệ thống nhân viên chuẩn chi của Pháp rất đáng chú ý để vận dụng cho khối hành chính và sự nghiệp Nhà nước. Phần II: Xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. I. Khái quát về các tổ chức tín dụng. 1.1. Khái quát chung. Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (QĐ số 03/1997/QĐ-NHNN3 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 03/01/1998): “Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định pháp luật, các quy chế quản lý của Ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản, bảo đảm tính toàn diện, và tin cậy của số liệu hạch toán”. Mỗi một tổ chức tín dụng phải có một đơn vị kiểm toán nội bộ đủ khả năng hoạt động; điều này cũng áp dụng đối với các doanh nghiệp do các tổ chức tín dụng diều hành với tư cách là đơn vị phụ thuộc về mặt pháp lý. Các tổ chức tín dụng phải có một cơ cấu tổ chức kinh doanh nghiêm túc đúng đắn và một quy trình kiểm tra nội bộ thoả đáng. Bên cạnh cơ chế kiểm tra nội bộ thì kiểm toán nội bộ cũng là thành phần của quy trình kiểm tra nội bộ này (“cơ chế giám sát nội bộ”). Cơ chế kiểm tra nội bộ bao gồm tất cả các hình thức giám sát được cài đặt trực tiếp hay gián tiếp vào các quy trình công tác cần được giám sát (sự giám sát gắn liền với quá trình). Những biện pháp giám sát này được thực hiện bởi các cá nhân hay đơn vị tham gia trong mỗi quy trình công tác đó và hộ thường cũng là những người phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của quy trình cần giám sát cũng như về kết quả giám sát. Bộ phận này là một đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp với nhiệm vụ thực hiện giám sát theo uỷ quyền của Ban giám đốc tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh trong nội bộ tổ chức tín dụng, giám sát việc quản lý và điều tiết rủi ro cũng như cơ chế kiểm tra nội bộ. Kiểm toán nội bộ chỉ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này nếu như họ hoạt động độc lập với các lĩnh vực và quy trình công tác được kiểm toán (sự giám sát độc lập với quá trình). Vì vậy công việc kiểm toán của kiểm toán nội bộ được thực hiện bởi những người tham gia vào các quá trình kinh doanh của tổ chức tín dụng và không chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của quy trình được giám sát. 1.2. Các loại hình tín dụng. Các tổ chức tín dụng được quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam là: Ngân hàng quốc doanh (bao gồm cả ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long). Ngân hàng thương mại cổ phần. Các công ty tài chính (bao gồm cả các công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam, công ty cho thuê tài chính). Các ngân hàng liên doanh. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ... 1.3. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát tại các tổ chức tín dụng. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nhiều vấn đề chưa giải quyết đồng bộ, như các yếu tố về luật pháp, luật định, quy chế,...do đó việc điều hành có những biểu hiện không đồng bộ, không thống nhất, các vụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại, chưa được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thì nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi tổ chức tín dụng. Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng sẽ làm chi phi quản lý tăng lên trong khi các tổ chức tín dụng chưa thấy được các lợi ích mang lại từ kiểm toán. Đây là một trong những lý do làm cho các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ như các tổ chức quỹ tín dụng nhân dân chưa có bộ phận kiểm toán. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức tín dụng hiện nay có bộ phận kiểm toán nội bộ như các ngân hàng thương mại nhưng hoạt động còn yếu kém, lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức, nên tác dụng giám định và kiểm tra yếu. Một phần do bản thân kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nghiệm trong kiểm toán. Mặt khác, kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm. Vì vậy, công tác kiểm toán đôi khi mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm, còn sai sót thì bỏ qua. Vì thế, có một số tổ chức tín dụng hoàn thành kế hoạch, báo cáo đều tốt, nhưng khi có đoàn thanh tra đến là việc thì mọi khuyết điểm, yếu kém mới được đưa ra. Đối với các Quỹ tín dụng nhân dân, có một số ý kiến cho rằng chưa nhất thiết cần phải áp dụng kiểm toán ngay vì loại hình còn quá nhỏ bé, hoạt động đơn giản, năng lực tài chính cũng như khă năng quản lý còn yếu kém. Song ý kiến đó chưa thoả đáng, các Quỹ tín dụng nhân dân càng yếu kém thì càng cần có kiểm toán đặc biệt là kiểm toán nội bộ và yêu cầu về kiểm toán nội bộ cũng phù hợp với mặt bằng trình độ của các Quỹ tín dụng nhân dân. Qui mô, nội dung, tính chất hoạt động của Quỹ tín dụng có đơn giản hơn, khác với các tổ chức tín dụng lớn, với các ngân hàng thương mại. Với những đặc thù củatổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo Luật hợp tác xã thì mô hình quỹ tín dụng bên cạnh những lợi thế của mình cũng có những điểm yếu nhất định. Lại sẵn điểm yếu nội tại về khả năng kiểm soát, giám sát thì các quỹ tín dụng nhân dân có hạn chế rất lớn. Mỗi quỹ tín dụng có rất đông thành viên và thực hiện nguyên tắc dân chủ hợp tác xã, mỗi thành viên chỉ có một quyền biểu quyết không phụ thuộc vào vốn góp nhiều hay ít. Mỗi thành viên không góp quá nhiều vốn để quỹ tín dụng không phụ thuộc quá nhiều vào các cá nhân nhưng lại làm mất đi động cơ giám sát, kiểm soát hơn hẳn các ngân hàng cổ phần. Khác với các loại hình tổ chức tín dụng khác, thành viên của quỹ tín dụng nhân dân đều có thể vay tín dụng cho mình. Mặt khác, chi phí để thuê kiểm toán độc lập vượt quá khả năng của quỹ tín dụng nhân dân. Chính vì lẽ đó cần phải xây dựng một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ cho các quỹ tín dụng nhân dân. Qua thực trạng công tác kiểm toán nội bộ tại các tổ chức tín dụng, còn nhiều hạn chế, tồn tại và khó khăn. Vì vậy việc xây dựng hệ thống kiểm toán nôi bộ và hoàn thiện nó trong các tổ chức tín dụng là một điều rất cần thiết. Ngày 3-1-1998, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế mẫu về tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, theo mẫu được ban hành, kiểm toán nội bộ được định nghĩa: "Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phương pháp giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật, các quy chế quản lý của ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản đảm bảo tính toàn diện và tin cậy của số liệu hạch toán”. Trên cơ sở học hỏi, và áp dụng kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam cũng tìm được hướng đi phù hợp cho mình, tương ứng với cá điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Dựa trên nhận thức về bộ máy kiểm toán nội bộ trên thế giới, Việt Nam có thể vận dụng một trong hai mô hình: hội đồng nội kiểm phổ biến ở các nước Bắc Mỹ và hội đồng Giám định viên kế toán áp dụng phổ biến cho các khu vực kinh tế Nhà nước ở một số nước Tây Âu. Tuy nhiên, đó chỉ là những cơ sở cho việc thiết lập mẫu tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ riêng cho từng nước. Tuỳ thuộc vào điều kiện đặc diểm kinh tế xã hội khác nhau, cũng trong quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam được Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành theo quy định số 03/ 1997-NHNN3 ngày 3-1-1998, thì tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ áp dụng ở các tổ chức tín dụng Việt Nam như sau: "Tất cả các tổ chức tín dụng: ngân hàng quốc doanh bao gồm cả ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửu long, NHTM cổ phần, các công ty tài chính (cả công ty 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh với nước ngoài tại Việt nam, công ty cho thuê tài chính), các ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách tại trụ sở chính và các đơn vị thành viên, bộ máy này trực thuộc Tổng Giám đốc (Giám đốc)”. 1.4. Một số tiền đề hiện nay cho hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. *Về nhân sự: Mặc dù kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng là hoạt động còn mới mẻ đối với tình hình hoạt động hoạt động kinh tế Việt Nam, tuy nhiên đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm toán đã được trang bị hoặc tự mình trang bị kiến thức chuyên môn mọi mặt để từng bước hoàn thiện công tác kiểm toán. Ngoài ra, cũng có một bộ phận không nhỏ các chuyên gia, nhân viên nước ngoài đang làm cong tác kiểm toán nội bộ cho các ngân hàng tại Việt Nam, bộ phận này với kinh nghiệm của họ cũng giúp cán bộ kiểm toán Việt Nam học tập, trao đổi, nâng cao nghiệp vụ kiểm toán. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm toán nội bộ được hình thành và phát triển taị Việt Nam. *Về hành lang pháp lý: Qua nhiều năm chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung, luật pháp Việt Nam, ngày càng tự hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Tháng 1/1994, chính phủ ban hành các quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Các chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận tại Mỹ, các chuẩn mực kiểm toán quốc gia và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng được phổ biến rộng rãi. Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản dưới luật về hoạt động nân hàng và hệ thống kế toán ngân hàng thống nhất cũng đã ra đời và đang được bổ sung thành luật. Mặc dù hành lang pháp lý của Việt Nam chưa đầy đủ nhưng đây vẫn là những tiền đề cho sự ra đời các chuẩn mực kiểm toán nội bộ của ngân hàng Việt Nam. II. Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tổ chức tín dụng. 2.1. Thực trạng hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại. 2.1.1. Kết quả đạt được. Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ đã được Hội đồng quản trị, Ban giám đốc các ngân hàng thương mại chú ý quan tâm xây dựng và củng cố. Trước hết, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các ngân hàng thương mại đã chú trọng tới việc tạo ra môi trường kiểm soát mạnh, trong đó khuyến khích các chuẩn mực cao về đạo đức, làm cho các nhân viên ở tất cả các cấp hiểu rõ tầm quan trọng của kiểm tra nội bộ, hiểu về vai trò của mình trong cơ chế kiểm tra nội bộ. Thông thường, để đề cao các giá trị đạo đức, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các ngân hàng thương mại đề ra chính sách và các quy trình của ngân hàng ngăn ngừa hạn chế các động cơ hoặc ham muốn thực hiện các hành vi không được phép. Ví dụ như nhấn mạnh quá mức các mục tiêu thành tích, đặc biệt những thành tích ngắn hạn, bỏ qua các rủi ro đài hạn, cơ chế thù lao phụ thuộc quá nhiều vào khối lượng (dư nợ tín dụng), bỏ qua vấn đề chất lượng (nợ quá hạn, nợ khó đòi)... Thứ hai, cùng với sự chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc các ngân hnàg thương mại đã thường xuyên rà soát cơ chế nghiệp vụ của những lĩnh vực hoạt động quan trọng như lĩnh vực tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ...để phát hiện những điểm yếu của qui trình nghiệp vụ hoặc những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát chưa được nhận biết, chưa có biện pháp kiểm soát thoả đáng phòng ngừa, hay nhận biết những rủi ro mới trong điều kiện kinh doanh thay đổi, trên cơ sở đó mà bổ sung biện pháp nghiệp vụ, xây dựng qui trình mới hoàn thiện hơn. Thứ ba, Hôi đồng quản trị và Ban giám đốc bước đầu đã nhận thức được sự cần thiết của việc thường xuyên có sự kiểm tra, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với cơ chế kiểm tra nội bộ gắn với qui trình (hay quá trình). Do đó, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc đã quan tâm xây dựng và tạo điều kiện họat động cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách của ngân hàng , coi bộ phận này như là “cánh tay vươn dài” của lãnh đạo. Bộ máy tổ chức của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách liên tục được hoàn thiện, củng cố. Số lượng cán bộ là công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách không ngừng nâng cao về số lượng và chất lượng. Số lượng cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên trách. Ví dụ: tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ chuyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35620.doc
Tài liệu liên quan