Đề tài Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 4

1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 4

1.1. Sự hình thành và phát triển của Kinh tế thị trường 4

1.1.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá 4

1.1.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường 5

1.2. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay 5

1.2.1. Kinh tế thị trường 5

1.2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6

1.3. Một số mô hình Kinh tế thị trường trên thế giới 8

1.3.1. Mô hình truyền thống 8

1.3.2. Mô hình phát triển rút ngắn 10

1.3.3. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 10

2. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 11

2.1. Sự cần thiết khách quan phải chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN 11

2.1.1. Thời kỳ nền kinh tế theo lối tập trung quan liêu bao cấp 12

2.1.2. Những điều kiện, cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 12

2.2. Thực trạng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay 14

2.2.1. Những thành tựu 14

2.2.2. Những khó khăn tồn tại 18

3. GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 19

3.1. Thực hiện nhất quán chính sách nhiều kinh tế nhiều thành phần 20

3.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội 21

3.3. Mở rộng phân công lao động phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá 21

3.4. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường 22

3.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 22

3.6. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước 23

3.7. Giữ vững sự ổn định chính trị hoàn thiện hệ thống pháp luật 24

KẾT LUẬN 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4199 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việt làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ Tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã phải trở thành nền tảng và kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và khuôn khổ pháp luật của Nhà nước XHCN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương (khoá VI) đã đi đến kết luận rất đúng rằng: “Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau mà mà có nhiều loại hỗn hợp, đan xen với nhau”. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế “mở” cả với bên trong và với bên ngoài.Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, hoạt động của các cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của cá phương thức sản xuất chủ đạo. Về phân phối thu nhập: Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện: Một mặt xác định mục cần đạt được, mặt khác nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN. Một số mô hình Kinh tế thị trường trên thế giới Mô hình truyền thống Mô hình này diễn ra ở các nước tư bản phương Tây điển hình ví dụ như Anh, Pháp, Đức…Mô hình truyền thống trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hang hoá giản đơn sang nền kinh tế hang hoá; giai đoạn kinh tế thị trường tự do; giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước. Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hang hoá giản đơn sang nền kinh tế thị trường Giai đoạn này diễn ra từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 tại Anh và một số nước châu Âu khác. Đây cũng là thời kỳ quá độ từ phương thức sản xuất phong kiến sang phương thức sản xuất TBCN. Giai đoạn này hoạt động ngoại thương được đẩy mạnh, là một phương thức chủ yếu để giai cấp tư sản tích luỹ tiền tệ. Cùng với sự tích luỹ tiền tệ, thị trường sức lao động cũng dần được hình thành. Không những trong thương nghiệp mà trong nông nghiệp cũng chứng kiến sự phát triển của CNTB. Ở các nước bước vào kinh tế thị trường trong giai đoạn này, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của kinh tế thị trường bằng cách đưa ra các chính sách kinh tế như quản lý tiền tệ, quản lý buôm bán xuất nhập khẩu, thực hiện thuế quan bảo hộ. Giai đoạn kinh tế thị trường tự do Đây là giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường dân tộc theo nguyên tắc tự do kinh tế. Ở các nước phương Tây, giai đoạn này kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20. Trên cơ sở tích luỹ được khối lượng tiền tệ lớn, các nhà kinh doanh tập trung sực phát triển thị trường dân tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế dân tộc đã làm tăng sức mạnh của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và các ngành sản xuất khác, khẳng định sự chiến thắng của Kinh tế thị trường đối với các ngành sản xuất nhỏ. Một đặc trưng quan trọng cùa giai đoạn này là sự phát triển của kinh tế thị trường diễn ra trên tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Giai đoạn kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Giai đoạn này diễn ra từ những năm 50 của thế kỷ 20 đến nay. Sự can thiệp của nhà nước giúp cho kinh tế thị trường tránh khỏi các khủng khoảng trầm trọng. Thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu tư bản nhà nước, các chương trình kích thích đầu tư, kích thích tiêu dung và đặc biệt là sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ để điều tiết nền kinh tế trên tầm vĩ mô. Mô hình phát triển rút ngắn Thực tế lịch sử cho thấy có rất nhiều nước đã biết tận dụng lợi thế là nước đi sau để tiến nhanh đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Nhật bản là một nước điển hình, gần đây là sự phát triển của các nước NICS. Mô hình rút ngắn hoàn toàn không phải là sự đốt cháy giai đoạn mà nó là kết quả của sự phát huy tính năng động chủ quan của các quốc gia đi sau thông qua vai trò của Nhà nước, vận dụng mọi tiềm năng quốc gia tiếp nhận các kinh nghiệm và thành quả của các nước tiên tiến đi trước để rút ngắn được về mặt thời gian các quá trình phát triển kinh tế thị trường. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế – xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy mô hình cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế định hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản sau: Thứ nhất: về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất còn cơ chế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quôc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Thứ hai: về tính chất giai cấp của Nhà nước và mục đích quản lý Nhà nước. Trong cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của Nhà nước luôn luôn mang tính chất tư sầnv trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Còn trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, thì sự can thiệp của Nhà nước XHCN nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ ba: Về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó được thể hiện sâu sắc hơn so với cơ chế vận hành trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thứ tư: về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển với công bằng xã hội. Trong sự phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dạo sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ chủ nghĩa tư bản. Còn trong nền kinh tế hàng hoá định hướng XHCN: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, ở việc tạo điều kiện chi mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”. Thứ năm: Về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Do đó đặt ra cho kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau đây: Một là, kết hợp vấn đè lợi nhuận với vấn đề xã hội. Hai là, kết hợp chặt chẽ các nguyên tắc phân phối của XHCN và nguyên tắc của kinh tế hàng hoá. Ba là, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách giàu nghèo; mặt khác, phải có chinh sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của người giàu người nghèo và của toàn xã hội. Trên đây là sự khác biệt căn bản và cũng chính là những mặt tiến bộ hơn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN so với cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa từ đó chúng ta rút ra nhận định rằng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một con đường đúng đắn và tiến bộ. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Sự cần thiết khách quan phải chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN Thời kỳ nền kinh tế theo lối tập trung quan liêu bao cấp Xây dựng XHCN với xuất phát điẻm thấp, từ nột nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu, hậu quả của chiến tranh tàn phá nặng nề trên phạm vi cả nước khắc phục được. Mặt khác ta mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ chế quản lý kinh tế theo lối tập trung quan liêu, bao cấp, nóng vội trong cải tạo XHCN. Những sai lầm này đã gây ra nhiều hậu quả và làm cho nền kinh tế nước ta phát triển chậm chạp và lâm vào cuộc khủng hoảng, làm cho nền kinh tế nước ta trong một thời gian dài phát triển trì trệ. Bên cạnh những khó khăn trên, tình hình quốc tế phức tạp: Khủng hoảng dẫn đến sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, cho Đảng ta thấy rõ mô hình CNXH kiểu cũ không còn phù hợp. Mô hình đó cần thay đổi cho phù hợp với nhu cầu khách quan, nhu cầu cần phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa sự đổ vỡ, tan rã này là nước ta mất thị trường lớn, mất nguồn vốn vay, đòi hỏi phải tìm một giải pháp mới, khắc phục những khó khăn, ách tắc cho sự phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Đổi mới hợp tác mở rộng để phát triển kinh tế–xã hội nhưng không đổi hướng, đổi đường. Điều này thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định của Đảng ta. Đảng không bối rối trước khó khăn mà bình tĩnh tiến hành đổi mới trên cơ sở lý luận, thực tiễn đã phân tích ở trên, khắc phục những sai lầm, yếu kém do cơ mô hình và chế cũ để lại nhằm thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển, từng bước ra khỏi khó khăn, khủng hoảng. Chính vì vậy “ nhiệm vụ quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn nhất mà các nền kinh tế chuyển đổi phải giải quyết có thể nhanh chóng trở thành kinh tế thị trường là xoá bỏ bao cấp. Tôi cho rằng xoá bỏ bao cấp là bài thuốc thử thành công của nền kinh tế chuyển đổi ”.(Thời đại mới -Tạp chí nghiên cứu và thảo luận /Số 6-Tháng 11/2005) Những điều kiện, cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12-1986 đã thấy rõ tình thế kinh tế -xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn. Đại hội đã thẳng thắn cho rằng: “ Trong nhiều năm qua, ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất -kĩ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế”. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, như Đại hội nhấn mạnh, là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan: “ Trong lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thớc lý luận và vận dụng các quy luật hoạt động trong thời kì quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý vận chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế ”. Chính vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan và nó dựa trên các điều kiện, cơ sở khách quan sau: Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá quá trình phát triển nền kinh tế thị trường nó chẳng những không mất đi mà ngày càng được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Lê-nin cho rằng: “ Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy, có thị trường”. Điều đó được thể hiện trong nền kinh tế ngày càng ngành nghề mới ra đời và phát triển. Nó thể hiện ở tính đa dạng, phong phú và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường. Mặt khác những ngành nghề truyền thống bị mai một đi do cơ chế cũ thì nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm ngành nghề truyền thống được đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới và được người tiêu dùng đánh giá cao. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Nếu như phân công lao động là điều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hàng hoá mới là điều kiện cần thì Mác khẳng định rằng điều kiện đủ của sản xuất hàng hoá là: “ Những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau”. Trong quan hệ kinh tế đặc bịêt là phân công lao động quốc tế đang phát triển cho nên hàng hoá đưa ra tiêu thụ trên thị trường thế giới và trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Do đó quan hệ hàng hoá- tiền tệ là rất cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, về trình độ kĩ thuật -công nghệ, trình độ tổ chức quản lý. Như vậy, khi kinh tế hàng hoá ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan, thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ được. Và cũng chính những điều kiện, cơ sở khách quan đó là tiền đề để nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và đó là một tất yếu khách quan không thể phủ nhận được. Do đó tính tất yếu khách quan xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Từ những điều kiện cơ sở khách quan đó thì việc nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cũng là một tất yếu khách quan. Thực trạng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay Những thành tựu Nền kinh tế tăng trưởng liên tụcN, nhiều năm có tốc độ cao. Trong suốt thời kì đổi mới đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục. Nó được thể hiện qua bảng số liệu sau: (%) 16 15 14 13 12 11 10 9 8 7 6 5 4 3 2 1 0 1986-1990 1991-1995 1996-2000 2000 2001 2002(*) -- GDP -- khu vùc I -- khu vùc III -- khu vùc II 6,08 3,7 11,1 12 10,6 10 14,2 14,5 8,8 5,75 5,57 6,13 7 8,18 6,94 6,79 6,84 3,9 4,09 4,3 4,0 3,7 5,4 Nguồn: Tổng cục Thống kê, Động thái và thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam qua 10 năm đổi mới, Hà Nội, 1996; Tình hình kinh tế –xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000, Hà Nội, 2001.(*) Số ước tính, Thời báo kinh tế Việt Nam số 2 ngày 3/1/2003. Trong những năm đầu thập kỉ 90, nền kinh tế nước ta tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh điểm cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991-1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiêu chỉ tiêu chủ yếu của kế họach này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã nhận định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế –xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Tất cả các mục tiêu kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm1996 -2000 và chiến lược 10 năm1991 -2000 đều đạt được vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này bình quân tăng 7,56%. Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một phần để tích luỹ (1991: 10.1%; năm 1995:20%; năm 2000:27% GDP). Sau dây là thành tựu một số ngành: + Nông nghiệp: phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản. Thành tựu quan trọng nhất và nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương thực quốc gia. Sản lượng lương thực tăng nhanh: từ 21, 5 triệu tấn(1990) lên 27, 5 triệu tấn(1995) và 34, 5 triệu tấn(2000) và gần 36 triệu tấn (2002) bình quân mỗi năm tăng 1, 4 triệu tấn.Do đó Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trước năm 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Những chuyển biến trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá. Do đó tổng giá trị nông sản xuất khẩu đã chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá đã hình thành gắn với thị trường quốc tế. + Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ hai số. Bình quân thời kì 1991-1995 tăng 13,7%, thời kì 1996-2000 tăng 13,2%. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mà còn xuất khẩu. Thời kì này ta đã hoàn thành một số công trình lớn: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Yaly, đường dây 500 KV Bắc -Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ… + Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. + Hoạt động thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc. Cơ chế cung cấp theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ thay vào đó là sự tự do lưu thông, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện. * Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. + Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục, nhưng tỷ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỷ trọng khu vực II (gồm công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đó là dấu hiệu của một nền kinh tế đang phát triển theo xu thế chung của sự phát triển trên toàn thế giới. Đây cũng là một thành tựu lớn của nền kinh tế nước ta sau khi thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nó được thể hiện qua bảng số liệu sau: (%) 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0 1986 1990 1995 2000 2001(*) 2002(**) Khu vùc I Khu vùc II Khu vùc III 34,7 31,8 26,3 23,3 22,4 21,6 26,8 25,2 29,9 35,4 36,6 38,8 38,5 43 43,8 41,3 41 41,1 Cơ cấu GDP theo các khu vực Nguồn: Tổng cục Thống kê, niên giám thống kê (qua các năm). (*)Số sơ bộ.S (**)Số ước tínhS, thời báo kinh tế Việt Nam số 2 ngày 3/1/2003 + Cơ cấu thành phần kinh tế: Các thành phần kinh tế trong GDP cũng đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường. Doanh nghiệp Nhà nước sắp xếp lại để hoạt động có hiệu quả hơn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh. + Cơ cấu vùng kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền: Bắc, Trung, Nam và các vùng kinh tế đầu tư cho sự phát triển chung của cả nước. * Cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành: Nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng một bước nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong toàn bộ biện pháp đổi mới cơ chế quản lý, cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang cơ chế giá thị trường có vị trí trung tâm. Tuy nhiên, cơ chế thị trường ở nước ta vẫn còn đang ở giai đoạn sơ khai và chưa đồng bộ. * Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát: Trong những năm 1986-1988, lạm phát đã tăng tới ba con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Từ 1989, lạm phát được chặn lại ở mức 2 con số. Năm 1986: 774,7%; năm 1990:67,4%; năm1995: 12,7%; năm1997: 3,7%; năm 1999: 0,1%; trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. * Kinh tế đối ngoại của nước ta được phát triển nhanh, mở rộng về quy mô, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá thị trường. Quan hệ đối ngoại nước ta càng được mở rộng. Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận, ngày 11/7/1995, Mỹ tuyên bố bình thường hoá quan hệ và ngày 12/7/1995 đã thiết lập quan hệ kinh tế với Việt Nam. Ngày 17/7/1995 nước ta và liên minh Châu Âu đã kí hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học -kĩ thuật. Ngày 28/7/1995, Việt Nam ra nhập ASEAN. Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hằng năm trên 20%. Nhập siêu đã giảm từ 3, 8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 900 triệu USD (2000) và 1, 135 tỷ(2001). Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt dầu từ năm1988, với 37 dự án và 371 triệu USD, vốn thực hiện khoảng 18, 9 USD. Do đó giúp giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp. * Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Số lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng nhanh. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới. GDP bình quân đầu người đạt gần 400 USD /năm. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt 10%, số hộ nghèo giảm xuống, từ 55%(1989) xuống còn 11,4%(2000).Cùng với đời sống vật chất thì đời sống tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên đáng kể. Những thành tựu kinh tếN -xã hội đã đạt được trên đây là kết quả của đường, lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó cũng là kết quả của sự phù hợp ý chí Đảng và lòng dân. Những thành tựu đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà n ước và chế độ ta. Những khó khăn tồn tại * Trình độ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Do các nguyên nhân sau: + Cơ sở vật chất -kĩ thuật còn ở trình độ thấp, nhiều ngành kinh tế máy móc quá cũ kĩ lạc hậu. + Kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc còn lạc hậu, kém phát triển làm cho các địa phương vùng kinh tế, miền bị chia cắt tách biệt nhau cho nên ảnh hưởng đếnviệc khai thác mọi tiềm năng của mọi địa phương, thành phần kinh tế. + Phân công lao động kém phát triển, chuyển cơ cấu kinh tế chậm, chưa thoát khỏi nền nông nghiệp nhỏ. + Khái niệm cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài còn kém. * Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Cụ thể là: + Thị trường hàng hoá dịch vụ: đã phát triển nhưng còn ở mức hạn hẹp, có nhiều hiện tượng tiêu cực trong thị trường này: hàng giả, hàng nhái, nhập lậu…làm rối loạn trong lưu thông hàng hoá. +Thị trường hàng hoá sức lao động: cũng mới được phát triển như một số trung tâm giới thiệu việc làm, cơ sở xuất khẩu lao động tuy mới ra đời nhưng có nhiều bất cập có nhiều hiện tượng nảy sinh khủng hoảng về lao động. + Thị trường tiền tệ vốn đã ra đời và có nhiều tiến bộ nhưng còn nhiều trắc trở: bên thừa vốn, bên thiếu vốn nhưng cũng không vay được do thủ tục quy định. + Thị trường chứng khoán: đã ra đời nhưng chưa có nhiều hàng hoá để mua bán trên thị trường mới có ít doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia thị trường này. * Kinh tế thị trường nước ta có nhiều thành phần kinh tế tham gia do đó có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại; tồn tại trong mối quan hệ đan xen tác động lẫn nhau nhưng sản xuất hàng hoá nhỏ còn là phổ biến. * Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền với mở rộng kinh tế đối ngoại hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong nhiều hoàn cảnh trìng độ kinh tế ở nước ta thấp rất xa so với tất cả các nước khác. * Quản lý nền kinh tế của Nhà nước còn yếu kém: Đại hội VIII đánh giá: “Hệ thống pháp luật cơ chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán thực hiện chưa nghiêm, công tác quản lý tài chính ngân hàng giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch xây dựng quản lý đất đai còn yếu kém dinh dưỡng”. GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Thực hiện nhất quán chính sách nhiều kinh tế nhiều thành phần Đây là điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, huy động những tiềm năng to lớn còn bị phân tán của xã hội vào phát triển kinh tế. Để thực hiện tốt chính sách này, một mặt phải thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể để khẳng định sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chính sách lâu dài, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, để tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài; mặt khác, phải kiên quyết xử lý, ngăn chặn mọi hành vi lừa đảo, buôn lậu làm hàng giả, …nhằm bảo vệ việc sản xuất , kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp. Theo tinh thần đó tất cả các thánh phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Trong những năm tới đây cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Đẩy mạnh việc đổi mới kĩ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng, trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng trong đó hợp tác xã làm nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ các hợp tác xã về đào tạo cán bộP, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11920.doc
Tài liệu liên quan