Đề tài Xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát triển đô thị bền vững

1. Khái niệm về đô thị: 2

1.1 Khái niệm. 2

1.2. Một số vấn đề về đô thị: 2

1.3. Phân loại đô thị ở Việt Nam 4

2. Khái niệm đô thị bền vững. 5

3. Tiêu chí của một đô thị bền vững. 6

3.1. Khả năng cạnh tranh của một đô thị: 7

3.2 Quản lý đô thị tốt - điều kiện cần cho phát triển bền vững: 8

3.3. Một đô thị lành mạnh. 10

3.4. Tài chính lành mạnh 11

4. Vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển đô thị bền vững. 12

5. Cơ sở để phát triển bền vững - vấn đề quy hoạch đô thị: 12

II. Thực trạng 13

1. Khả năng cạnh tranh của Hà nội 13

1.1. Sự tăng trưởng kinh tế của Hà Nội từ năm 1996 đến nay 13

1.2. Vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội 17

1.3. Mạng lưới thông tin liên lạc của Hà Nội 18

1.4. Giáo dục - đào tạo và lao động của Hà nội 18

2. Quản lý tốt. 20

2.1 Nguồn nhân lực Hà nội. 20

2.2. Các vấn đề về quản lý xã hội. 21

3. Khu định cư lành mạnh. 23

3.1. Môi trường 23

3.2. Y tế 24

3.3. Dân số. 24

3.4. Các vấn đề xã hội. 25

4. Công tác quản lý đô thị và tình hình xây dựng, thực hiện quy hoạch tổng thể của Hà Nội. 26

III. Quan điểm, nguyên tắc chính và một số giải pháp để thực hiện phát triển bền vững đô thị Hà nội. 28

1. Quan điểm: 28

2. Nguyên tắc và một số giải pháp để đạt được phát triển bền vững: 28

 

doc33 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và quản lý đô thị Hà nội theo hướng phát triển đô thị bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình phát triển dưới sự điều tiết, chỉ đạo của chính quyền địa phương thì quá trình phát triển đô thị mới bền vững được. Việc tận dụng lợi thế của thành phố về các mô hình định cư thay thế yêu cầu quá trình ra quyết định, chiến lược và hành động của chính quyền địa phương phải thực tế chứ không phải là lý thuyết hỗ trợ cho phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi phải có sự quản lý tốt của chính quyền địa phương về phát triển bền vững. Những trách nhiệm quan trọng để đạt được định cư bền vững là: Sử dụng tài nguyên bền vững bao gồm giảm chất thải và sử dụng năng lượng có hiệu quả. Điều tiết cung cầu đất đai để sử dụng; Cung cấp cơ sở hạ tầng phù hợp; Thu hút đầu tư phù hợp; Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng; 5. Cơ sở để phát triển bền vững - vấn đề quy hoạch đô thị: Nếu như quản lý phát triển đô thị để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế một cách bền vững thì quy hoạch đô thị giúp cho việc quản lý của đô thị đó trở nên dễ dàng hơn. Quy hoạch đô thị quan tâm chủ yếu đến việc chuẩn bị cho tương lai. Đây là lý do nói quy hoạch là cơ sở để phát triển một đô thị bền vững. Mục tiêu của quy hoạch đô thị là nhằm có được một nền kinh tế tốt hơn, tiện nghi đầy đủ thuận tiện và tăng cường phúc lợi xã hội. Nhờ đó mà đô thị có thể tiền để để phát triển bền vững. Để đảm bảo được điều đó, việc quy hoạch xây dựng đô thị có 7 yếu tố về nguyên tắc cần phải được đảm bảo: + Hệ thống đường phố và cách bố trí đường phố hợp lý; + Cây xanh, công viên và các khu vui chơi giải trí thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá cộng đồng. + Vị trí các công trình công cộng. + Các giải phan cách dùng đúng với quy định của quốc tế. + Phân chia đô thị ra các quận huyện theo địa giới hành chính. + Các lộ trình phục vụ cho lợi ích công cộng. + Các nhà ga, bến cảng, sân bay, quảng trường thích hợp, đủ tiện nghi và hiện đại. Trong quá trình quy hoạch xây dựng cần mở rộng phạm vi quy hoạch bao gồm các yếu tố như: tái phát triển, đổi mới đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Thông thường, quy hoạch chung cho đô thị được đặt trong các kế hoạch 15 -20 năm hoặc lâu hơn nữa về các yếu tố vật chất quan trọng vì vậy, quy hoạch chung có giá trị vô cùng lớn đối với mỗi đô thị; nó không chỉ hướng dẫn mà còn là điểm khởi đầu để chuẩn bị cho các cơ quan chính quyền đô thị tiến hành triển khai các dự án đầu tư. II. Thực trạng 1. Khả năng cạnh tranh của Hà nội 1.1. Sự tăng trưởng kinh tế của Hà Nội từ năm 1996 đến nay Thời kỳ 1996 - 2003, Hà Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Kinh tế ngày càng phát triển, tốc độ tăng GDP cả thời kỳ 96 - 2000 là 10.7%, trong 2 năm 2001 - 2002 là 10.8%/năm, đời sống dân cư được cải thiện, thu nhập đầu người tăng 3.2 lần so với năm 1990; cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển đổi tích cực sang công nghiệp - dịch vụ, trong đó GDP dịch vụ chiếm 58.0%, tỷ trọng ngành Công nghiệp mở rộng tăng từ 33% năm 1995 lên 38.5% năm 2000; tỷ trọng ngành nông - lâm - thuỷ sản giảm từ 5.4% xuông 3.5% trong cùng thời điểm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời kỳ 96 - 2000 tăng cao gấp 1.5 lần so với mức tăng trưởng chung của cả nước, đưa tỷ trọng đóng góp vào GDP của cả nước từ 6.1% năm 1995 lên 7.3% năm 2000; và từ 33.9% lên 40% trong tổng GDP của vùng đồng bằng sông Hồng. Riêng 2 năm 2001 - 2003, tỷ trọng đóng của Hà Nội vào GDP cả năng tăng cao. Tốc độ tăng GDP cao gấp 1.6 - 1.7 lần mức tăng chung của toàn quốc. Bình quân hàng năm, Hà Nội đạt mức tăng GDP là 10.18% (xem biểu 1), giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18.8%; trong đó, năm 2001 tăng 24.3%. Đây là mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, cao hơn mức bình quân của giai đoạn 96 - 2000 (15.4%) và vượt chỉ tiêu kế hoạch 2001 - 2005 (14.5 - 15.5%/năm); sản xuất công nghiệp tăng cao ở tất cả các thành phần kinh tế với những ngành chủ lực là dệt may, sản xuất hoá chất, sản phẩm từ kim loại, thiết bị điện có dộng cơ và các phương tiện vận tải khác. Ngành dệt may với tỷ trọng 5.5%, tăng 14.9%; sản xuất trang phục chiếm tỷ trọng 5.6% tăng 30%/ năm; sản xuất hoá chât chiếm 4.7% tăng 21.4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại chiếm 4.5% tăng 27%; sản xuất máy móc, thiết bị điẹn chiếm 8.3% tăng 34.3%; sản xuất xe có động cơ chiếm 6.6% tăng 39.1%; sản xuất phương tiện vận tải khác chiếm 7.2% tăng 18.9%. Ngành sản xuất văn phòng tuy mới xuất hiện từ giữa năm 2002 nhưng đã có bước phát triển khá nhanh, đến nay đã chiếm tỷ trọng 9.2% trong giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Nhiều sản phẩm của công nghiệp thủ đô tiếp tục được cải tiến về chất lượng, chủng loại, mẫu mã... được thị trường tín nhiệm nên sản xuất tăng cao. Động cơ điện tăng 79.5% so với năm 2000, lắp ráp ô tô tăng 80.4%; lắp ráp xe máy tăng 131.6%; quạt điện tăng 41.9%; bóng đèn tăng 30.2%; sơn các loại tăng 49.9%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khối doanh nghiệp Nhà nước đạt nhịp độ ổn định và khá cao so với các thời kỳ trước (17.5% năm ? so với 10.1% bình quân giai đoạn 1996 - 2000), trong đó, công nghiệp TW tăng 17.4%; công nghiệp Nhà nước cũng đạt mức 13.1%. Khối kinh tế ngoài Nhà nước đạt tốc độ tăng bình quân 19.7%; trong đó, kinh tế hợp tác xã tăng 15.9%, doanh nghiệp tư nhân và kinh tế hỗ hợp tăng 36.7%; kinh tế hộ cá thể tăng 4.5%. ở khu vực này, từ năm 2001 đến nay đã có thêm 40 doanh nghiệp mới đi vào sản xuất. Bên cạnh đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ cũng tăng cao, đạt mức 12.2%; kim ngạch xuất khẩu tăng 8.6%. Mặc dù bị ảnh hưởng của sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ và đặc biệt là bệnh dịch SARS đầu năm 2003, nhưng ngành du lịch vẫn vững vàng phát triển, đưa lượng khách du lịch tăng 16.8%/ năm; trong đó, khách quốc tế tăng 34.1% (gần 1.6 triệu lượt khách nước ngoài), do đó, doanh thu du lịch tăng 15.8%, doanh thu ngaọi tệ tăng 15%. Tính chung 2 năm 2001 - 2002, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 39.3 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm đạt 19.7 nghìn tỷ đồng, tăng 42.7% so với mức bình quân thời kỳ 1996 - 2000. Với mức tăng trưởng trên, Hà Nội đang ngày càng đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đến nay, mặc dù chỉ chiếm 3.6% về dân số và 2.8% diện tích lãnh thổ quốc gia, hàng năm, Hà Nội đóng góp tới 7.8% vào GDP cả nước; 9.4% giá trị sản xuất; 10% giá trị kim ngạch xuất khẩu; 9.6% tổng mức bán lẻ hàng hoá; 11.7% vốn đầu tư xã hội. Đến năm 2002; GDP bình quân đầu người Hà Nội đạt14.2 triệu đồng, cao gấp 2 lần mức bình quân chung của cả nước. Hà Nội đã biết tận dụng và phát huy được những lợi thể về mặt địa lý, có vai trò là đầu mối giao thương của cả khu vực phía Bắc, cũng như cả nước; là thị trường có mức tiêu thụ cao, có khả năng tiếp cận và vươn ra thị trường quốc tế. Các ngành thương mại dịch vụ tiếp tục phát triển. Thương mại, dịch vụ là lĩnh vưc thu hút khoảng 1/4 số doanh nghiệp Nhà nước, gần 2/3 số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 3/5 số hộ kinh doanh cá thể hoạt động với 40 siêu thị và trung tâm thương mại; 270 cửa hàng tự chọn và 600 văn phòng đại diện thương mại của nước ngoài. Trong 2 năm trở lại đây, có thêm 35 dự án đầu tư nước ngoài được thành lập (chiếm 1/3 số dự án mới) tập trung vào các ngành dịch vụ trình độ cao như tư vấn tài chính, sản xuất phần mềm máy tính, thiết kế, tạo mẫu, giáo dục và đầo tạo.... Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng trên 10%/ năm; chiếm 9.6% tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội của cả nước. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng bình quân 10.2%/năm; 6 tháng đầu năm 2003, tăng 8.2% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân đạt 9.2%/ năm; trong đó một số ngành lớn như thương nghiệp tăng 11.1%, khách sạn, nhà hàng tăng 9.8%, vận tải đạt 11.9%, bưu điện đạt 13% du lịch đạt 9.9%/năm. Từ năm 2001 đến nay, hình thức kinh doanh, phục vụ chất lượng cao được chú trọng với việc xây dựng cá tuyến phố văn minh thương mại và hệ thống các cửa hàng tự chon, siêu thị, trung tâm thương mại. Hoạt động thương mại gắn liền với giá cả thị trường. Nếu như trước năm 2001, giá cả không tăng, thậm chí giảm, thì sang năm 2001, chỉ số giá tăng 0.66%, năm 2002 tăng 5.42%. Điều này có tác dụng giúp người sản xuất bù đắp chi phí, đồng thời mức tăng này vừa phải, không gây xáo động thị trường và ảnh hưởng đến đời sống người dân. Mặc dù Hà Nội đã trải qua các đợt tăng giá cao của vàng, USD, vật liệu xây dựng, phân đạm, sắt thép, thuốc tân dược và xăng dầu; song đã được dự kiến trước hoặc được kiểm soát kịp thời nên không có nhiều tác động xấu. Quan hệ thương mại trong nước và quốc tế được mở rộng và ngày càng phát triển. Với kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 1.6 tỷ USD mỗi năm; đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội đã tăng 6.2 lần so với năm 1990 và chiếm gần 10% kim ngạch xuất khẩu cả nước, đạt mức kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người là 560 USD/người. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng thay đổi dần: nhóm hàng nông sản chiếm tỷ trọng 32.2% năm 2000 đã giảm xuống 31.8% năm 2001; hàng dệt may tăng từ 24.1% lên 25.8% cùng thời điểm trên. Riêng hàng điện tử chỉ tăng 1.5ổctng những năm trước thì đến thời kỳ năm 2001 - 2002 với tỷ trọng giảm từ 6.5% còn 5.6% do thị trường của mặt hàng này có mức tiêu thụ giảm nhiều so với trước. Kim ngạch nhập khẩu đạt trung bình 4.3 tỷ USD mỗi năm trong đó nhập máy móc thiết bị chiếm 16.5%, nguyên liệu vật tư sản xuất chiếm 30.8%, hàng tiêu dùng chiếm 21.6% và xăng dầu chiếm 31.1%. Hiện nay, Hà Nội có khoảng 2000 doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, trong đó 27 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ 10 - 90 triêu USD mối năm, 63 doanh nghiệp xuất từ 1 - 10 triệu USD. Doanh nghiệp Thủ đô đã có chỗ đứng trên các thị trường lớn như khối ASEAN (chiếm tỷ trọng 7.5% trong kim ngạch xuất khẩu), Nhật Bản (4.4%), Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan và Hồng Kông chiếm 14.9%), EU (14.1%) và thị trường Bắc Mỹ. Trong đó, một số thị trường mới tăng khá như Mỹ tăng trên 2 lần. Đây là kết quả của đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của chúng ta từ năm 1986 đến nay. Hà Nội - một đầu mối giao thông quan trọng nhất miền Bắc Việt Nam; nơi quy tụ đầy đủ các hình thức giao thông như: đường bộ, đường sông; đường sắt; đường hàng không; và cũng là nơi hội tụ các tuyến đường giao thông trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện đáng kể trong hệ thống giao thông đường bộ. Giai đoạn 1996 - 2000 đã triển khai xây dựng được 61 km đường, duy tu, duy trì và cải tạo nâng cấp nhiều tuyến đường cũ, đưa tỷ lệ đường được rải thảm lên hơn 90% ở nội thành và hơn 50 % ở ngoại thành. Nhiều nút giao thông quan trọng được mở rộng; hệ thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông hiện đại được lắp đặt tại hơn 100 nút đã làm giảm tình trạng ùn tắc, lộn xộn và mất an toàn giao thông. Với sự đầu tư trên và vị trí của một thủ đô, Hà Nội đã, đang và sẽ trở thành đầu mối trung chuyển hàng hoá và hành khách của cả khu vực. Bình quân năm thời kỳ 2001 - 2002; ngành vận tải (không kể đường sắt và hàng không) đã thực hiện chuyên chở 13 triệu tấn hàng hoá và 50 triệu lượt hành khách. Với số lượng hàng hoá luân chuyển tăng 15.2 % và hành khách tăng 26.2 % năm, hoạt động vận tải ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại, giao thương, hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu suất phục vụ của hoạt động vận tải, Thành phố đã thành lập Công ty Vân chuyển hành khách và dịch vụ (tháng 7/2001) trên cơ sở sáp nhập 4 đơn vị vận tải hành khách (Công ty xe buýt, Công ty vận chuyển hành khách phía Nam, Công ty xe du lịch và công ty xe điện), đầu tư, tăng cườnghệ thống xe buýt với lộ trình gần 600 km gồm 32 tuyến tiêu chuẩn, tuyến dài nhất là 37 km với 450 đầu xe buýt. Hai năm 2002 - 2003, hoạt động vận chuyển hành khách địa phương tăng mạnh (lượng khách năm 2002 cao gấp 2 lần so với năm 2001, 6 tháng đầu năm 2003, cao gấp 4 lần cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, mạng lưới giao thông đường bộ trong nội thành còn chưa tăng. Mật độ đường còn thấp, phố không đồng đều, cấu trúc hỗn hợp và thiếu sự liên thông. Quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật không đồng nhất. Trong giờ cao điểm, trên các đường trục, hệ số sử dụng lòng đường vượt quá từ 1 đến 3 lần so với tiêu chuẩn. Cùng với nó là chất lượng đường xấu, lòng đường thường quá hẹp và các giao cắt đồng mức quá gần nhau đã dẫn đến hiện tượng tắc nghẽn giao thông ở các giờ cao điểm gây mất an toàn giao thông. Mạng lưới đường sắt trên địa bàn Hà Nội có hình bán nguyệt với tổng chiều dài là 90 km với 5 ga đường sắt lớn là: ga Hà Nội, ga Giáp Bát, ga Văn Điển, ga Gia Lâm và ga Yên Viên. Hiện nay, Hà Nội có cơ cấu phương tiện đi lại là xe đạp (chiếm 31.6%), xe máy (chiếm 60.3%), xe ô tô con (2.8%), xe buýt (chiếm 1.5%) và các loại phương tiện khác chiếm 1.2%. Hoạt động bưu chính viễn thông phát triển nhanh, hàng năm đảm nhận 5.6 triệu bưu phẩm, 194 nghìn bưu kiện (đến và đi), phát hành 26.8 triệu tờ báo và thực hiện 104 triệu cuộc gọi đường dài. Doanh thu của ngành hàng năm đạt 2157 tỷ đồng, bình quân tăng20.5% năm, trong đó, thu bưu chính đạt 88 tỷ đồng, tăng 12.6%/ năm; thu viễn thông đạt 1911 tỷ đồng, tăng 22.4%. Đến cuối năm 2002, tỷ lệ máy điện thoại (có thuê bao) bình quân 100 dân đạt 25.4 máy, vượt kế hoạch đặt ra (đến năm 2005 đạt 25 máy trên 100 dân). Số đầu máy điẹn thoại cố định và di động (ca thuê bao và tính cước cuộc gọi) đến giữa năm 2003 đạt 926 nghìn chiếc. Để đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc đa dạng và phù hợp với thu nhập của các tầng lớp dân cư, ngoài điện thoại cố định và hai hệ thống thông tin di động được lắp đặt từ trước, từ năm 2003, Hà Nội còn triển khai thêm mạng điện thoại nội thị. Cùng với sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ, dù trong điều kiện diện tích canh tác bị thu hẹp dần, ngành nông nghiệp Thủ đô nhiều năm qua vẫn không ngừng phát triển và có những bước chuyển biến về cơ cấu sản phẩm và giá trị sản xuất. Hà Nội đã và đang tiếp tục thực hiện theo sự chỉ đạo và các định hướng phát triển nông lâm nghiệp là chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng trọng chăn nuôi, thuỷ sản, từ trồng trọt chuyển sang chăn nuôi, từ các cây, con truyền thống sang các giống cây, con có chất lượng và giá trị cao. Quán triệt mục tiêu phát triển, Hà Nội đã tăng tốc độ giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp bình quân đạt 2.5%/năm (thời kỳ 2001 - 2003), trong đó chăn nuôi đạt 7.26%/năm, ngành thuỷ sản là 7.54%/năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt đã giảm từ trên 60% (1996 - 2000) xuống còn 55.6% (năm 2002), ngành chăn nuôi tăng từ 34.9% lên 41.3%, ngành thuỷ sản tăng từ 4.7% lên 5.1%. Qua 2 năm, diện tích đất canh tác giảm 900 ha, diện tích lúa gieo trồng giảm hơn 2000 ha, diện tích ngô giảm 2300 ha, cây sắn giảm 100 ha. Trong khi đó, diện tích rau sạch tăng 810 ha (tăng 2.2 lần), diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 760 ha, hoa các loại tăng 100 ha, cây lâu năm tăng 300 ha. Trong chăn nuôi, đàn trâu so với năm 2000 đã giảm 2500 con (tương đương 17%), thay vào đó, đàn lợn thịt tăng 60 nghìn con (tăng 19%)... Từ thế độc canh, các sản phẩm như cá chim trắng, tôm càng xanh, rô phi đơn tính được nuôi thí điểm ở 1 huyện, đến nay đã mở rộng ra khắp 5 huyện ngoại thành. Nhờ đó, hiệu quả sản xuất nông nghiệp được cải thiện, giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản trên 1 ha đất tăng 7.1% qua hai năm, đạt mức 40 triệu đồng/ha (giá hiện hành). Sự chuyển biến về cơ cấu cây, con tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhân dân Thủ đô, đồng thời góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập của nông dân ngoại thành. 1.2. Vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội Thủ đô. Sau một thời kỳ dài sụt giảm lớn do những bất ổn về tài chính, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp và do sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư trong khu vực, nguồn vốn FDI thực hiện đã phần nào phục hồi, với mức tăng 26.6%/năm trong 2 năm 2001 - 2002 và chiếm 11.4% trong tổng vốn đầu tư xã hội. Từ đầu năm 2001 đến nay đã có thêm121 dự án mới được cấp giấy phép thành lập. Nhiều dự án lớn hoạt động khá hiệu quả, có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh đã bổ sung vốn đầu tư như hợp đồng hợp tác kinh doanh thông tin di động (bổ sung 100 triệu USD), công ty đèn hình Orion Hanel (50.8 triệu USD), công ty Khu công nghiệp Thăng Long (23.6 triệu USD), công ty Sứ vệ sinh Inax (10 triệu USD)... Tính đến cuối năm 2002, Hà Nội đã thu hút được 546 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đầu tư đăng ký đạt 8.86 tỷ USD. Hà Nội đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với 42 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung và hàng chục khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây dựng nhiều nhà máy lớn hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, tin học, viễn thông, điện tử, chế tạo thép, xây dựng... Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước mỗi năm đầu tư thêm khoảng 4.8 nghìn tỷ đồng, bằng 1/4 tổng vốn đầu tư trên địa bàn. Tỷ trọng của vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đã tăng từ 20.2% thời kỳ 1996 - 2000 lên đến 23.6% trong hai năm 2001 - 2002. Trong phần vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm 2/3, vốn do dân đầu tư chiếm 1/3. Hai năm vừa qua, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng bình quân 21.5%/năm, trong đó năm 2001 tăng 34.3%. Với trên 4000 doanh nghiệp mới thành lập mỗi năm, mặc dù không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tồn tài, thành công và tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường, song khu vực này đang dần khẳng định vị trí của mình trong thời gian tới. Nhờ việc thu hút, hấp dẫn được nguồn vốn đầu tư nước ngoài, cho đến cuối năm 2002, Hà Nội đã tạo thêm công ăn, việc làm cho hơn 24.000 lao động, góp phần giải quyết 1 vấn đề nan giải của Thủ đô Hà Nội. Vốn đầu tư tăng nhanh nhưng với tốc độ giảm dần. Thành phố vẫn chưa khai thác hết tiếm năng huy động vốn, hiệu quả đầu tư còn thấp. Nừu quan sát liên tục trong 3 năm trở lại đây thì đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có tốc độ giảm dần rất rõ do sự cạnh tranh khá gay gắt của các địa bàn lân cận như Vĩnh Phúc, Hải Dương và Hưng Yên. Nguyên nhân là ở các tỉnh này, giá thuê đất, chi phí nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào, hâp dẫn với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Vốn FDI vẫn chưa hoàn toàn hồi phục so với mức năm 1996. Vốn FDI thực hiện năm 2002 mới đạt 2.5 nghìn tỷ đồng, bằng mức của 10 năm trước đó và mới bằng 1/3 so với những năm 1996 - 1998. Trong tổng số gần 600 doanh nghiệp FDI được cấp phép, đến nay đã có 150 dự án hết hạn, tự giải thể hoặc bị rút giấy phép hoạt động, khoảng 150 dự án khác chưa triển khai. Chỉ có khoảng 300 đơn vị đã đi vào hoạt động, nhưng sản xuất tăng giảm thất thường. Vốn đầu tư đăng ký của các dự án còn hiệu lực lên đến 7.3 tỷ USD, nhưng số vốn thực hiện của toàn bộ các dự án từ trước đến nay mới đạt 2.9 tỷ USD. Vì vậy, bên cạnh các biện pháp tích cực đang thực hiện như cải tiến quy trình thẩm định, rút ngắn thời gian cấp phép nhằm xúc tiến, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thì Thành phố phải có những biện pháp chủ động hơn nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án, đẩy mạnh hơn nữa tiến độ giải ngân vốn FDI. 1.3. Mạng lưới thông tin liên lạc của Hà Nội Trong 10 năm qua (1991 - 2000), nhờ thực hiện kế hoạch tăng tốc của ngành Bưu điện, Hà Nội đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực này. Mạng lưới viễn thông không ngừng được mở rộng và nâng cấp đạt tiêu chuẩn tiên tiến. Năm 2000, Hà Nội có 540.000 cửa thuê bao (có 20 tổng đài trung tâm và 130 tổng đài vệ tinh). Trong số đó, máy điện thoại phổ thông đạt 1.400 máy Cardphone, 50.000 máy nhắn tin, 15.000 thuê bao dịch vụ Internet và 15.000 đường truyền số liệu riêng. Mật độ điện thoại đạt 18 máy/100 dân; tăng gấp 18 lần so với năm 1991 (1 máy/100 dân). Cùng với việc nâng cấp, hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc, Hà Nội không những tăng các dịch vụ gia tăng phục vụ các nhu cầu thông tin liên lạc của Thủ đô mà còn triển khai các dịch vụ điện thoại nội hạt, nội tỉnh, liên tỉnh, quốc tế và nhiều dịch vụ khác. Đến năm 2003, ngoài hệ thống thuê bao cố định sẵn có, hệ thống bưu chính viễn thông Hà Nội đã xây dựng được thêm mạng di động nội thị và 2 mạng thông tin di động. Số đầu máy điện thoại cố định và di động đến giữa năm 2003, ước đạt 926 nghìn chiếc. Tuy nhiên, bưu điện Hà Nội chưa thực sự phát triển một cách mạnh mẽ. Một trong những nguyên nhân chính làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ngành Bưu điện chính là chưa có một quy hoạch phát triển đồng bộ với quy hoạch phat triển chung của thành phố và ngành bưu điện Hà Nội chưa được thành phố cấp đất xây dựng các đài trạm chuyển mạch điện thoại nên gặp khó khăn trong việc tạo, mở rộng năng lực phục vụ. Để có thể phát triển mạnh, đồng bộ và tránh lãng phí, ngành bưu điện Hà Nội cần phải có sự phối hợp với các ngành khác đồng thời xem xét cho phù hợp với quy định chung của thành phố. 1.4. Giáo dục - đào tạo và lao động của Hà nội Hà nội là nơi có tiềm năng khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất trong cả nước, có đội ngũ cán bộ giỏi thuộc nhiều lĩnh vữc then chốt, đủ năng lực để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh hoá Thủ đô. Thật vậy, chất lượng lao động của Hà nội là khá nhất trong cả nước hơn nữa người dân Hà Thành còn có nhiều nghề tinh sảo ở đỉnh cao của quốc gia. Hà Nội hiện nay đã phổ cập trung học cơ sở, có 85,96% số người tốt nghiệp từ THCS trở lên. Số người được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên là 42,26% trong khi đó cả nước chỉ có 13,3%. Số lao động có chứng chỉ ngoại ngữ chiếm 9,66%, trong đó tiếng anh chiếm 6,12%; có 8,97% số người biết vi tính, trong đó có 4,7% biết sử dụng thành thạo các phần mềm kế toán. Lao động có trình độ CNKT có bằng chiếm 10,1% so với nguồn lao động; trong đó ở thành thị chiếm 12,5% và ở nông thôn chiếm 6,4%. Lao động có trình độ THCN chiếm 8,6% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 12% và ở nông thôn là 3,4%. Lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 11,1% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 17,1% và ở nông thôn là 2,1%. Qua các số liệu trên cho thấy: lao động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật chủ yếu tập trung ở thành thị còn ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội Hà nội là nơi tập trung hầu hết các cơ quan trung ương về quản lý khoa học công nghệ, và phần lớn các viện nghiên cứu, các trường đại học. Hà nội hiện có 44 trường đại học và cao đẳng, 34 trường trung học chuyên nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 Viện nghiên cứu cơ bản và chuyên ngành (chiếm 86% tổng số các viện nghiên cứu trong cả nước). Như vậy, Hà nội là địa phương có lợi thế so sánh trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến quản lý chính quyền, trong nghiên cứu và các ngành công nghiệp sử dụng kỹ thuật cao. Nếu Hà nội biết tận dụng những lợi thế này để thực hiện chiến lược công nghiệp, hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế- xã hội thì sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh ngày càng tốt hơn các địa phương khác. Từ đó, Hà nội sẽ dễ dàng giải quyết các vấn đề bức xúc hiện nay như nạn thất nghiệp, vấn đề việc làm, vấn đề nghèo đói, các vấn đề về nhà ở, tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng lợi ích xã hội... Tuy nhiên để có thể khai thác được các lợi thế cạnh tranh này, Hà nội cần phải đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ và dịch vụ xã hội. 2. Quản lý tốt. 2.1 Nguồn nhân lực Hà nội. Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số. Năm 1990 nguồn lao động có 1.193.600 người, năm 1995 có 1.331.000 người, năm 1996 có 1.366.000 người, năm 1999 có 1.504.260 người. Hà Nội là một thành phố có dân số tương đối già so với các tỉnh trong cả nước. Năm 1999, số người dưới 15 tuổi chỉ chiếm 27,9% dân số toàn Thành phố. Bộ phận dân số trong độ tuổi lao động chiếm một phần lớn trong tổng dân số Hà Nội. Trong giai đoạn 1994-1999, số lượng lao động Hà Nội tăng nhanh. Năm 1995 tăng 33.000 người so với năm 1994 (tăng 2,54%), năm 1996 lượng lao động tăng 35.000 người so với năm 1995 (tăng 2,63%). Năm 1998, lao động Hà Nội có 1.441.000 người. Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng số người trong độ tuổi lao động tính tới 31/12/1998 là 1,441 triệu người, chiếm 56,15% tổng dân số Thành phố . Số người đến tuổi lao động năm 1999 tăng 45.100 người so với năm 1998 (tăng khoảng 2,94%). Mức tăng bình quân nguồn nhân lực Hà Nội giai đoạn 1994-1999 là 2,65%. Tính trung bình giai đoạn 1994-1999, hàng năm số lượng người đến tuổi lao động tăng khoảng 38.000 - 40.000 người. Trình độ văn hoá của người lao động cao, có 85,96% số người tốt nghiệp từ trung học cơ sở trở lên, riêng tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 45,3% (trong đó tỷ lệ này ở quận Thanh Xuân đạt 61,61%). Lớp học cao nhất đã qua bình quân cho 1 lao động của Hà Nội là 9,9 năm, riêng nội thành là 10,6 năm, ngoại thành là 9,1 năm . Lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 11,1% so với nguồn lao động, trong đó ở thành thị là 17,1% và ở nông thôn là 2,1%. Bảng Cơ cấu lao động Thủ đô chia theo trình độ văn hóa năm 1998* Cơ cấu chia theo trình độ văn hoá (%) Lớp học cao nhất đã qua bình q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV227.doc