Đề tài Xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển bền vững

MỤC LỤC.i

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH VÀ SƠ ĐỒ .vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .viii

LỜI MỞ ĐẦU.1

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU, XUẤT KHẨU

HÀNG DA GIẦY VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.3

I. XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ.

.3

1. Khái niệm xuất khẩu .3

2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế .4

3. Các hình thức xuất khẩu.5

II. XUẤT KHẨU HÀNG DA GIẦY VIỆT NAM .6

1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành da giầy Việt Nam .6

2. Xuất khẩu hàng da giầy và vai trò của xuất khẩu hàng da giầy trong nền kinh tế 8

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.9

1. Một số khái niệm .9

1.1. Tăng trưởng kinh tế.10

1.2. Phát triển kinh tế.10

1.3. Phát triển bền vững .11

2. Nội dung của phát triển bền vững.13

IV. XUẤT KHẨU BỀN VỮNG.14

1. Khái niệm xuất khẩu bền vững.14ii

2. Các tiêu chí đánh giá xuất khẩu bền vững .16

2.1. Các tiêu chí đánh giá tính ổn định và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu .16

2.2. Các tiêu chí về kinh tế .17

2.3. Các tiêu chí về xã hội .17

2.4. Các tiêu chí về môi trường .18

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DA GIẦY VIỆT NAM

THỰC HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.21

I. TÍNH ỔN ĐỊNH VÀ CHẤT LƢỢNG TĂNG TRƢỞNG XUẤT KHẨU DA

GIẦY.21

1. Quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu .21

2. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu da giầy.23

2.1. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu da giầy.23

2.2. Giá trị gia tăng xuất khẩu.31

2.3. Sức cạnh tranh và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.34

II. ĐÓNG GÓP CỦA XUẤT KHẨU DA GIẦY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ .36

1. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu cả nước .36

2. Sự cân đối trong xuất khẩu và nhập khẩu da giầy .39

III. TÍNH BỀN VỮNG VỀ XÃ HỘI.41

1. Xuất khẩu da giầy với việc làm và thu nhập .41

2. Xuất khẩu với vấn đề chất lượng và trình độ lao động.43

3. Xuất khẩu với việc đáp ứng các tiêu chuẩn xã hội, cải thiện điều kiện làm việc45

IV. TÍNH BỀN VỮNG VỀ MÔI TRƢỜNG .50

1. Xuất khẩu da giầy với việc duy trì và cải thiện nguồn nguyên liệu cao su, da cho

sản xuất .50iii

2. Thực trạng sử dụng hóa chất độc hại và công tác xử lý phế thải tại các doanh

nghiệp trong ngành.52

2.1. Hóa chất và phế thải độc hại trong quá trình thuộc da.52

2.2. Tình hình sử dụng hóa chất và công tác xử lý phế thải trong ngành .53

3. Xuất khẩu và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường .55

V. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU DA GIẦY VIỆT NAM THỰC

HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.59

1. Những kết quả đã đạt được.59

2. Những hạn chế .60

CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP XUẤT KHẨU HÀNG DA GIẦY NHẰM THỰC

HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.64

I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƢỚC ẢNH HƢỞNG ĐẾN XUẤT

KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG DA GIẦY VIỆT NAM.64

1. Dự báo xu hướng phát triển thị trường da giầy thế giới đến năm 2020 .64

1.1. Về tình hình tiêu thụ .64

1.2. Về xu hướng sản xuất, xuất nhập khẩu .65

2. Định hướng phát triển của ngành da giầy Việt Nam đến năm 2020 .66

2.1. Đối với công nghiệp thuộc da, sản xuất nguyên phụ liệu .68

2.2. Đối với ngành giầy, đồ da .69

2.3. Đối với lĩnh vực Khoa học – Công nghệ - Đào tạo .69

3. Những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững theo chương trình

nghị sự 21 của Việt Nam .70

3.1. Những mục tiêu cơ bản đối với phát triển bền vững ở Việt Nam .71

3.2. Những nguyên tắc cơ bản đối với phát triển bền vững ở Việt Nam.72

II. GIẢI PHÁP XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG DA GIẦY VIỆT

NAM.74iv

1. Giải pháp đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu da giầy cao và ổn định .74

1.1. Đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguyên, phụ liệu.74

1.2. Tăng cường đầu tư cho hoạt động thiết kế mẫu, đa dạng hóa sản phẩm xuất

khẩu .75

1.3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thị trường và quảng bá sản phẩm.76

2. Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu và giải quyết các vấn đề

xã hội .77

2.1. Nâng cao năng lực con người.77

2.2. Cải thiện điều kiện làm việc, vệ sinh an toàn lao động cùng các chế độ hỗ trợ

khác .78

3. Giải pháp đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu và giải quyết các vấn đề

môi trường.79

3.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong công tác bảo vệ môi trường .79

3.2. Nâng cao năng lực khoa học – công nghệ hiện đại.80

3.3. Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các quy trình và công nghệ sản xuất thân thiện

môi trường.81

3.4. Tăng cường quản lý, kiểm soát và xử lý ô nhiễm.82

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG

DA GIẦY VIỆT NAM.82

1. Đối với Nhà nước.82

1.1. Về định hướng phát triển.82

1.2. Về hệ thống chính sách, pháp luật .83

1.3. Về kết cấu hạ tầng .84

1.4. Về vốn đầu tư .84

2. Đối với Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam.85v

pdf106 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng da giầy Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nội địa. Nhưng để có được chỗ đứng trên sân nhà không đơn giản. Thời gian qua, do phải chạy theo các đơn hàng xuất khẩu, sản phẩm nhập ngoại của Trung Quốc, Ma-lai-xi-a đã tràn ngập chiếm hầu hết thị phần tại thị trường trong nước, chỉ còn lại một phần nhỏ dành cho những doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu như Vina Giày, T&T, Biti's (Trung tâm Xúc tiến thương mại Đà Nẵng 2009). Chính vì vậy, hướng phát triển của da giày Việt Nam cần đảm bảo cân đối giữa xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, cụ thể: thứ nhất, vẫn có thể giữ nguyên được vị thế xuất khẩu lớn thứ hai của châu Á như hiện nay; thứ hai, các doanh nghiệp trong nước cần đầu tư dần chiếm lĩnh thị trường nội địa thông qua việc phát triển kênh phân phối và thương hiệu. Một sự phát triển xuất khẩu bền vững cũng cần đảm bảo để nhu cầu tiêu thụ trong nước được đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ. 41 III. TÍNH BỀN VỮNG VỀ XÃ HỘI 1. Xuất khẩu da giầy với việc làm và thu nhập Mở rộng xuất khẩu da giầy trong những năm qua đã sử dụng nhiều lao động, thông qua đó đã tạo việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư có thu nhập thấp, đặc biệt là dân cư nông nghiệp, qua đó góp phần xóa đói, giảm nghèo. Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu và việc làm trong ngành da giầy, dệt may 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tốc độ tăng bình quân Da giầy Kim ngạch XK (Tỷ USD) 1.559 1.867 2.268 2.692 3.005 3.592 3.963 4.767 4.067 13% Số lượng lao động (Triệu người) 0.21 0.26 0.31 0.37 0.41 0.49 0.55 0.66 0.61 14.7% Dệt may Kim ngạch XK (Tỷ USD) 1.975 2.752 3.687 4.386 4.806 5.834 7.784 9.120 9.065 21.6% Số lượng lao động (Triệu người) 0.79 1.1 1.4 1.7 1.9 2.3 3.1 3.6 3.45 20.9% (Nguồn: Tổng cục Thống kê 2008, Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008c và 2009b, Hiệp hội Dệt may Việt Nam 2009) Có thể thấy, mở rộng xuất khẩu da giầy trong những năm qua đã có những nét tương xứng với tăng việc làm, thu hút lao động. Từ năm 2001 đến năm 2009, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 13% và tốc độ tăng lao động trong ngành là 14,7%. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao trong thời gian qua, ngành da giầy đã khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta trong việc tạo công ăn việc làm cho hơn 600 nghìn lao động. Không chỉ tạo việc làm cho một bộ phận dân cư, ngành da giầy xuất khẩu đã có những đóng góp đáng kể trong việc tăng thu nhập cho người lao động. Xuất khẩu da giầy chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (bình 42 quân là 9.06%), thông qua đó đã làm tăng GDP, tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong những năm qua, thu nhập bình quân của người lao động trong ngành da giầy đã tăng từ 10-20% tuỳ từng doanh nghiệp. Cụ thể, thu nhập bình quân của lao động ngành da giầy năm 2009, phía nam dao động từ 2,7 triệu đến 8,2 triệu đồng/người/tháng; phía bắc khoảng từ 2-4,5 triệu đồng/người/tháng. Như vậy, không phải là cao nhưng cũng không quá thấp so với mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay (Hồng Quân 2010). Tuy nhiên, hình thức xuất khẩu da giầy của Việt Nam vẫn là gia công xuất khẩu, do vậy, việc làm và thu nhập của người lao động không ổn định. Biến động thị trường các năm 2006, và đặc biệt là năm 2009 cho thấy, việc làm và thu nhập của người lao động đã bị tổn thương đáng kể. Từ năm 2006 trở lại đây, tình trạng thiếu hụt lao động đã trở thành bài toán hóc búa đối với các doanh nghiệp da giầy xuất khẩu. Một ví dụ điển hình là tại Hải Phòng hiện có trên 40 doanh nghiệp gia công các sản phẩm da giầy. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, các doanh nghiệp này cần khoảng 63 ngàn lao động. Nhưng số lao động các doanh nghiệp hiện có mới chỉ đáp ứng được 77%. Vậy là, theo tính toán, ngành da giầy Hải Phòng còn thiếu hụt khoảng 14 ngàn lao động, tương đương 23% so với nhu cầu của các doanh nghiệp (Thanh Tùng 2009). Nguyên nhân của sự thiếu hụt trên là do tác động của việc EU áp thuế chống bán phá giá đối với giầy mũ da Việt Nam khiến phía đối tác dè dặt làm cho đơn hàng giảm, các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất và bị thiệt hại nặng nề về kinh tế do chỉ sử dụng được 70% công suất thiết kế, bị đóng băng vốn trong đầu tư cơ sở hạ tầng, hao mòn hữu hình và vô hình Trước tình hình đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang sản xuất các mặt hàng giá trị thấp hoặc nhận gia công lại cho các doanh nghiệp khác trong nước nhưng cũng khó khả thi do nhiều tác động khách quan và chủ quan của thị trường, chuyển thị trường thì cũng khó mà thâm nhập vào thị trường mới còn chưa quen, mất nhiều thời gian. Nhiều doanh nghiệp buộc phải cho công nhân nghỉ việc hoặc lúc làm lúc không Thêm vào đó, trong bối cảnh chi phí đầu vào sản xuất gia tăng, lợi nhuận của ngành cũng bị giảm đáng kể (năm 2000 đạt 425.8 tỷ đồng, thì đến năm 2008 chỉ còn 43 378.5 tỷ đồng), việc tăng thu nhập cho người lao động là bất khả thi. Trong khi giá cả biến động, mức lương bình quân trong ngành da giầy là 2.640.000 đồng/tháng chưa hấp dẫn với người lao động. Đây cũng là lý do xảy ra biến động lao động thường xuyên trong ngành da giầy (Hạ Vinh 2009). Ngoài ra, một loạt vấn đề khác ảnh hưởng đến đời sống vật chất, tinh thần của công nhân như: việc tăng lương tối thiểu không đồng bộ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước khiến nhiều công nhân bức xúc; thời gian lao động quá nhiều mà thu nhập lại thấp, môi trường lao động và các chế độ lao động khác không phù hợp Vì vậy, nhiều công nhân có xu hướng chuyển sang các lĩnh vực lao động khác hoặc nghỉ việc (Hạ Vinh 2009). Giá trị gia tăng trong gia công xuất khẩu da giầy chủ yếu nằm ở sức lao động, yếu tố được xem là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của da giầy Việt Nam những năm qua. Song lợi thế về giá nhân công rẻ và nguồn lao động dồi dào này đang mất dần đi khi người lao động không còn mặn mà với công việc hết sức vất vả, khắc nghiệt mà thu nhập không ổn định. Bằng chứng là ngành da giầy hay xảy đình công và tình trạng khan hiếm lao động đã bắt đầu diễn ra ở nhiều doanh nghiệp da giầy của Hải Phòng trong năm 2009 (Thanh Tùng 2009). Vì những lý do trên khiến nguồn lao động trong ngành da giầy luôn luôn biến động và có xu hướng ngày càng thiếu hụt. Những biến động thị trường cùng với phương thức gia công là chủ yếu đã dẫn đến những hệ lụy mà suy cho cùng, người chịu những gánh nặng ấy chính là những công nhân lao động trực tiếp tại doanh nghiệp và lao động phụ trợ cho ngành da giầy. Phân tích trên đây cho thấy, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sự biến động trong tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, thì việc định hướng phát triển bền vững ngành, hướng tới xuất khẩu bền vững sẽ là một thách thức lớn đối với ngành da giầy Việt Nam. 2. Xuất khẩu với vấn đề chất lƣợng và trình độ lao động Sau gần 20 năm làm hàng gia công cho nước ngoài, Việt Nam đã được tiếp cận với thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến và hình thành đội ngũ công nhân lành nghề. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện và động 44 lực để các doanh nghiệp da giầy Việt Nam có cơ hội tiếp cận và triển khai những mô hình quản lý, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ. Ngành đã có nhiều dự án nhằm hỗ trợ cán bộ hiệp hội và doanh nghiệp thành viên. Ví dụ, thông qua dự án “Đổi mới và thương hiệu: Công cụ cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu”, các cán bộ được đào tạo và cung cấp kiến thức về những vấn đề chính sách thương mại, tiếp cận thị trường, xây dựng thương hiệu của da giầy xuất khẩu Việt Nam nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu da giầy trên thị trường quốc tế (Dự án hỗ trợ Thương mại đa biên Mutrap 2009). Tuy nhiên, thực tế tại nhiều doanh nghiệp, nguồn nhân lực có trình độ cao hiện nay còn rất thiếu và yếu. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 5%), chỉ tập trung làm việc ở khối văn phòng (Hạ Vinh 2009). Trình độ cán bộ quản lý điều hành chưa theo kịp sự thay đổi và phát triển nhanh chóng của thị trường. Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chứng tỏ năng lực, trình độ ngành phụ thuộc chủ yếu vào làn sóng đầu tư của tư nhân trong nước và quốc tế. Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giầy Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn đầu tư bên ngoài là chủ yếu, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế... Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài (Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008a). Ngoài ra, ngành còn thiếu đội ngũ cán bộ thiết kế để triển khai mẫu mốt theo thị hiếu ngày càng đa dạng của khách hàng, thiếu cán bộ làm công tác pháp lý, am hiểu luật pháp Việt Nam và quốc tế để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đúng quy định pháp luật hiện hành (Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008a). Điều này ảnh 45 hưởng rất lớn đến khả năng nâng cao giá trị gia tăng, định vị thương hiệu giầy Việt Nam cũng như tránh những biến động đáng tiếc ảnh hưởng đến xuất khẩu da giầy trên thị trường thế giới. Hiện nay, ngành da giầy nước ta đang sử dụng khoảng 600 nghìn lao động nhưng toàn ngành chưa có một trường đào tạo chính quy về nghề. Bậc nghề trung bình mặc dù đã tăng đạt mức 3,5/7 năm 2009 (năm 2001 là 2/7), tuy nhiên, công nhân được đào tạo chủ yếu theo lối kèm cặp ngay tại xí nghiệp sau khi sử dụng, chỉ có một số ít công nhân là được đào tạo qua các trường công nhân kỹ thuật (thuộc Bộ Công thương) hoặc trường kỹ thuật may (thuộc Tổng công ty Dệt may). Bên cạnh đó năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia (Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008a). Việt Nam hiện có hơn 500 doanh nghiệp da giầy nhưng những thương hiệu được người tiêu dùng trong nước biết đến mới chỉ có Biti‟s, Bita‟s, Thượng Đình, Vento, Sholega Còn những thương hiệu Việt Nam có mặt ở thị trường nước ngoài rất ít. Dường như mới chỉ có Biti‟s (công bố có mặt ở hơn 40 nước), Vento (vươn tới Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Canada, Bắc Mỹ), còn Vina Giày mới có mặt trên thị trường Mỹ (Mạnh Cường 2009). Để có được chỗ đứng trên thị trường quốc tế mà không sử dụng thương hiệu đã có sẵn, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao trình độ nguồn nhân lực từ khâu thiết kế, sản xuất, phân phối. Bằng việc làm đó mới có thể đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn, sử dụng hết công suất máy móc, thiết bị làm giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng da giầy Việt Nam nhằm phát triển bền vững, tham gia sâu rộng vào thị trường toàn cầu. 3. Xuất khẩu với việc đáp ứng các tiêu chuẩn xã hội, cải thiện điều kiện làm việc Trong những năm qua, cùng với sự mở rộng xuất khẩu, ngành da giầy đã từng bước có sự quan tâm đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn xã hội, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động và vấn đề giới trong ngành. 46 Với xu thế toàn cầu hoá và tự do thương mại như hiện nay thì cạnh tranh ngày càng gay gắt là điều không thể tránh khỏi; trong đó, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... đang và sẽ là những đối thủ cạnh tranh lớn trong khu vực và trên thế giới. Tự do hoá thương mại dần dần sẽ xoá bỏ các hàng rào thương mại như thuế quan, hạn ngạch; tuy nhiên, các hàng rào kỹ thuật sẽ nảy sinh như yêu cầu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR), về an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản lý môi trường. (Nguyễn Quang Vinh 2006). Sức ép từ người tiêu dùng (nơi nhập khẩu), xã hội, chính quyền sở tại đối với các nhà cung cấp sản phẩm da giầy là cần đảm bảo rằng các sản phẩm được sản xuất và tồn tại trong một môi trường trong sạch, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh công nghiệp, an toàn vệ sinh lao động và không có bóc lột Quan niệm về thành công của doanh nghiệp trong những thập kỷ vừa qua đã thay đổi đáng kể. Nếu như trong những thập kỷ 70-80, doanh nghiệp thành công phải là những doanh nghiệp đạt mức lợi nhuận cao và cạnh tranh trên tiêu chí giá cả và chất lượng sản phẩm thì ngày nay, quan niệm đó hoàn toàn thay đổi. Các doanh nghiệp phải nhìn xa hơn, ngoài vấn đề lợi nhuận tài chính còn phải quan tâm đến các giá trị khác như môi trường mà trong đó công ty hoạt động, những ảnh hưởng về mặt xã hội mà công ty đem lại như mức lương và đời sống của công nhân, giải quyết công ăn việc làm... Các nhà đầu tư nước ngoài, trước khi muốn làm ăn với các công ty da giầy Việt Nam, việc đầu tiên họ làm là cử những nhóm công tác đến khảo sát nhà xưởng của các đối tác Việt Nam để tìm hiểu xem nhà xưởng, môi trường làm việc của người lao động có được chú trọng hay không (Trung tâm thông tin hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ - SMENET 2010). Người lao động luôn là trung tâm của mỗi quá trình sản xuất và là tài sản quý giá nhất của mỗi doanh nghiệp, vì vậy việc tạo ra một môi trường làm việc tốt cho người lao động sẽ tạo ra một không khí làm việc thoải mái giúp giảm căng thẳng và dẫn đến tăng năng suất lao động. Hơn nữa, các đối tác nước ngoài khi nhận thấy điều này sẽ tự tìm đến ký kết hợp đồng kinh doanh 47 với doanh nghiệp, và kết quả là uy tín của doanh nghiệp được nâng cao, sức cạnh tranh được cải thiện và thị trường xuất khẩu được đa dạng hoá thêm. Mặc dù ở một số doanh nghiệp đã có kế hoạch thực hiện an toàn vệ sinh lao động hàng năm, nhưng nói chung hoạt động an toàn vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp không có định hướng. Bộ máy để thực thi kế hoạch nơi có nơi không. Việc phân công trách nhiệm cũng được tiến hành nhưng không cụ thể. Việc trao đổi thông tin về vấn đề an toàn vệ sinh lao động trong nội bộ doanh nghiệp và với các tổ chức bên ngoài hay các bên liên quan chưa được thực hiện đầy đủ. Nếu có, thì mới chỉ ở mức độ truyền đạt chung chung, chưa cụ thể. Các chương trình đào tạo ở các cấp khác nhau trong doanh nghiệp mới thực hiện một cách lồng ghép vào các chương trình đào tạo chung hoặc đào tạo nghề (Trung tâm thông tin hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ - SMENET 2010). Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp không kiểm soát được các tài liệu văn bản liên quan đến hoạt động an toàn vệ sinh lao động, không có hồ sơ về các hoạt động an toàn vệ sinh lao động đã được thực hiện. Việc đo lường và giám sát kết quả cũng như là việc xem xét hiệu lực của các hoạt động tiến hành hoàn toàn chưa được thực hiện. Hoặc nếu có báo cáo thì nội dung báo cáo chưa được sử dụng làm cơ sở để cải tiến hoạt động an toàn vệ sinh lao động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007). Về nhà xưởng - máy móc thiết bị: hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều có nhà xưởng rộng rãi, được trang bị hệ thống thoát khí, ánh sáng đảm bảo, nhà tắm, phòng thay quần áo tiện nghi Tuy nhiên, cũng còn không ít doanh nghiệp có trang thiết bị lạc hậu, gây tiếng ồn lớn, độ rung cao hay khí nóng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người lao động (Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008c). So với chiều cao mặt bằng khuyến nghị cho người Việt Nam thì chiều cao của băng chuyền trong ngành là không thích hợp. Người công nhân thường hay phải cúi, gây căng cơ vùng vai, gáy và lưng. Đôi khi khoảng không gian cần thiết cho đùi bị thiếu gây sự không thoải mái và tư thế bất lợi cho người lao động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007). 48 Về mức độ tiếp xúc với các yếu tố nguy hiểm và có hại: do sự cộng hưởng của các yếu tố không có lợi cho sức khoẻ và môi trường tại các xí nghiệp da giầy, cho nên trên thực tế người công nhân phải tiếp xúc với khá nhiều yếu tố nguy hiểm và độc hại như được mô tả trong 2 biểu đồ dưới đây. Biểu đồ 10: Mức độ tiếp xúc các yếu tố có hại của công nhân ngành da giầy (Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007) Biểu đồ 11: Mức độ tiếp xúc các yếu tố nguy hiểm của công nhân ngành da giầy (Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 2007) Về tư thế thao tác và cường độ lao động: cường độ lao động của công nhân cao nhưng thao tác đơn điệu gây nhàm chán, một số vị trí cần thể lực lớn, gây nguy cơ rối loạn cơ xương. 49 Về cấp phát các trang thiết bị bảo hộ lao động: nhìn chung các doanh nghiệp đã thực hiện, nhưng tại nhiều doanh nghiệp da giầy, chính người lao động lại chưa có ý thức sử dụng. Nguyên nhân là vì số lượng được phát ít, nếu họ cần thay đổi thì họ phải bỏ tiền ra mua; tại chỗ làm việc không có nơi thay đồ nên không thuận tiện cho công nhân, nhất là công nhân nữ, và cũng không có nơi bảo quản trang phục, do vậy công nhân thường mang trang phục của riêng mình trong khi làm việc. Một nguyên nhân nữa là, những công nhân tiếp xúc với hoá chất phàn nàn rằng khẩu trang chỉ che được bụi chứ không cản được sự xâm nhập của hơi hoá chất, do vậy không có tác dụng, nếu không nói là phản tác dụng. Việc huấn luyện về an toàn lao động, phòng chống cháy nổ: công việc này đã được nhiều doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc ngay từ khi tuyển dụng lao động và duy trì huấn luyện thường xuyên trong năm. Tuy nhiên, cũng không ít doanh nghiệp còn coi nhẹ công tác này và trên thực tế, cũng không ít người lao động không đặt vấn đề phải được huấn luyện an toàn lao động khi được tuyển dụng. Điều này một mặt thể hiện sự thiếu trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động, mặt khác cũng thể hiện sự hạn chế trong nhận thức của chính người lao động vì họ chỉ cần có việc làm, có thu nhập mà không ý thức được quyền được hưởng về bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động của mình (Hồng Hạnh 2010). Về việc đảm bảo môi trường, điều kiện làm việc cho lao động nữ: hiện nay, ngành da giầy xuất khẩu là ngành sử dụng nhiều lao động, tạo việc làm cho trên 600 nghìn lao động trong đó 80% là lao động nữ, không kể số lao động làm việc trong các lĩnh vực khác liên quan. Tại nhiều doanh nghiệp, tỷ lệ lao động nữ chiếm tới 95- 98% tổng số lao động (Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam 2008c). Điểm chung của hầu hết chị em là đến từ khu vực nông thôn, các tỉnh nghèo của đất nước. Đây là nhóm lao động chịu nhiều thiệt thòi, ít được đào tạo, thu nhập thấp trong khi thường nhận những công việc tốn sức lực và thời gian trong dây chuyền sản xuất. Tại đa phần các doanh nghiệp da giầy thì tư thế lao động của lao động nữ là ngồi tĩnh kéo dài. Chắc chắn với tư thế làm việc quá lâu như vậy sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của lao động nữ. 50 Điều kiện môi trường làm việc vẫn còn độc hại, hơn nữa, dưới tác động của vụ kiện chống bán phá đối với hàng giầy mũ da xuất khẩu sang EU đã trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động nữ trong ngành. Họ có nguy cơ bị giảm thu nhập, mất việc làm và rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói, từ đó vô hình chung tạo ra gánh nặng cho xã hội. Chính vì vậy, vấn đề được đặt ra là, cần có cơ chế, biện pháp để đảm bảo quyền lợi cho công nhân nữ, giúp họ yên tâm công tác, đóng góp vào sự ổn định trong xuất khẩu da giầy. Tóm lại, bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển KT-XH đất nước, vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa mang ý nghĩa xã hội rất cao, đòi hỏi các cấp công đoàn, ngành da giầy và các cá nhân đều phải có trách nhiệm phối hợp thực hiện. Có thực hiện tốt việc đảm bảo an toàn vệ sinh lao động mới đảm bảo sức khỏe của người lao động – nhân tố quan trọng trong việc phát triển xuất khẩu da giầy bền vững. Doanh nghiệp thành công của thế kỷ XXI là doanh nghiệp mang tính xã hội cao, tạo ra được nhiều lợi nhuận, đem lại nhiều lợi ích vật chất và tinh thần cho xã hội, cho các nhà cung cấp, người lao động... và là doanh nghiệp của mọi người. IV. TÍNH BỀN VỮNG VỀ MÔI TRƢỜNG 1. Xuất khẩu da giầy với việc duy trì và cải thiện nguồn nguyên liệu cao su, da cho sản xuất Xuất khẩu da giầy trong những năm qua đã có những đóng góp quan trọng vào việc duy trì và phát triển đa dạng sinh học. Mở rộng xuất khẩu da giầy đã làm cho người sản xuất, các bộ ngành quan tâm hơn đến việc duy trì, phát triển các vùng nguyên phụ liệu về da, cao su Việc mở rộng diện tích trồng cây cao su giúp phủ xanh đất đồi, mở rộng diện tích vùng chăn nuôi trâu bò vừa góp phần thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao vừa tạo việc làm cho bộ phận dân cư nông nghiệp. Về cao su: Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp cùng với bộ Công thương đã có những đề án, chính sách phát triển diện tích rừng trồng cao su phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu trong đó có sản xuất da giầy xuất khẩu. Nhờ vậy, diện tích trồng cao su cả nước và tại các vùng trồng cao su chính của Việt Nam liên tục tăng trong những năm vừa qua. Từ năm 2000 đến 2008, tốc độ tăng trưởng 51 bình quân về diện tích cao su của cả nước đạt hơn 4%/năm. Diện tích cao su cả nước năm 2008 đạt 601.8 nghìn ha và năng suất bình quân của cả nước đạt 10.7 tạ/ha (Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn - AGROINFO, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 2008). Do diện tích trồng mới và diện tích khai thác cao su từ năm 1995-2008 của cả nước liên tục tăng, cùng với việc tăng năng suất nên sản lượng cao su của cả nước tăng mạnh từ 290.8 nghìn tấn năm 2000 lên đạt 644.2 nghìn tấn năm 2008. Với mức sản lượng của năm 2008, sản xuất cao su của Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới (chiếm khoảng 5.4% sản lượng cao su thế giới), đứng sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ (Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn - AGROINFO, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 2008). Biểu đồ 12: Diện tích và sản lượng cao su của cả nước giai đoạn 2000–2008 Đơn vị: diện tích: ha; sản lượng: tấn (Nguồn: Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn - AGROINFO, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 2008) Cao su là nguyên liệu chính được dùng trong sản xuất các chi tiết đế giầy và keo dán. Việt Nam là một trong những nước sản xuất cao su tự nhiên nên không phải nhập từ nước ngoài. Nhờ diện tích và sản lượng cao su không ngừng tăng qua 52 các năm, nguồn cung cao su nguyên liệu sản xuất da giầy ổn định là một yếu tố thuận lợi cho phát triển ngành da giầy. Đồng thời cũng cho thấy ngành đã có những bước gắn kết với các bộ, ngành liên quan trong việc hoạch định các vùng trồng cây cao su đảm bảo nguyên liệu sản xuất. Về nguyên liệu da: ngành chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu bò của Việt Nam liên tục phát triển, năm 2009, đàn trâu có 2886,6 nghìn con, tăng 0,4%; đàn bò có 6103,3 nghìn con, tăng 3,7% so với năm 2008 (Tổng cục Thống kê 2009). Nguồn nguyên liệu da không ngừng tăng qua các năm, mỗi năm cả nước có khoảng 6000 tấn da bò, 2000 tấn da trâu nhưng 60% nguồn da này lại được xuất sang Trung Quốc và Đài Loan, và chỉ một phần nhỏ của số lượng còn lại đạt tiêu chuẩn để sản xuất sản phẩm xuất khẩu (Thạch Phùng 2007). Nguồn da nguyên liệu trong nước là từ việc chăn nuôi trâu bò, thế nhưng chăn nuôi bò, trâu ở nước ta lại phân tán, chủ yếu là thả rông nên con da bé; dùng nhiều roi vọt nên gây thương tật trên da; hơn nữa, mục đích chăn nuôi là lấy thịt nên việc giết mổ, lột da và bảo quản da sống chưa đúng kỹ thuật. Từ những vấn đề trên cho thấy, trong những năm tới, việc mở rộng diện tích chăn nuôi, khai thác nguồn nguyên liệu da phục vụ sản xuất da giầy cần được định hướng rõ ràng để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu ổn định, tăng cả về số lượng và chất lượng phục vụ sản xuất da giầy xuất khẩu. Bên cạnh đó, những kết quả đạt được của xuất khẩu phải nhằm duy trì, bổ sung nguồn nguyên liệu cho sản xuất. 2. Thực trạng sử dụng hóa chất độc hại và công tác xử lý phế thải tại các doanh nghiệp trong ngành 2.1. Hóa chất và phế thải độc hại trong quá trình thuộc da Nguyên liệu chính trong quá trình thuộc da chủ yếu là da muối hoặc da tươi. Lượng hoá chất thông dụng được sử dụng trong công nghệ da thuộc gồm các chất vô cơ và hữu cơ như sunfit, sunfa, sunfit natri, hydroxit canxi, cacbonat, axit, muối do đặc thù thuộc da là quá trình chuyển đổi protit của da động vật sang dạng bền vững để sử dụng (Thu Hoài 2009). Tỷ lệ và thành phần hoá chất tham gia xử lý vào các công đoạn thuộc da phụ thuộc vào việc áp dụng công nghệ, thiết bị máy móc và chất lượng các loại da. 53 Vấn đề môi trường trong các nhà máy thuộc da là nước thải, mùi và chất thải rắn. Với công nghệ thuộc da truyền thống, trung bình 1 tấn da nguyên liệu thải ra môi trường khoảng 50 m3 nước thải có độ màu đậm đặc và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_xuat_khau_hang_da_giay_viet_nam_thuc_hien_muc_tieu_ph.pdf
Tài liệu liên quan