Đề tài Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Mục lục

 Trang

Lời nói đầu 2

Chương 1. Nguồn gốc , bản chất và kết cấu của ý thức 4

 1.1. Ý thức là gì 4

 1.2. Nguồn gốc của ý thức 4

 1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên 4

 1.2.2. Nguồn gốc xã hội 6

 1.3. Bản chất của ý thức 8

 1.4. Kết cấu của ý thức 10

 1.4.1. Theo chiều ngang 10

 1.4.2. Theo chiều dọc 10

 1.5. Vai trò và tác dụng của ý thức . Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan 12

 hệ giữa vật chất và ý thức

Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta 15

 2.1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xâ hội . 15

 2.1.1. Tri thức khoa học 15

 2.1.2. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội 15

 2.2.Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay 18

 2.2.1. Công cuộc đổi mới ở nước ta 18

 2.2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước 18

 2.2.1.2. Công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ở nước ta 18

 2.2.1.3. Những hạn chế của công cuộc đổi mới 20

 2.2.2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta 21

 2.2.3. Các biện pháp nhằm vận dụng tri thức khoa học vào công cuộc

phát triển nền kinh tế - xã hội ở nước ta 31

Kết luận: 33

Tài liệu tham khảo 34

 

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiện , mỹ . Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người . 1.5. Vai trò và tác dụng của ý thức . ý nghiã phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức . Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất , kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức tư tưởng . Thực ra hoàn toàn không phải như vậy . Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường , không biện chứng , duy vật kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần , ý thức mà thôi . Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức , chủ nghĩa duy vật Mácxít đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất . ý thức do vật chất sinh ra và quyết định , song sau khi ra đời , ý thức có tính độc lập tương đối nên có tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . ý thức của con người có tác động tích cực , làm biến đổi hiện thực , vật chất khách quan theo nhu cầu của mình . Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại . Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động . Nói tới vai trò của ý thức về thực chát là nói tới vai trò của con người , bởi vì ý thức là ý thức của con người . Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả . Theo Mác " lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổi bằng lực lượng vật chất " , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn . Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức vận dụng đúng đắn những quy luật đó , phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động . Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người , hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý chí , biện pháp cho hoạt động của con người . ở đây ý thức , tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai , thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định . Vai trò tích cực của ý thức , tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục đích , phương pháp , biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có , phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động , sáng tạo với ý chí , nhiệt tình cao . Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả . Vì vậy phải phát huy tính năng động , sáng tạo của ý thức , phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ , trì trệ , thái độ tiêu cực , thụ động , ỷ lại , ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay . Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật , của các quy luật tự nhiên và xã hội . Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn tại khách quan , không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Chính vì vậy , Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách , không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng . Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế , lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí . Trước Đại hội Đảng lần thứ VI , bên cạnh những thành tựu đạt được , chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật , cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế . Chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần , vi phạm nhiều quy luật khách quan . Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định :" Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí , vi phạm quy luật khách quan " . Vì vậy , từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng , Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là : " Mọi đường lối , chủ Đảng phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan ". Bài học đó có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước ta . Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã tổng kết 10 năm đổi mới , đề ra những mục tiêu , phương pháp cho thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Trong thời kì mới này phải " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " , chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá , hiện đại hóa đồng thời phải " khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước , ý chí quật cường , phát huy tài chí của nguời Việt Nam , quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ... " Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta . 2.1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội . 2.1.1. Tri thức khoa học Tri thức khoa học là những kiến thức thu được qua những quá trình học tập một cách công phu . Tri thức khoa học có các đặc trưng sau : Tri thức khoa học là tri thức ở tầm quản lý được cái bản chất , quy luật , nguyên nhân , xu hướng của thế giới khách quan . Tri thức khoa học là tri thức có tính hệ thống về sự vật khách quan . Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới khách và không ngừng phải được kiểm tra và chứng minh bởi lôgic và thực tiễn . 2.1.2. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội Trên phạm vi thế giới những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới đã làm cho lợi thế so sánh của mỗi quốc gia biến đổi không ngừng , làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước , trong đó mỗi nước đều có cơ hội to lớn để tìm ra lợi thế so sánh mới cho mình và đều đứng trước những thách thức mới . Trong điều kiện như vậy các nước phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực sự góp phần không nhỏ vào quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế này , đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng , nhiều chiều . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật , một mặt đang làm thay đổi những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập , tự chủ , hoàn chỉnh , dẫn thế giới đến một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải có cách giải quyết mới , mặt khác , dẫn đến sự cấu trúc lại nền kinh tế cả trên phạm vi thế giới lẫn trong nội bộ từng nước . Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu , đặc biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành có hàm lượng khoa học , công nghệ và trí tuệ cao , cơ cấu tiêu thụ giảm theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần , do vậy mà mới có tình trạng chỉ số giá cả các sản phẩm sơ cấp và nguyên liệu trên thị trường thế giới giảm tới 40% so với đầu thập kỷ 80 . Cũng do sự chuyển dịch nhanh chóng đó mà hiện nay đã có tới 11 trong số 28 ngành công nghiệp chính của thế giới đang bị lu mờ , bị coi là đã xế chiều và đang bị các ngành mới ra đời lấn át hoặc thay thế hoàn toàn . Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp , muốn như thế thì không có cách nào khác hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật . Như vậy , do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi mới về mặt kinh tế , từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia , trở thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại và không bị nhấm chìm . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay , một mặt , tạo điều kiện cho sự quản lý sản xuất , quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn , mặt khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối với nó nhanh nhạy và linh hoạt như vậy . Vì thế tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực tế là mâu thuẫn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp . Những thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật và trong công nghệ cũng như trong tổ chức sản xuất , trong các mặt hàng , các sản phẩm được làm ra đòi hỏi phải có cách quản lý linh hoạt , mềm dẻo có hiệu quả cao , nghĩa là để chuyển sang chất lượng mới của sự phát triển thì phải có sự đổi mới sâu sắc và căn bản trong cơ chế quản lý . Một hệ thống kinh tế bị đóng kín , bị giới hạn từ trên xuống dưới , bị hạn chế quan hệ ngang , được điều khiển bằng mệnh lệnh tập trung và quan liêu không tránh khỏi kìm hãm sự phát triển của xã hội , sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho nên tất yếu phải bị thay thế . Ngày nay việc quản lý xã hội , trong đó quan trọng quản lý kinh tế , quản lý nhà nước , thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin . Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ , lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ . Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất , trong kinh tế và trong quản lý xã hội , tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự , trong việc tạo ra những phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống , làm gay gắt những vấn đề toàn cầu của thời đại . Sức mạnh quân sự của một quốc gia lúc này không chỉ phụ thuộc vào số lượng lớn binh lính , vào những loại vũ khí thông thường có sức công phá lớn đã từng một thời làm mọi người khiếp đảm mà còn phụ thuộc rất lớn vào các vũ khí dựa trên những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất , thậm chí có khi chỉ phụ thuộc vào một số ít người thuộc các ngành nghề khác nhau từ nhà chính trị cho đến nhà sinh học , y học chuyên nghiên cứu các vi khuẩn gây bệnh , từ nhà vật lý hạt nhân cho đến người điều khiển tên lửa mang đầu đạn hạt nhân . Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được sử dụng để sản xuất các loại vũ khí giết người hàng loại . Chẳng hạn , đứng về mặt kỹ thuật mà xét thì số vũ khí hiện có đã đủ để xoá sạch hoàn toàn nhiều lần toàn bộ sự sống trên trái đất nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra . Chỉ riêng một tầu ngầm chiến lược , trong số hàng trăm tàu ngầm hiện có , cũng mang theo tiềm năng huỷ diệt tương đương với mấy cuộc chiến tranh thế giới thứ hai . trong cuộc chiến tranh mới đó không ai có thể tìm thấy phần thắng . Trước nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới có sức huỷ diệt lớn như vậy những người đứng đầu các quốc gia buộc phải đổi mới cách đánh giá , cách nhìn nhận các quan hệ chính trị quốc tế , cách giải quyết mâu thuẫn khu vực và thế giới , đổi mới quan niệm về quốc phòng và an ninh mới . Nếu làm ngược lại chắc chắn không thể tránh được những hậu quả ghê gớm khó lường trước được . Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa vào sự cung cấp của thiên nhiên . Vì vậy tiến bộ khoa học - kỹ thuật đang làm cho ưu thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước này thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng , nếu có một tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại . Khi đã có những kĩ thuật và công nghệ mới , tiến bộ thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra , tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm ... Nếu giải quyết tốt chúng thì khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực . Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khác nghiệt ngã là hoàn toàn có khả năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc , đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ không tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ , thói quen cũ , không thích nghi với những biến đổi của thời đại . Như vậy , trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác , vừa chứa đầy mâu thuẫn và cạnh tranh với nhau khốc liệt , mọi quốc gia trong đó có chúng ta , nếu muốn giành cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm , đều không thể cưỡng lại xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận thức , đánh giá và sử dụng đúng đắn , nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được loài người tạo ra , đồng thời biết khai thác và tạo được những điều kiện cho sự khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác . Sự tác động hết sức to lớn của tri thức khoa học - công nghệ ngày nay đang dẫn dắt các nền kinh tế của các nước phát triển đến " nền kinh tế tri thức " . Đó chính là tiên đoán của C.Mác :" Khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ". 2.2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay . 2.2.1. Công cuộc đổi mới ở nước ta . 2.2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước : Thế giới và nền sản xuất của nó đang chuyển biến hết sức nhanh chóng dưới tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà đỉnh cao mới là những tiến bộ do cách mạng công nghệ , cách mạng tin học mang lại . Nhiều nước đã và đang tiến hành những cải cách rộng rãi , mạnh bạo , đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin . Tuy nhiên cũng trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào tình trạng nặng nề và rút cục bị lạc hậu về nhiều mặt . Nguyên nhân của tình trạng này là không đánh giá đúng đắn và kịp thời những tiến bộ khoa học - kỹ thuật , thiếu những điều kiện cần thiết , thiếu một môi trường dân chủ thực sự để cho con người phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình . Có thể thấy rõ điều này qua các chỉ số so sánh cụ thể giữa Liên Xô và Mĩ . Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh bị cô lập tương đối về kinh tế trong một thời gian dài . Những hỗ trợ kinh tế và tài chính hầu như không đáng kể , nguồn viện trợ vay của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu bị cắt . Sự phong toả về kinh tế , sự lôi cuốn Việt Nam vào những xung đột chính trị và quân sự đã buộc đất nước phải tiêu hao nguồn lực mà lẽ ra có thể sử dụng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội . Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng có một số cơ may và thuận lợi : xu thế hoà bình và hợp tác kinh tế quốc tế đang mở rộng , sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại , vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế . 2.2.1.2. Công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ở nước ta Đại hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12 / 1986 ) đã đưa ra những quan điểm cơ bản trong quá trình đổi mới ở nước ta là : _Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa _Chuyển nền kinh tế vận hành từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , quan liêu , bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . _Mở cửa nền kinh tế , đa dạng hoá , đa phương hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới . _Dân chủ hoá mọi mặt đời sống kinh tế xã hội , tiến tới đổi mới hành chính và xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh . Nhìn vào một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản , chúng ta thấy những nhân tố ổn định của nền kinh tế đã đạt được hình thành : Tổng sản phẩm trong nước tăng đều và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây . Trong gai đoạn 1986 - 1990 bình quân mỗi năm tăng 3,9% ( 1986 tăng 0,3% ; 1987 tăng 3,6 % ; 1988 tăng 6% ; 1989 tăng 4,7% ; 1990 tăng 5,1% ) . Trong giai đoạn 1991 - 1995 bình quân mỗi năm tăng 8,7 % ( 1991 tăng 6% ; 1992 tăng 8,6% ; 1993 tăng 8,1% ; 1994 tăng 8,8% ; 1995 tăng 9,5% ; 1996 tăng 9,34% ) . Tăng trưởng kinh tế năm 1996 vẫn đạt trên mức 9% nói lên sự phát triển ổn định . Lạm phát bị đẩy lùi và được kiềm chế ở mức thấp . Tiền đồng ổn định , tỷ giá hối đoái giao động trên dưới 11000 VNĐ/USD . Cán cân thanh toán trong và ngoài nước được chuyển động theo hướng tích cực . Ngân sách Nhà nước có nguồn thu từ thuế và phí tăng lên . Quan hệ xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ , xuất khẩu hàng năm tăng dần . Năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD , nhập khẩu 7,5 tỷ USD . Năm 1996 xuất khẩu 7 tỷ USD và nhập khẩu 11 tỷ USD . Tỷ lệ xuất so với năm 1995 đã tăng lên nhưng nhập siêu còn lớn . Tỷ lệ tăng dân số giảm dần từ 2,33% năm 1991 xuống còn 2% năm 1995 , năm 1996 tỷ lệ này đã xuống dưới 2% nhưng tỷ lệ tăng dân số vẫn lớn nếu không kiềm chế được thì đây là cản trở lớn cho phát triển . Số người có việc làm đã tăng lên , từ 30,97 triệu người làm việc năm 1991 đến năm 1995 con số này là 34,68 triệu người . Năm 1996 số người có việc làm vẫn tiếp tục tăng lên , nhưng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn đang còn lớn . Mức sống dân cư được cải thiện , GDP đầu người năm 1991 là 273 USD . Năm 1996 mức sống đã tăng lên nhưng còn một bộ phận dân cư ở nông thôn và miền núi đời sống vẫn còn khó khăn . Đổi mới , cải cách về kinh tế , nhưng không gây rối loạn về xã hội hoặc đổ vỡ về chính trị như ở nhiều nước khác . Chính sự ổn định về chính trị và xã hội là điều kiện hết sức quan trọng cho việc triển khai và đẩy tới công cuộc đổi mới về kinh tế ; ngược lại những kết quả của công cuộc đổi mới về kinh tế lại là tiền đề cho sự ổn định về xã hội và đổi mới về chính trị . ổn định chính trị do một chính Đảng lãnh đạo thu hút được quần chúng . 2.2.1.3. Những hạn chế của công cuộc đổi mới Công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế : Xét trên tổng thể , nền kinh tế nước ta hiện vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng tái sản xuất giản đơn và nhiều mặt còn mất cân đối nặng nề . Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người mới đạt khoảng 200 USD . Sự tăng trưởng kinh tế tuy đang phát triển , nhưng đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp sự tăng trưởng đang bị giới hạn , nếu không có đầu tư lớn về khoa học và công nghệ . Do thiếu sự đầu tư của khoa học - kỹ thuật nên sản phẩm nông nghiệp chất lượng thấp . Năng suất và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp cũng chưa có sản phẩm cạnh tranh . Các sản phẩm chủ yếu tăng trưởng vừa qua ở dạng khai thác tài nguyên như dầu thô , than , đất hiếm ... Sản phẩm trong nước của ta ít , không cạnh tranh được với hàng nước ngoài và chưa có nhiều sản phẩm chế biến xuất đi các nước . Lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất sôi động nhưng còn lộn xộn và nảy sinh nhiều mặt trái về xã hội . Mặc dầu kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể trong mấy năm qua , song nhìn chung quy mô của kinh tế đối ngoại còn nhỏ , hiệu quả còn thấp , chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước . Kết cấu hạ tầng còn quá lạc hậu . Mạng lưới giao thông vận tải , thông tin liên lạc chưa được mở mang , chất lượng lại thấp . Hiện hay chỉ có 12% đường bộ được đánh giá là đường tốt , gần 50% đướng sắt không đảm bảo kỹ thuật . Sân bay bến cảng chưa đáp ứng yêu cầu . Tình hình xã hội còn diễn biến phức tạp . Số người không có hoặc thiếu việc làm ngày càng gia tăng . ở thành thị 6-7% số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm mà phần đông là thanh niên , ở nông thôn , thời gian lao động mới được sử dụng 60-70% , nếu quy đổi 30-40% còn lại thì có tới 8-9 triệu người thiếu việc làm . Sự phân tầng xã hội . phân hoá giàu nghèo diễn ra khá phổ biến và phức tạp ở cả thành thị và nông thôn . Công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng . Pháp luật và kỷ cương xã hội không nghiêm . Trật tự và an toàn xã hội chưa được bảo đảm , thậm chí có mặt còn xấu di , đạo đức bị xói mòn . Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác nhau như lừa đảo , trốn thuế , lậu thuế , làm hàng giả , cá cược , số đề , mê tín , dị đoan ... đang phát triển . Tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức bùng nổ , trình độ dân trí nói chung thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và so với nhiều nước khác trên thế giới . Chất lượng giáo dục và đào tạo còn chưa cao , cả nước còn khoảng 8% mù chữ . Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Sự phát triển của khoa học chưa thực sự gắn với những nhiệm vụ thực tiễn cuộc sống đặt ra, ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ phát triển kinh tế , xã hội . 2.2.2.Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học và sản xuất hiện đại, khoa học ngày càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội . Có tình hình đó là vì trong điều kiện hiện nay khoa học ngày càng tác động mạnh mẽ , sâu sắc đến sự phát triển của kinh tế - xã hội . Khoa học không chỉ phát hiện ra những quy luật của hiện thực mà còn chỉ ra những con đường khả dĩ để vận dụng các quy luật ấy vào thực tiễn cuộc sống vì lợi ích con người . Trong lĩnh vực kinh tế ,có thể nói rằng , điều kiện khách quan cho sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất là khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Trong điều kiện hiện nay , sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với việc vận dụng có hiệu quả khoa học , kỹ thuật vào sản xuất . Điều đó là dễ hiểu bởi vì khoa học , tri thức khoa học là yếu tố chung có mặt trong mọi thành phần của lực lượng sản xuất . Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật , việc vận dụng các thành tựu của khoa học vào đời sống một mặt có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển mọi thành của lực lượng sản xuất . Mặt khác , trong điều kiện hiện nay , khoa học là sản phẩm tinh thần của sự phát triển xã hội , ngày càng tam gia tích cực vào quá trình sản xuất . Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và của tiến bộ xã hội , khoa học ngày càng biểu thị dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ quá trình biến khoa học từ lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Tuy nhiên cần phải thấy rằng khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp dựa trên những tiền đề nhất định . Những tiền đề đó là : 1. Sản xuất phải đạt được một mức độ phát triển nhất định . Trong điều kiện sản xuất thấp kém , mối liên hệ khoa học và thực tiễn chủ yếu đi theo con đường từ khoa học đến thực tiễn , nghĩa là người ta tìm cách chủ yếu vận dụng những thành tựu khoa học đã có vào sản xuất . ở trình độ này khoa học mới biểu thị như lực lượng tiềm năng chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . ở trình độ cao chính sản xuất đã đặt ra những vấn đề phức tạp đòi hỏi khoa học phải giải quyết . Như vậy ở đây chính sự phát triển của sản xuất là điều kiện cần cho sự xuất hiện của những tri thức khoa học mới , những ngành khoa học mới . Khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động mà tham gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất . Cũng chỉ khi đó mới có điều kiện để biến khoa học thành lực lượnng sản xuất trực tiếp . 2. Tương ứng với một mức độ phát triển nhất định của khoa học - ở mức khoa học phải đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra . Chúng ta thấy rằng không thể giải quyết những vấn đề của sản xuất hiện đại chỉ trong phạm vi của một khoa học nào đó mà cần phải có sự tham gia của nhiều ngành khoa học . Vì vậy sự tương tác giữa các khoa học , sự liên kết giữa chúng tạo ra khuynh hướng tổng hợp tri thức của khoa học hiện đại là điều kiện để biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Rõ ràng việc khắc phục những khó khăn trong quá trình sản xuất gắn liền với quá trình làm sâu sắc thêm tri thức về các quá trình diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội . Điều đó đòi hỏi phải có sự phát triển cao , nhịp nhàng của mọi khoa học , cũng như của bản thân khoa học như một chỉnh thể duy nhất . 3. Và cuối cùng phải thấy rằng cơ sở khách quan của sự liên kết như vậy phải dựa trên một nguyên lý cơ bản đó là nguyên lý về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn . Sự hiển nhiên của nguyên lý này , theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng , quy định sự thống nhất của hai loại hoạt động của con người - hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận . Trong bình diện sản xuất vật chất thì đó là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học . Việc sử dụng những thành tựu của khoa học vào sản xuất là một trong những con đường cơ bản để đẩy mạnh sản xuất , nâng cao hiệu quả của lao động . Chiến lược phát triển mạnh mẽ sản xuất phụ thuộc một cách nghiêm ngặt vào quá trình tăng tốc và tối ưu hoá những tìm kiếm khoa học , đồng thời nó cũng quy định quá trình này . Từ đó ta thấy rằng sự liên kết khoa học và sản xuất là một tất yếu quyết định sự phát triển của cả khoa học , cả sản xuất và suy cho cùng là điều cần thiết để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội . Trong lĩnh vực công nghiệp , hoạt động kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28251.doc
Tài liệu liên quan