Đồ án Bài toán luồng cực đại trong mạng với khả năng thông qua các cung các đỉnh

Hơn thế nữa nếu các khả năng thông qua là các số vô tỷ, người ta còn xây dựng được ví dụ để cho thuật toán không dừng, và tệ hơn là dãy các giá trị luồng xây dựng theo thuật toán hội tụ thì nó còn không hội tụ đến giá trị luồng cực đại. Như vậy, muốn thuật toán làm việc hiệu quả, việc lựa chọn đường tăng luồng cần được tiến hành hết sức cẩn thận.

Edmonds và Karp chỉ ra rằng nếu đường tăng luồng được chọn là đường ngắn nhất từ s đến t trên đồ thị Gf . Điều đó có thể thực hiện, nếu trong thủ tục tìm đường tăng Find_Path mô tả ở trên, danh sách VT được tổ chức dưới dạng QUEUE ( nghĩa là ta thực hiện tìm đường tăng bởi thủ tục tìm kiếm theo chiều rộng) thì thuật toán sẽ kết thúc sau không quá mn/2 lần sử dụng đường tăng luồng. Nếu để ý rằng, tìm kiếm theo chiều rộng trên đồ thị đòi hỏi thời gian O(n+m), thì thuật toán thu được sẽ có độ phức tạp tính toán là O(nm2).

Nhờ cách tổ chức tìm đường tăng khéo léo hơn, người ta đã xây dựng được thuật toán với độ phức tạp tính toán tốt hơn như: O(n2m) (Dinic, 1970), O(n3) (Karzanov, 1974), O(n2m1/2) ( Cherkasky, 1977), O(nm log n) (Sleator- Tarjan,1980).

 

doc70 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 4068 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Bài toán luồng cực đại trong mạng với khả năng thông qua các cung các đỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cố định. 2) Tương tự như mục 2, dễ dàng mô tả lại thuật toán cho trường hợp đồ thị cho bởi danh sách kề. Để có thể giảm bớt khối lượng tính toán trong việc xác định đỉnh u ở mỗi bước lặp. Khi đó có thể thu được thuật toán với độ phức tạp tính toán là O(m logn). Chương 2 PHÁT BIỂU BÀI TOÁN LUỒNG TRÊN MẠNG Nhiều bài toán quy hoạch tuyến tính có thể quy về bài toán làm cực tiểu phí tổn vận chuyển hàng trong một mạng (gồm các nút và các cung đường) sao cho đảm bảo được các nhu cầu ở một số nút khi đã biết nguồng cung cấp tại một số nút khác. Các bài toán như vậy được gọi là các bài toán luồng trên mạng (network flow problem) hoặc bài toán chuyển vận (transshipment problem). Đây là lớp bài toán quan trọng nhất và hay gặp nhất trong quy hoạch tuyến tính. Lớp này bao gồm các bài toán quen thuộc trong thực tế như: bài toán vận tải, các bài toán mạng điện và mạng giao thông, các bài toán quản lý và phân bổ vật tư, bài toán bổ nhiệm, bài toán kế hoạch tài chính, bài toán đường ngắn nhất, bài toán luồng cực đại … Bài toán luồng cực đại trong mạng là một trong số những bài toán tối ưu trên đồ thị tìm được những ứng dụng rộng rãi trong thực tế cũng như những ứng dụng thú vị trong lý thuyết tổ hợp. Bài toán được đề xuất vào đầu những năm 1950, và gắn liền với tên tuổi của hai nhà bác học Mỹ là Ford và Fulkerson. Trong chương này chúng ta sẽ trình bày thuật toán của Ford và Fulkerson để giải bài toán đặt ra và nêu một số ứng dụng của bài toán. I. PHÁT BIỂU BÀI TOÁN 1.Mạng. Luồng trong mạng Định nghĩa 1. Ta gọi mạng là đồ thị có hướng G = (V,E), trong đó có duy nhất một đỉnh s không có cung đi vào gọi là điểm phát, duy nhất một đỉnh t không có cung đi ra gọi là điểm thu và mỗi cung e = (v,w) Î E được gán với một số không âm c(e) = c(v,w) gọi là khả năng thông qua của cung e. Để thuận tiện cho việc trình bày ta sẽ quy ước rằng nếu không có cung (v,w) thì khả năng thông qua c(v,w) được gán bằng 0. Định nghĩa 2. Giả sử cho mạng G = (V,E). Ta gọi luồng f trong mạng G = (V,E) là ánh xạ f: Eà R+ gán cho mỗi cung e =(v,w) Î E một số thực không âm f(e) = f(v,w), gọi là luông trên cung e, thoả mãn các điều kiện sau: 1. Luồng trên mỗi cung e Î E không vượt quá khả năng thông qua của nó: 0 ≤ f (e) ≤ c(e), 2. Điều kiện cân bằng luồng trên mỗi đỉnh của mạng : Tổng luồng trên các cung đi vào đỉnh v bằng tổng luồng trên các cung đi ra khỏi đỉnh v, nếu v ¹ s,t: Trong đó - tập các đỉnh của mạng mà từ đó có cung đến v, - tập các đỉnh của mạng mà từ v có cung đến nó: 3.Giá trị của luồng f là số 2. Bài toán luồng cực đại trong mạng Cho mạng G=(V,E). Hãy tìm luồng f* trong mạng với giá trị luồng val(f*) là lớn nhất . Luồng như vậy ta sẽ gọi là luồng cực đại trong mạng. Bài toán như vậy có thể xuất hiện trong rất nhiều ứng dụng thực tế . chẳng hạn khi cần xác định cường độ lớn nhất của dòng vận tải giữa 2 nút của một bản đồ giao thông. Trong ví dụ này của bài toán luồng cực đại xẽ chỉ cho ta các đoạn đường đông xe nhất và chúng tạo thành “chỗ hẹp” tương ứng với dòng giao thỗng xét theo hai nút được chọn. Mộtví dụ khác là nếu xét đồ thị tương ứng với một hệ thống dẫn dầu. Trong đó các ống tương ứng với các cung , điểm phát có thể có thể là tàu chở dầu, điểm thu là bể chứa, còn những điểm nối giữa các ống là các nút của đồ thị. Khả năng thông qua của các cung tường ứng với tiết diện các ống.Cần phải tìn luộng dầu lớn nhất có thể bơm từ dầu vào bể chứa. 3. Lát cắt. Đường tăng luồng . Định lý Ford- Fulkerson Định nghĩa 3. Ta gọi lát cắt (X,X*) là một cách phân hoạch tập đỉnh V của mạng ra thành hai tập X và X*=V \ X , trong đó s Î X và t Î X* . Khả năng thông qua của lát cắt (X,X*) là số Lát cắt với khả năng thông qua nhỏ nhất được gọi là lát cắt hẹp nhất. Bổ đề 1. giá trị của mọi luồng f trong mạng luôn nhỏ hơn bằng khả năng thông qua lát cắt (X,X*) bất kỳ trong nó : val(f) £ c(X,X*). Chứng minh. Cộng các điều kiện cân bằng luồng Divf(v) = 0 với mọi v Î X. Khi đó ta có Tổng này sẽ gồm các số hạng dạng f(u,v) với dấu cộng hoặc dấu trừ mà trong đó có ít nhất một trong hai đỉnh u, v phải thuộc tập X. Nếu cả hai đỉnh u, v đều trong tập X, thì f(u,v) xuất hiện với dấu cộng trong Divf(v) và có dấu trừ trong Divf(u). Vì thế, chúng triệt tiêu lẫn nhau. Do đó, sau khi giản ước các số hạng như vậy ở vế trái, ta thu được hay là Mặt khác từ điều kiện 1 rõ ràng là còn suy ra val(f) £ c(X,X*). Bổ đề được chứng minh. Từ bổ đề 1 suy ra Hệ quả 1. Giá trị luồng cực đại trong mạng không vượt quá khả năng thông qua của lát cắt hẹp nhất trong mạng. Ford và Fulkerson đã chứng minh rằng giá trị luồng cực đại trong mạng đúng bằng khả năng thông qua của lát cắt hẹp nhất. Để có thể phát biểu và chứng minh kết quả này chúng ta sẽ cần thêm một số khái niệm. Giả sử f là một luồng trong mạng G = (V,E). Từ mạng G = (V,E) ta xây dựng đồ thị có trọng số trên cung Gf =(V,Ef) , với tập cung Ef và trọng số trên các cung được xác định theo quy tắc sau: 10     Nếu e = (v,w) Î E với f(v,w) = 0, thì (v,w)Î Ef với trọng số c(v,w); 20     Nếu e = (v,w) Î E với f(v,w) = c(v,w), thì (w,v)Î Ef với trọng số f(v,w); 30     Nếu e = (v,w) Î E với 0 <f(v,w) < c(v,w), thì (v,w)Î Ef với trọng số c(v,w) - f(v,w) và (w,v) Î Ef với trọng số f(v,w). Các cung của Gf đồng thời cũng là cung của G được gọi là cung thuận, các cung còn lại gọi là cung nghịch. Đồ thị Gf được gọi là đồ thị tăng luồng. Thí dụ: Các số viết cạnh các cung của G ở hình 1 theo thứ tự là khả năng thông qua và luồng trên cung. c s s 1 1 2 t 3 3 b 1 d 2 2 1 2 e 3 1 3,3 b 3,2 d 4,2 t 3,2 e 3,0 c 4,1 2,2 Hình 1. Mạng G và luồng f. Đồ thị có trọng số Gf tương ứng. Giả sử P = (s = v0,v1,v2,… ,vk= t) là một đường đi từ s đến t trên đồ thị tăng luồng Gf . Gọi d là giá trị nhỏ nhất của các trọng số của các cung trên đường đi P . Xây dựng luồng f ‘ trên mạng G theo quy tắc sau: f(u,v) + d , nếu (u,v) Î P là cung thuận f ‘(u,v) = f(u,v) - d , nếu (u,v) Î P là cung nghịch f(u,v), nếu (u,v) Ï P Dễ dàng kiểm tra được rằng f‘ được xây dựng như trên là luồng trong mạng và val(f ‘)= val(f) + d . Ta sẽ gọi thủ tục biến đổi luồng vừa nêu là tăng luồng dọc theo đường P. Định nghĩa 4. Ta gọi đường tăng luồng f là mọi đường đi từ s đến t trên đồ thị tăng luồng G(f). Định lý 1. Các mệnh đề dưới đây là tương đương: (i) f là luồng cực đại trong mạng: (ii) Không tìm được đường tăng luồng f: (iii) val(f) = c(X,X*) với mọi lát cắt (X,X*) nào đó. Chứng minh. (i) => (ii). Giả sử ngược lại, tìm được đường tăng luồng P. Khi đó ta có thể tăng giá trị luồng bằng cách tăng luồng dọc theo đường P. Điều đó mâu thuẫn với tính luồng cực đại của luồng f. (ii) => (iii). Giả sử không tìm được đường tăng luồng. Ký hiệu X là tập tất cả các đỉnh s trong đó đồ thị Gf, và đặt X* = V\X. Khi đó (X,X*) là lát cắt, và f(v,w)=0 với mọi vÎ X*, wÎ X nên  Với vÎX, wÎX*. do (v, w) Ï Gf , nên f(v, w) = c(v, w). Vậy   (iii) =>(i). Theo bổ đề 1, val(f) £ c(X,X*) với mọi luồng f và với mọi lát cắt (X,X*). Vì vậy, từ đẳng thức val(f) = c(X,X*) suy ra luồng f là luồng cực đại trong mạng. 4. Thuật toán Ford – Fulkerson tìm luồng cực đại trong mạng Định lý 1 là cơ sở xây dựng thuật toán lặp sau đây để tìm luồng cực đại trong mạng: Bắt đầu từ luồng với luồng trên tất cả các cung bằng 0 ( ta sẽ gọi luồng như vậy là luồng không ), và lặp lại bước lặp sau đây cho đến khi thu được luồng mà đối với nó không còn luồng tăng: Thuật toán Ford – Fulkerson 10 Xuất phát từ một luồng chấp nhận được f. 20 Tìm một đường đi tăng luồng P. Nếu không có thì thuật toán kết thúc. Nếu có, tiếp bước 3 dưới đây. 30 Nếu d(P) = +¥ thuật toán kết thúc. Trong đó d(P) - Lượng luồng tăng thêm, hay nói khác là làm sự tăng luồng (flow augmentation) dọc theo đường đi tăng luồng P một lượng thích hợp mà các ràng buộc của bài toán vẫn thoả. Cách tìm đường đi tăng luồng. Ta sử dụng thuật toán gán nhãn có nội dung như sau. Một đường đi P thoả mãn về đường đi tăng luồng, nhưng chỉ đi từ s đến k nào đó (chưa tới t, nói chung) sẽ được gọi là đường đi chưa bão hoà (unsaturated path). Ta nói đỉnh u là đã đánh dấu (u is labeled) nếu ta biết là có một đường đi chưa bão hoà từ s tới u. Bây giờ ta sẽ xét tất cả các đỉnh v có nối trực tiếp đến đỉnh u (sẽ gọi là ở cạnh đỉnh u) xem chúng có thể được gán nhãn hay không khi u đã gán nhãn. Việc này được gọi là thăm (scanning) đỉnh u. Nếu (u,v) có luồng trên cung F(u,v) < C(u,v) thì ta có thể nối thêm cung (u,v) và đường đi chưa bão hoà P từ s đến u để được đường đi chưa bão hoà tới v. Vậy v có thể gán nhãn. Bước lặp tăng luồng ( Ford - Fulkerson): Tìm dường tăng P đối với luồng hiện có. Tăng luồng dọc theo đường P. Khi đã có luồng cực đại, lát cắt hẹp nhất có thể tìm theo thủ tục mô tả trong chứng minh định lý 1. Sơ đồ của thuật toán Ford – Fulkerson có thể mô tả trong thủ tục sau đây: Procedure Max_Flow; (* Thuật toán Ford – Fulkerson *) begin (* Khởi tạo: Bắt đầu từ luồng với giá trị 0 *) for u Î V do for v Î V do f(u,v):=0; Stop:=false; While not Stop do if then else Stop:= true; end; Để tìm đường tăng luồng trong Gf có thể sử dụng thuật toán tìm kiếm theo chiều rộng ( hay thuật toán tìm kiếm theo chiều sâu) bắt đầu từ đỉnh s, trong đó không cần xây dựng tường minh đồ thị Gf. Ford- Fulkerson đề nghị thuật toán gán nhãn chi tiết sau đây để giải bài toán luồng trong mạng. Thuật toán bắt đầu từ luồng chấp nhận được nào đó trong mạng ( có thể bắt đầu từ luồng không) sau đó ta sẽ tăng luồng bằng cách tìm các đường tăng luồng. Để tìm đường tăng luồng ta sẽ áp dụng phương pháp gán nhãn cho các đỉnh. Mỗi đỉnh trong quá trình thực hiện thuật toán sẽ ở một trong ba trạng thái: chưa có nhãn, có nhãn chưa xét, có nhãn đã xét. Nhãn của một đỉnh v gồm 2 phần và có một trong hai dạng sau: [+p(v), e(v)] hoặc [-p(v), e(v) ]. Phần thứ nhất +p(v) (-p(v)) chỉ ra là cần tăng (giảm) luồng theo cung (p(v),v) cung (v,p(v)) còn phần thứ hai e(v) chỉ ra lượng lớn nhất có thể tăng hoặc giảm theo cung này. Đầu tiên chỉ có đỉnh s được khởi tạo nhãn và nhãn của nó là chưa xét, còn tất cả các đỉnh còn lại đều chưa có nhãn . Từ s ta gán cho tất cả các đỉnh kề với nó và nhãn của đỉnh s sẽ trở thành nhãn đã xét. Tiếp theo, từ mỗi đỉnh v có nhãn chưa xét ta lại gán nhãn cho tất cả các nhãn chưa có nhãn kề với nó và nhãn của đỉnh v trở thành nhãn đã xét. Quá trình sẽ được lặp lại cho đến khi hoặc là đỉnh t trở thành có nhãn hoặc là nhãn của tất cả các đỉnh có nhãn đều là đã xét nhưng đỉnh t vẫn chưa có nhãn. Trong trường hợp thứ nhất ta tìm được đường tăng luồng, còn trong trường hợp thứ hai đối với luồng đang xét không tồn tại đường tăng luồng ( tức là luồng đã là cực đại ). Mỗi khi tìm được đường tăng luồng, ta lại tăng luồng theo đường tìm được, sau đó xoá tất cả các nhãn và đối với luồng mới thu được lại sử dụng phép gán nhãn các đỉnh để tìm đường tăng luồng. Thuật toán sẽ kết thúc khi nào đối với luồng đang có trong mạng không tìm được đường tăng luồng. Thuật toán gán nhãn (The labeling algorithm) Gọi VT là tập mọi đỉnh đã gán nhãn nhưng chưa được thăm. Ta có thuật toán để tìm đường đi tăng luồng. Xuất phát với VT = {s} và s là nút đã đánh dấu duy nhất. Một bước lặp sẽ có VT hiện hành và gồm ba bước như sau. 10 Nếu t Î VT hoặc VT = Æ, thuật toán kết thúc. Ngược lại thì chọn một đỉnh u Î VT để thăm và đưa nó ra khỏi VT. Xét tất cả các đỉnh cạnh u, tức là xét mọi cung có dạng (u,v) và (v,u). 20 Nếu (u,v) Î E, F(u,v) < C(u,v) và v chưa gán nhãn thì gán nhãn nó và đưa v vào tập VT. 30 Nếu (v,u) Î E, F(v,u) > 0 và v chưa gán nhãn thì gán nhãn nó và đưa vào tập VT. Bây giờ ta xét kết quả của thuật toán gán nhãn. Nó có kết thúc hữu hạn hay không? Nhận xét rằng một đỉnh được vào tập VT chỉ khi chuyển từ chưa gán nhãn. Do đó một đỉnh chỉ được vào VT nhiều nhất là một lần. Mà mỗi bước lặp bỏ một đỉnh ra khỏi VT. Do đó, vì số đỉnh của mạng là hữu hạn, thuật toán phải kết thúc hữu hạn. Thí dụ 1. Áp dụng thuật toán Ford-Fullkerson tìm luồng cực đại bằng cách gán nhãn cho đỉnh của mạng G với luồng f được cho như Hình 1, hai số viết bên cạnh mỗi cung là khả năng thông qua và luồng của các cung. Kết quả các bước của thuật toán mô tả bởi các đồ thị và bảng dưới đây. Mạng với luồng cực đại thu được ở Hình 2. Lát cắt bé nhất là X = {s,c}, X* = {b,d,e,t} và giá trị luồng cực đại là 9. 3,0 3,1 c e t d b 5,2 1,1 6,1 6,5 6,4 5,4 s Hình 1 + Bước lặp 1: s ® b ® d ® t, d1 = 1 3,0 3,1 c(s+,3) e(b+,1) t(d+,1) d(b+,1) b(s+,1) 5,2 1,1 6,1 6,5 6,4 5,4 s (s,¥) d b 3,0 3,1 c e t 5,2 1,1 6,1 6,6 6,5 5,5 s d b 3,2 3,3 c e t 5,4 1,1 6,3 6,6 6,3 5,5 s + Bước lặp 2: s ® c ® d ® b ® e ® t, d2 = 2 3,0 3,1 c(s+,3) e(b+,2) t(e+,2) d(c+,2) b(d-,2) 5,2 1,1 6,1 6,6 6,5 5,5 s (-,¥) + Bước lặp 3: Không còn đường tăng luồng, Val(fmax) = 5+4 = 9 d b 3,2 3,3 c e t 5,4 1,1 6,3 6,6 6,3 5,5 s Hình 2. Mạng G với luồng cực đại và lát cắt hẹp nhất Lặp Đỉnh xét b c d e t Đường tăng luồng Giá trị tăng luồng d 1 s s+,1 S+,3 b b+,1 b+,1 c d d+,1 sbd t 1 2 s S+,3 c c+,2 d d-,2 b b+,2 e e+,2 scdbet 2 3 s S+,1 Bảng kết quả của thuật toán Ford-Fullkerson Thí dụ 2. Áp dụng thuật toán Ford-Fullkerson tìm luồng cực đại bằng cách gán nhãn cho luồng zero sau: 7,0 4,0 12,0 3,0 4,0 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,0 c d e t b s a + Bước lặp 1: s ® a ® b ® t, d1 = 1 c(s+,4) 7,0 4,0 12,0 3,0 4,0 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,0 d(s+,7) e(d+,4) t(e+,2) b(a+,6) s (s,¥) a(s+,6) 7,4 4,4 12,0 3,0 4,0 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,4 c d e t b s a + Bước lặp 2: s ® a ® b ® c ® e ® t, d2 = 2 c(b+,2) 7,4 4,4 12,0 3,0 4,0 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,4 d(s+,7) e(c+,2) t(e+,2) b(a+,2) s (s,¥) a(s+,2) c 7,6 4,4 12,2 3,2 4,2 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,6 d e t b s a c(s+,4) 7,6 4,4 12,2 3,2 4,2 5,0 9,0 5,0 7,0 4,0 6,6 d(s+,7) e(c+,1) t(e+,1) b(a+,1) s (s,¥) a(s+,0) + Bước lặp 3: s ® c ® e ® t, d3 = 1 c 7,6 4,4 12,3 3,3 4,2 5,0 9,0 5,0 7,0 4,1 6,6 d e t b s a + Bước lặp 4: s ® d ® e ® t, d4 = 7 c(s+,3) 7,6 4,4 12,3 3,3 4,2 5,0 9,0 5,0 7,0 4,1 6,6 d(s+,7) e(d+,7) t(e+,7) b(a+,1) s (s,¥) a(s+,0) c 7,6 4,4 12,10 3,3 4,2 5,0 9,7 5,0 7,7 4,1 6,6 d e t b s a + Bước lặp 5: s ® c ® d ® e ® t, d5 = 2 c(s+,3) 7,6 4,4 12,10 3,3 4,2 5,0 9,7 5,0 7,7 4,1 6,6 d(c+,3) e(d+,2) t(e+,2) b(a+,1) s (s,¥) a(s+,0) c 7,6 4,4 12,12 3,3 4,2 5,0 9,9 5,2 7,7 4,3 6,6 d e t b s a + Bước lặp 6: Không còn đường tăng luồng nữa, Val(fmax) = 6+3+7 = 16. Sơ đồ thuật toán Ford-Fullkerson tổng quát False True False True Begin Mạng với luồng zero Stop:= False not Stop Find_Path Path-Found Tăng luồng Stop:= False Mạng với luồng cực đại End Sơ thuật toán Find_Path (Chi tiết) { Trả về TRUE nếu có đường tăng luồng } False False True False True False True C[u,v] >0 and (F[u,v]<C[u,v]) True Begin VT ¹ Æ u Ü VT; PathFound:= True v= t P[v]:= u; e[v]:=min{e[u],C[u,v]-F[u,v]} VT:= VT È {v} P[t]:= s ; e[t]:= +¥ VT = V\{s} For vÎV\VT C[v,u]>0 and F[v,u]>0 P[v]:= -u; e[v]:= min{e[u],F[v,u]} VT:= VT È {v} End False End PathFound:= False True v= t End Sơ đồ thuật toán tăng luồng (Inc_Flow) { Tăng luồng nếu có đường tăng } False False True True Begin f[v,u]:=f[v,u] + tang u:=v; v:=P[u] End u ¹ s v > 0 v:= -v f[v,u]:=f[v,u] - tang v:= P[t] ; u:= t ; tang:= e[t] Hai thủ tục Tìm đường tăng luồng và Tăng luồng có thể mô tả bởi chương trình như sau. Procedure Find_Path; (* thủ tục gán nhãn tìm đường tăng luồng p[v], e[v] là nhãn của đỉnh v; VT – danh sách các đỉnh nhưng chưa xét; c[u,v]- khả năng thông qua của cung (u,v),u,v Î V; f[u,v]- luồng trên cung (u,v),(u,v Î V ) *) begin p[s]:=s; e[s]:= +¥; VT= V\{s}; PathFound:=true; While VT¹ Æ do Begin u<= VT; (* Lấy u từ VT *) for v Î V\VT do begin if (c[u,v]>0) and (f[u,v]< c[u,v]) then begin p[v]:= u; e[v]:= min { e[u],c[u,v] – f[u,v]}; VT = VT È {v}; (* Nạp v vào danh sách đỉnh có nhãn *) If v=t then exit; end; if (c[v,u]>0) and (f[v,u]>0) then begin p[v]:= -u; e[v]:= min {e[u],f[v,u]}; VT = VT È {v}; (* Nạp v vào danh sách đỉnh có nhãn *) If v=t then exit; end; end; PathFound:= false; end; procedure Inc_Flow; (* Tăng luồng theo đường tăng *) begin v:=p[t]; u:=t; tang:= e[t]; while u ¹s do begin if v>0 then f[v,u]:= f[v,u] + tang; else begin v:= -v; f[u,v]:= f[u,v] – tang; end; u:= v; v:= p[u]; end; end; Thuật toán Ford- Fulkerson được thực hiện nhờ thủ tục: Procedure Max_Flow; (* Thuật toán Ford- Fulkerson *) begin (* Khởi tạo: Bắt đầu từ luồng với giá trị 0 *) for u Î V do for v Î V do f[u,v]:=0; Stop:=false; While not Stop do begin Find_Path; If PathFound then Inc_Flow Else Stop:=true; end; end; Giả sử khả năng thông qua của tất cả các cung của đồ thị là các số nguyên. Khi đó sau mỗi lần tăng luồng, giá trị luồng sẽ tăng lên ít nhất là 1. Từ đó suy ra thuật toán Ford- Fulkerson sẽ dừng không quá val(f*) lần tăng luồng và cho ta luồng cực đại trong mạng. Đồng thời, rõ ràng f*(u,v) sẽ là số nguyên đối với mỗi cung (u,v)Î E. Từ đó ta có kết quả sau: Định lý 2 (Định lý về luồng cực đại trong mạng và lát cắt hẹp nhất). Luồng cực đại trong mạng bằng khả năng thông qua của lát cắt hẹp nhất. Định lý 3. (Định lý về tính nguyên). Nếu tất cả các khả năng thông qua là các số nguyên thì luôn tìm được luồng cực đại với luồng trên các cung là các số nguyên. Tuy nhiên, nếu các khả năng thông qua là các số rất lớn thì giá trị luồng cực đại cũng có thể là rất lớn và khi đó thuật toán mô tả ở trên sẽ đòi hỏi rất nhiều bước tăng luồng. Thí dụ trong hình 2 sẽ minh hoạ cho điều này. Hình 2(a) mô tả mạng cần xét với khả năng thông qua trên các cung. Hình 2(b) mô tả luồng trên các cung (số thứ hai bên cạnh cung ) sau khi thực hiện tăng luồng dọc theo đường tăng luồng (s,a,b,t). Hình 2(c) mô tả luồng trên các cung sau khi thực hiện tăng luồng dọc theo đường tăng luồng (s,b,a,t). Rõ ràng, sau 2.106 lần tăng luồng theo đường (s,b,a,t) và (s,b,a,t) một cách luân phiên ta thu được luồng cực đại. s t 106 106 106 106 1 b a (a) s t 106,0 106,1 106,1 106,0 1,1 b a (b) s t 106,1 106,1 106,1 106,1 1,0 b a (c) Hình 2. Ví dụ tồi tệ với thuật toán Ford- Fulkerson. Hơn thế nữa nếu các khả năng thông qua là các số vô tỷ, người ta còn xây dựng được ví dụ để cho thuật toán không dừng, và tệ hơn là dãy các giá trị luồng xây dựng theo thuật toán hội tụ thì nó còn không hội tụ đến giá trị luồng cực đại. Như vậy, muốn thuật toán làm việc hiệu quả, việc lựa chọn đường tăng luồng cần được tiến hành hết sức cẩn thận. Edmonds và Karp chỉ ra rằng nếu đường tăng luồng được chọn là đường ngắn nhất từ s đến t trên đồ thị Gf . Điều đó có thể thực hiện, nếu trong thủ tục tìm đường tăng Find_Path mô tả ở trên, danh sách VT được tổ chức dưới dạng QUEUE ( nghĩa là ta thực hiện tìm đường tăng bởi thủ tục tìm kiếm theo chiều rộng) thì thuật toán sẽ kết thúc sau không quá mn/2 lần sử dụng đường tăng luồng. Nếu để ý rằng, tìm kiếm theo chiều rộng trên đồ thị đòi hỏi thời gian O(n+m), thì thuật toán thu được sẽ có độ phức tạp tính toán là O(nm2). Nhờ cách tổ chức tìm đường tăng khéo léo hơn, người ta đã xây dựng được thuật toán với độ phức tạp tính toán tốt hơn như: O(n2m) (Dinic, 1970), O(n3) (Karzanov, 1974), O(n2m1/2) ( Cherkasky, 1977), O(nm log n) (Sleator- Tarjan,1980). II. BÀI TOÁN LUỒNG CỰC ĐẠI VỚI KHẢ NĂNG THÔNG QUA CÁC CUNG – CÁC ĐỈNH 1.Bài toán Giả xử trong đồ thị G = (V,E), ngoài khả năng thông qua của các cung c(u,v), ở mỗi đỉnh v Î V còn có khả năng thông qua của đỉnh là d(v), và đòi hỏi tổng luồng đi vào đỉnh v không còn vượt quá d(v), tức là Cần phải tìm luồng cực đại giữa s và t trong mạng như vậy. Xây dựng một mạng G’ sao cho: mỗi đỉnh v của G tương ứng với hai đỉnh v+, v- trong G’, mỗi cung (u,v) trong G ứng với cung (u,v+) trong G’, mỗi cung (v,w) trong G ứng với cung (v-,w+) trong G’. Ngoài ra, mỗi cung (v+,v-) trong G’ có khả năng thông qua là d(v), tức là bằng khả năng thông qua của đỉnh v trong G. 2. Giải quyết bài toán Từ mạng G = (V,E) khả năng thông qua các cung và các đỉnh. Ta sẽ giải quyết theo hai bước sau: 10 Xác định mạng G’. 20 Tìm luồng cực đại trong mạng G’. Bắt đầu từ luồng zero với khả năng thông qua cung. Thí dụ 1. C[u,v] C[v,t] C[s,v] C[u,t] C[s,u] t dt v dv u du s ds (a) C[v,t] C[u,t] C[s,v] C[s,u] t- dt t+ C[u,v] v- dv v+ u- du u+ s- ds s+ (b) Hình 1. Hình 1a cho ví dụ mạng G với khả năng thông qua ở cung và đỉnh. Hình 1b là mạng G’ tương ứng chỉ có khả năng thông qua ở các cung. Do luồng đi vào đỉnh v+ phải đi qua cung (v+,v-) với khả năng thông qua d(v), nên luồng cực đại trong G’ sẽ bằng luồng cực đại trong G với khả năng thông qua của các cung và đỉnh. Thí dụ 2. Xác định mạng G’ từ mạng G được cho như sau: s[7] 1 3 2 4 5 t[6] v[8] u[6] Hình 2. Mạng G với khả năng thông qua các cung và đỉnh t- 6 t+ 4 3 1 v- 8 v+ u- 6 u- 5 s- 7 2 s+ Hình 3. Mạng G’ tương ứng với khả năng thông qua các cung. 3. Một số bài toán tối ưu tổ hợp ứng dụng từ bài toán luồng Bài toán luồng cực đại có rất nhiều ứng dụng trong việc giải nhiều bài toán tổ hợp. Khó khăn chính ở đây là phải xây dựng tương ứng sao cho việc tìm luồng cực đại trong nó sẽ tương đương với việc giải bài toán đặt ra. Mục này sẽ giới thiệu một số bài toán như vậy. 3.1. Bài toán đám cưới vùng quê Có m chàng trai ở một làng quê nọ. Đối với mỗi chàng trai ta biết các cô gái mà anh ta vừa ý. Hỏi khi nào thì có thể tổ chức các đám cưới trong đó chàng trai nào cũng sánh duyên với cô gái mà mình vừa ý. Ta có thể xây dựng đồ thị với các đỉnh biểu thị các chàng trai và các cô gái, còn các cung biểu thị sự vừa ý của các chàng trai đối với các cô gái. Khi đó ta thu được một đồ thị hai phía. Thí dụ. Có 4 chàng trai {T1,T2,T3,T4} và 5 cô gái {G1,G2,G3,G4,G5}. Sự vừa ý cho trong bảng sau Chàng trai Các cô gái mà chàng trai ưng ý T1 G1, G4, G5 T2 G2 T3 G2, G3, G4 T4 G2, G4 Đồ thị tương ứng được cho trong hình 7. G1 s t G4 G3 G2 T4 T3 T2 T1 Hình 7. Mạng tương ứng với Bài toán đám cưới vùng quê Đưa vào điểm phát s và điểm thu t. Nối s với tất cả các đỉnh biểu thị các chàng trai, và nối t với tất cả các đỉnh biểu thị các cô gái. Tất cả các cung của đồ thị đều có khả năng tông qua bằng 1. Bắt đầu từ luồng 0, ta tìm luồng cực đại trong mạng xây dựng được theo thuật toán Ford- Fulkerson. Từ định lý về tính nguyên, luồng trên các cung là các số 0 hoặc 1. Rõ ràng là nếu luồng cực đại trong đồ thị có giá trị Vmax = m, thì bài toán có lời giải, và các cung với luồng bằng 1 sẽ chỉ ra cách tổ chức đám cưới thoả mãn điều kiện đặt ra. Ngược lại, nếu bài toán có lời giải thì Vmax=m. bài toán về các đám cưới vùng quê là một trường hợp riêng của bài toán về cặp ghép trên đồ thị hai phía mà để giải nó có thể xây dựng thuật toán hiệu quả hơn. 3.2. Bài toán về hệ thống đại diện chung Cho tập m phần tử X = {z1,z2,…,zm} Giả sử và là hai dãy tập con của X . Dãy gồm n phần tử khác nhau của X: được gọi là hệ thống các đại diện chung của hai dãy đã cho nếu như tìm được một hoán vị s của tập {1,2,…,n} sao cho là hệ thống các đại diện phân biệt của hai dãy và tức là điều kiện sau được thoả mãn: ai Î Ai Ç Bs(i), i =1,2,…,n. Xây dựng mạng G=(V,E) với tập đỉnh Trong đó đỉnh xi tương ứng với tập Ai đỉnh yi tương ứng với đỉnh Bi ,các phần tử ui,vi tưong ứng với phần tử zj . Tập các cung mạng của G được xác định như sau với với Khả năng thông qua của tất cả các cung được đặt bằng 1. Dễ dàng thấy rằng hệ thống đại diện chung của hai dãy và tồn tại khi và chỉ khi trong mạng G = (V,E) tìm được luồng với giá trị n. Để xét sự tồn tại của luồng như vậy có thể sử dụng thuật toán tìm luồng cực đại từ s đến t trong mạng G = (V,E). 3.3. Về một bài toán tối ưu rời rạc. Trong mục này ta sẽ trình bày thuật toán được xây dựng dựa trên thuật toán tìm luồng cực đại để giải một bài toán tối ưu rời rạc là mô hình toán học cho một số bài toán tối ưu tổ hợp. Xét bài toán tối ưu rời rạc (1) với điều kiện (2) xij = 0 hoặc 1, j=1,2,…,n (3) trong đó aij Î {0,1}, i= 1,2,…,m; j= 1,2,…,n, pi - nguyên dương, i=1,2,…,m. Bài toán (1)-(3) là mô hình toán học cho nhiều bài toán tối ưu tổ hợp thực tế. Dưới đây ta dẫn ra một vài ví dụ điển hình. 3.3.1 Bài toán phân nhóm sinh hoạt Có m sinh viên và n nhóm sinh hoạt chuyên đề. Với mỗi sinh viên i, biết aij =1, nếu sinh viên có i nguyện vọng tham gia vào nhóm j, aij =0, nếu ngược lại, và pi là số lượng nhóm chuyên đề mà họ có nguyện vọng tham gia và đảm bảo mỗi sinh viên i phải tham gia đúng pi nhóm, hãy tìm cách phân phối với số người trong nhóm có nhiều sinh viên tham gia nhất là nhỏ nhất có thể được. Đưa vào biến số xij =1, nếu sinh viên i tham gia vào nhóm j, xij =0, nếu ngược lại, i=1,2,…,m, j= 1,2,…,n, khi đó dễ thấy mô hình toán học cho bài toán đặt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTotNghiep1.doc
  • pptBAOCAO.ppt
  • rarLVTOTNGHIEP.rar
  • docNDbaove.doc