Đồ án Công tác đoán đọc điều vẽ trong quy trình thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ 1:10000 bằng ảnh hàng không

MỤC LỤC

 Trang

Lời nói đầu

Chương I: Khái quát chung về bản đồ và bản đồ địa hình 1

1.1 . Khái niệm chung về bản đồ 3

1.2. Một số vấn đề chung về bản đồ địa hình 3

1.3. Mục đích sử dụng và các yêu cầu của bản đồ địa hình 3

1.4. Cơ sở toán học của bản đồ địa hình 4

1.5. Nội dung của bản đồ địa hình. 11

1.6. Các phương pháp thành lập bản đồ 13

1.7. Quy trình công nghệ thành lập bản đồ địa hình bằng ảnh hàng không. 17

Chương II: Các vấn đề chung về công tác đoán đọc điều vẽ 23

2.1. Mở đầu. 24

2.2. Các chuẩn của đoán đọc điều vẽ. 24

2.3. Các cơ sở của đoán đọc điều vẽ ảnh. 26

2.4. Các phương pháp đoán đọc điều vẽ. 33

2.5. Một số vấn đề kỹ thuật liên quan đến đoán đọc điều vẽ 39

thành lập bản đồ địa hình 1:10.000.

Chương III: Phần thực nghiệm 41

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Công tác đoán đọc điều vẽ trong quy trình thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ 1:10000 bằng ảnh hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp tăng dày chủ yếu là phương pháp mô hình và chùm tia, chúng được thể hiện bằng 2 công nghệ tăng dày: giải tích và ảnh số. 1.7.1.6. Đo vẽ địa hình, địa vật trên máy. Hiện nay ở một số cơ sở sản xuất của nước ta đã có các trạm đo ảnh số của các hãng Intergraph, Photomod, 3D mapper… Quá trình đo vẽ trên trạm gồm các bước sau: * Định hướng trong. Mục đích là chuyển toạ độ hàng cột của pixel về toạ độ phẳng của ảnh. Có thể tiến hành định hướng trong ảnh đầu và ảnh cuối dảI bay, các ảnh còn lại được định hướng tự động. * Định hướng tương đối. Chọn sơ đồ các điểm phụ thuộc vào yêu cầu của từng trạm ảnh số mà chúng ta sử dụng(6,9,12 điểm). Tiến hành đo toạ độ và thị sai của các điểm trong vùng chuẩn. Sau đó máy tính sẽ thực hiện định hướng tương đối, cuối cùng cho ra kết quả về giá trị và độ chính xác các nguyên tố định hướng tương đối cũng như các điểm đo đúng, đo sai. Kiểm tra và loại bỏ các điểm đo sai lớn, đo bổ sung và tiến hành định hướng lại. * Định hướng tuyệt đối. Đo toạ độ mô hình của các điểm khống chế ảnh trên mô hình và dựa vào toạ độ độ cao tăng dày của chúng để thực hiện qui trình định hướng tuyệt đối. Kết quả cho ra giá trị và độ chính xác các nguyên tố định hướng tuyệt đối. * Công tác vẽ mô tả các yếu tố đặc trưng của địa hình như: các yếu tố dạng điểm,dạng đường và dạng vùng sẽ tiến hành. Sau đó thành lập mô hình số địa hình rồi thực hiện nội suy đường bình độ tự động, kết hợp với các tài liệu điều vẽ, chỉnh sửa các đường bình độ. Thành lập bình đồ ảnh trực giao như: nắn ảnh số, cắt ảnh và ghép ảnh. Tiếp đó số hoá chi tiết địa vật trên máy tính với sự trợ giúp của kết quả đoán đọc và điều vẽ ảnh. 1.7.1.7. Biên tập bản đồ. Đây là công đoạn hoàn thiện cuối cùng trước khi nộp sản phẩm. Tiến hành ghép các yếu tố địa hình và địa vật vào cùng một môi trường rồi tiến hành chỉnh sửa các đường bình độ cắt ngang qua nhà cửa, đường xá…Gắn tên thuộc tính cho các lớp địa vật như : tên suối, ao hồ… lên các ký hiệu bản đồ theo đúng tuy phạm. * Nhận xét. Nhìn qua quy trình công nghệ nêu trên ta có thể thấy rằng công tác đoán đọc và điều vẽ đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong quy trình công nghệ thành lập bản đồ địa hình bằng ảnh hàng không.Vì vậy e xin chọn công đoạn này làm nội dung chính cho đồ án tốt nghiệp của mình. chương II các vấn đề chung về công tác đoán đọc điều vẽ 2.1. Mở đầu. Ta biết rằng điều vẽ là một phần công việc quan trọng trong dây chuyền công nghệ thành lập bản đồ địa hình, để chuyển tải những nội dung và đối tượng cũng như các hiện tượng của bề mặt địa hình lên bản đồ dựa vào hình ảnh của nó được chụp trên ảnh và biểu diễn lên bản đồ bằng các ký hiệu quy ước. Quá trình điều vẽ được thể hiện chủ yếu ở nội nghiệp, có nhiệm vụ phát hiện trên bản đồ những yếu tố, những đối tượng, những biến đổi xảy ra hoặc do thể hiện sai. Đồng thời phải phát hiện và ghi nhận những yếu tố, đối tượng mới xuất hiện. Với yêu cầu đảm bảo được tính chính xác và tính đầy đủ của thông tin. Đây là quá trình thể hiện tất cả các yếu tố nội dung bản đồ được thể hiện thông qua hệ thống ký hiệu, quy ước của quy phạm mà qua đó nói lên tính chất đối tượng và hiện tượng. Ngoài ra trong quá trình điều vẽ phải chỉ ra tất cả những đối tượng phải xác minh ngoại nghiệp về tính chất và đặc trưng của nó. Vì thế đoán đọc điều vẽ có vị trí khá quan trọng trong công tác thành lập bản đồ. 2.2. Các chuẩn của đoán đọc điều vẽ. Việc đoán đọc điều vẽ ảnh được tiến hành theo các chuẩn đoán đọc điều vẽ trực tiếp, gián tiếp, tổng hợp và các tài liệu bổ sung có ý nghĩa bản đồ. 2.2.1. Chuẩn đoán đọc điều vẽ trực tiép. 2.2.1.1. Chuẩn hình dáng. Đây là chuẩn đoán đọc điều vẽ trực tiếp cơ bản. Theo chuẩn này thì xác định được sự có mặt của địa vật và tính chất của địa vật đó. Việc quan sát bằng mắt, người đoán đọc điều vẽ trước tiên sẽ phát hiện ra chính diện của địa vật có trên ảnh. Trên ảnh bằng các địa vật được biểu thị bằng hình dáng như ở trên bản đồ tức là giữ nguyên tính đồng dạng với địa vật nhưng kích thước nhỏ hơn, phụ thuộc vào tỷ lệ ảnh, ở trên ảnh tính đồng dạng được bảo tồn, còn ở rìa ảnh các địa vật cao như ống khói nhà máy, nhà cao tầng được chụp lên trên ảnh với độ biến dạng có chiều hướng vào tấm ảnh. Có 2 loại hình dạng xác định và hình dạng không xác định. Hình dạng xác định là chuẩn đoán đọc điều vẽ tin cậy các mục tiêu nhân tạo vì chúng thường có ảnh với hình dạng hình học nhất định. Còn các địa vật tự nhiên thường có ảnh hình dạng không xác định thường là chuẩn đoán đọc điều vẽ không tin cậy. Ngoài ra người ta còn chia ra hình vết, hình tuyến, hình khối, hình phẳng. Hình tuyến có ý nghĩa rất quan trọng khi đoán đọc điều vẽ các địa vật hình tuyến như các yếu tố giao thông thuỷ lợi vì người ta có thể nhìn thấy chúng ngay cả trên ảnh tỷ lệ nhỏ. Đặc điểm của hình tuyến thường là chuẩn đoán đọc điều vẽ quan trọng. 2.2.1. 2. Chuẩn kích thước. Kích thước hình ảnh cũng là chuẩn đoán đọc điều vẽ trực tiếp, song ít chắc chắn hơn chuẩn hình dạng. Chuẩn kích thước dùng để điều vẽ các địa vật có cùng hình dạng. Chuẩn kích thước dùng để so sánh mối tương quan giữa các hình dạng đối tượng.Từ đó suy luận ra tính đặc trưng của chúng. 2.2.1.3. Chuẩn nền ảnh. Nền ảnh là độ hoá đen của phim chụp ở chỗ tương ứng của ảnh địa vật và sau này là độ đen trên ảnh. Độ đen là hàm logarit độ sáng của bề mặt địa vật được chụp ảnh. Cường độ khác nhau của tia sáng phản xạ từ vật chụp chiếu lên vật liệu ảnh sẽ làm hoá đen lớp nhũ ảnh ở mức độ khác nhau. Nũn ảnh của địa vật được chụp lên ảnh chủ yếu phụ thuộc vào : + Khả năng phản xạ của địa vật + Cấu trúc bề ngoài của địa vật : bề ngoài địa vật càng bóng,càng phẳng thì ảnh của nó càng sáng. + Độ nhạy của nhũ ảnh trên các vật liệu ảnh khác nhau sẽ tạo ra nền ảnh khác nhau. Ngay cả đối với cùng đối tượng chụp. + Độ ẩm của đối tượng chụp : Vởt có độ ẩm lớn hơn sẽ cho ta ảnh có nền màu thẫm hơn. 2.2.1.4. Chuẩn bóng. Bóng địa vật trên ảnh là chuẩn đoán đọc điều vẽ ngược, đôi khi chỉ có bóng mới cho phép ta xác địch tính chất của địa vật. Đôi khi bóng gây ảnh hưởng đến xấu cho việc đoán đọc điều vẽ, vì bóng làm che lấp các địa vật lân cận. * Có 2 loại bóng : Bóng bản thân và bóng đổ - Bóng bản thân là bóng nằm ngay tại chính bản thân địa vật đó,tức là phía địa vật không được chiếu sáng.Bóng bản thân làm nổi bật tính không gian của địa vật. - Bóng đổ là bóng do địa vật hắt xuống mặt đất hoặc hắt xuống địa vật khác. Bóng đổ có hình dạng quen thuộc của địa vật.Địa hình ảnh hưởng đến chiều dài của bóng.Độ tương phản giữa bóng và nền có thể lớn hơn độ tương phản của địa vật và nền. 2.2.2. Chuẩn đoán đọc điều vẽ gián tiếp. Chuẩn đoán đọc điều vẽ gián tiếp dùng để chỉ ra sự có mặt của các tính chất địa vật, không chỉ hiện trên ảnh hoặc không xác định được theo các chuẩn trực tiếp. Ví dụ : Đường ngầm xuyên núi được đón nhận theo chỗ gián đoạn hình ảnh của con đường khi xuyên qua núi hoặc dùng để khắc phục theo tính đa trị hay tính chất bất định của chuẩn trực tiếp. Các chuẩn này được xác định trên cơ sở mối quan hệ tương hỗ cho tính chất quy luật xuất hiện trong tự nhiên của địa vật hay một nhóm địa vật nào đó hay giữa cácc địa vật tự nhiên và kết quả hoạt động kinh tế của con người. Tính kéo theo theo tương ứng của địa vật này đối với địa vật khác ta có thể nhận biết trên hình ảnh. + Các địa vật mà theo chuẩn trực tiếp của chúng không thể nhận biết được vì chúng thể hiện không rõ ràng, không đầy đủ. + Các địa vật được chụp lên trên ảnh, nền màu. + Các địa vật bị các địa vật khác che lấp. Theo sự thay đổi tính chất của địa vật này do ảnh hưởng của một số địa vật khác, ta có thể đoán nhận : Các địa vật bị địa vật khác che khuất. Các địa vật không có trên mặt đất, nhưng có ảnh hưởng đến tính chất của địa vật ở trên chúng.Do đó làm cho chuẩn trực tiếp của địa vật này thay đổi. Vì vậy các địa vật dưới mặt đất có thể được xác định theo chuẩn trực tiếp của các địa vật che lấp chúng. 2.2.3. Các chuẩn đoán đọc điều vẽ tổng hợp. Chuẩn đoán đọc điều vẽ tổng hợp phản ánh cấu trúc của lãnh thổ tự nhiên là chuẩn ổn định và rõ ràng hơn chuẩn trực tiếp của các yếu tố địa vật. Người ta thành lập các chuẩn này trên cơ sở của phương pháp đoán đọc điều vẽ cảnh quan, cấu trúc của nền ảnh được hình thành từ: hình dáng, kích thước,diện tích,nền màu. Nền màu là đại lượng thay đổi thì hình dáng sẽ là chuẩn ổn định, chắc chắn hơn. Cấu trúc của hình ảnh là kiểu sắp xếp các yếu tố của ảnh theo một quy luật nhất định, phụ thuộc vào tính chất quang học, hình học của địa vật, thể hiện dưới các trường ngẫu nhiên của độ đen, thông qua các bậc nền ảnh khác nhau. 2.3. Các cơ sở của đoán đọc điều vẽ ảnh. 2.3.1. Cơ sở địa lý của đoán đọc điều vẽ ảnh. 2.3.1.1. Nghiên cứu địa lý các chuẩn đoán đọc điều vẽ. Các địa vật không phảI phân bố sắp xếp một cách tuỳ tiện mà theo một quy luật nhất định. Tập hợp có tính quy luật các địa vật tạo ra một quần thể lãnh thổ tự nhiên. Khi biết được tính quy luật của quần thể này ta có thể xác định được và sử dụng tốt nhất các chuẩn đoán học điều vẽ giáp tiếp và chuẩn đoán đọc điều vẽ tổng hợp. Vì vậy để điều vẽ đoán đọc được chính xác ta phải nghiên cứu kỹ các đặc điểm địa lý của quần thể. Tuy nhiên theo các tài liệu bay chụp, tài liệu bản đồ, tài liệu khảo sát ngoài trời và các tài liệu khác, theo các tài liệu này người ta phân vùng khu vực nghiên cứu và xác định những chuẩn đoán đọc điều vẽ cần dùng cho từng khu vực đó. Trong đó cảnh quan địa lý- đơn vị cơ bản của quần thể lãnh thổ tự nhiên là khu vực có nguồn gốc phát sinh và lịch sử phát triển, có cùng một cơ sở địa lý thống nhất, có một sự kết hợp giống nhau các điều kiện thuỷ văn, thổ lưỡng, có cùng một dạng địa hình, một điều kiện khí hậu một xã hội động vật và thực vật. Quần thể tự nhiên đơn giản nhất là tiểu cảnh khu. Trong phạm vi tiểu cảnh khu các điều kiện tự nhiên như khí hậu, nham thạch, dạng địa hình, xã hội thực vật hoàn toàn giống nhau và thống nhất. Quần thể lãnh thổ tự nhiên phức tạp hơn gồm các tiểu cảnh khu liên kết lại với nhau, gọi là cảnh khu. Đó là các bãi bồi, thung lũng, đầm lấy, các vùng hạ lưu bằng phằng. Thường cảnh khu dễ dàng đoán nhận ra trên ảnh theo cấu trúc địa mạo đặc trưng của chúng. Cảnh quan là tập hợp các cảnh khu giống nhau về quy luật, biết được các tính chất quang học của các phần riêng biệt ta có thể nghiên cứu tính chất quang học và địa mạo của tiểu khu cảnh quan, của cảnh quan. Do tác động của con người trong việc khai khẩn đất đai, do sự phá huỷ cảnh quan hệ tương đối bên trong nên khả năng đoán đọc điều vẽ sẽ bị giảm. Việc thay đổi lớp phủ thổ nhưỡng, thực vật hoàn toàn không làm thay đổi địa hình do vậy tính chỉ báo của địa hình vẫn được giữ nguyên. Vì địa hình trong phạm vi khu vực đo hẹp được thể hiện trên ảnh khá rõ, các này được sử dụng khi đoán đọc điều vẽ các vận động kiến tạo và các thành phần nham thạch vùng đồng bằng. Ranh giới vùng đất canh tác được chụp lên trên ảnh với nhiều hình dạng hình học khác nhau, làm phá vỡ tính chất toàn vẹn của việc cảm thụ, làm cho việc phân chia ranh giới tự nhiên của lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng, của quần thể lãnh thổ tự nhiên và làm cho việc đoán đọc điều vẽ khó hơn. Quần thể lãnh thổ tự nhiên được đặc trưng bằng hình ảnh riêng và theo dấu hiệu này ta dễ dàng xác định được chúng trên ảnh hàng không. Hình dáng của vi địa hình là dấu hiệu cơ bản của cảnh khu. Việc phân loại cảnh khu theo dạng địa hình là dấu hiệu cơ bản để phân loại cảnh khu một cách sơ bộ. Để đoán đọc điều vẽ cảnh khu không đứng riêng biệt trên ảnh theo các dấu hiệu này người ta sử dụng vi địa hình đặc trưng, các lưới sói mòn, các thay đổi có tính quy luật của lớp thổ nhưỡng thực vật, hình dáng, ngoại hình khu đo.Tất cả cái này tạo ra sự lặp lại của hình ảnh một cách đặc biệt Ví dụ: ở vùng đồng bằng ranh giới của quần thể lãnh thổ tự nhiên dưới điều kiện khí hậu như nhau được kiểm tra bằng ranh giới của việc tạo thành các cảnh khu. ở vùng núi do các đai khí hậu, các đai độ cao, do ảnh hưởng của chiếu sáng mối quan hệ giữa cấu trúc địa mạo của cảnh quan và cấu trúc địa chất được biểu thị bằng môí liên hệ phức tạp hơn, điều này dẫn đến sự hình thành các quần thể lãnh thổ tự nhiên khác nhau ngay trên một lớp nham thạch. Các chuẩn đoán đọc điều vẽ địa vật chỉ được xác định cho một khu vực điển hình nhất định. Các chuẩn này được tập hợp lại và đi kèm ảnh mẫu để đoán đọc điều vẽ một khu vực nhất định. 2.3.1.2. Các chỉ báo cấu trúc bên trong cảnh quan: Việc sử dụng các chuẩn đoán đọc điều vẽ tổng hợp phản ánh cấu trúc của cảnh quan là cơ sở của phương pháp đoán đọc điều vẽ chỉ báo, khi đó vật chỉ báo-các dấu hiệu dễ quan sát trên ảnh như lớp phủ thực vật, hình dạng địa hình, hệ thống thuỷ văn.... sẽ xác định rõ đặc tính của địa vật không sát được trên ảnh như nước ngầm, cấu trúc địa chất.... còn địa vật được chỉ báo là các địa vật khó quan sát và không quan sát được trên ảnh trực tiếp được nhưng nhờ sử dụng các quy luật chỉ báo nên dễ nhận biết, xác định dễ hơn. Quan hệ chỉ báo là quan hệ trừu tượng nhân tạo, là thành phần bên ngoài cảnh quan. Quan hệ tương hỗ bên trong của cảnh quan và quan hệ phụ thuộc giữa các thành phần bên ngoài của khu đo. Chẳng hạn như quan hệ giữa địa hình và thực vật, nước ngầm là cơ sở của việc đoán nhận nước ngầm theo chuẩn gián tiếp trên ảnh. Mối quan hệ tương hỗ chỉ có thể phát hiện khi phân tích một cách chi tiết các quy luật địa chất thuỷ văn, điều kiện hình thành nước ngầm, quá trình phát triển và chế độ nước ngầm. Đây là nội dung cơ bản của việc nghiên cứu chỉ báo thuỷ văn. - Theo quan hệ chỉ báo người ta chia làm 2 loại: chỉ báo trực tiếp và chỉ báo gián tiếp. + Loại chỉ báo trực tiếp có quan hệ trực tiếp với địa vật chỉ báo. + Loại chỉ báo gián tiếp có quan hệ gián tiếp với vật chỉ báo. - Theo dạng chỉ báo có thể chia ra: Chỉ báo thành phần và chỉ báo tổng hợp. + Chỉ báo thành phần đại diện cho một thành phần của cảnh quan (địa hình, thực vật) + Chỉ báo tổng hợp (còn gọi là chỉ báo cảnh quan) đại diện cho một tập hợp các thành phần của cảnh quan và lưu ý tới quan hệ không gian giữa chúng trên toàn lãnh thổ nghiên cứu. - Theo tính chất của địa vật được chỉ báo người ta chia ra: Chỉ báo địa chất và chỉ báo thạch học, chỉ báo Halô và chỉ báo thuỷ văn. + Chỉ báo địa chất đặc trưng cho điều kiện địa chất. + Chỉ báo thạch học đặc trưng cho thành phần thạch học địa tầng bề mặt. + Chỉ báo Halô đặc trưng cho dạng và mức độ hoá mặn của dạng đá mẹ bị phân hoá. + Chỉ báo thuỷ văn đặc trưng cho nước ngầm. Như ta đã biết địa hình là chỉ báo quan trọng cho cấu trúc bên trong cảnh quan. Đặc điểm của địa hình phụ thuộc vào quá trình hình thành địa hình, cấu trúc địa chất, nước mặn, nước ngầm, lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng và các yếu tố tự nhiên khác. Các chuẩn gián tiếp như đặc trưng của mạng lưới thuỷ văn, trầm tích, thực phủ cho phép ta đoán nhận hình dáng của địa hình có độ cao tương đối nhỏ. Ví dụ: Lưới sông ngòi hình tâm toả giúp ta phán đoán được sự có mặt của một vùng đất cao hình vòm, hay vùng đất lõm có quan hệ hoạt động núi lửa. Địa hình quyết định độ ẩm, điều kiện tưới tiêu, điều kiện bồi tụ các chất khoáng, chất hữu cơ, địa hình ảnh hưởng tới mực nước ngầm, tới cường độ của sự tạo dốc và hình thành thổ nhưỡng, thời gian chiếu sáng.Độ nghiêng nhỏ của sườn dốc, độ cao của địa hình đai cao được phản ánh bởi các lớp thực vật tương ứng có liên quan tới số năng lượng bức xạ mặt trời bởi mức độ bao phủ của lớp thổ nhưỡng và thành phần cơ học của chúng, ngoài ra hướng của địa hình cũng ảnh hưởng đến lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng. Trên ảnh hàng không địa hình có cấu trúc đặc trưng, nhờ dụng cụ lập thể ta nhìn thấy được độ sâu của địa hình, hướng của địa hình và độ sói mòn của chúng. Ngoài địa hình ra thực vật cũng là một chỉ báo quan trọng về cấu trúc bên trong của cảnh quan bởi thực vật chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện sinh trưởng như: thổ nhưỡng, độ ẩm, ánh sáng. Chẳng hạn trong điều kiện khí hậu, địa hình như nhau nhưng ở trên lớp đất thấm nước của túi nước ngầm thì cây cối tươi tốt, còn ở vùng lân cận thì cây cối khô cằn, chậm phát triển. Thuỷ văn cũng là vật chỉ báo về cấu trúc bên trong của cảnh quan do đặc tính hoạt động của sông, chế độ và quy luật vận động dòng chảy nên đặc điểm của địa hình, thổ nhưỡng và thực vật cũng thay đổi theo góc tạo bởi dòng chảy của suối phụ và suối chính ta có thể phán đoán độ dốc chung của địa hình. Góc càng nhọn thì mặt địa hình khu vực giữa suối chính và suối phụ càng dốc. Mối quan hệ chặt chẽ của thuỷ văn với địa hình cho phép ta sử dụng mạng cấu trúc lưới thuỷ văn như một chỉ báo khi đoán đọc điều vẽ địa chất địa mạo. Qua việc nghiên cứu khả năng của đoán đọc điều vẽ chỉ báo ta đi đến kết luận là các địa vật và hiện tượng của khu đo đều có những chỉ báo nhất định. Việc nghiên cứu những chỉ báo rất quan trọng, đặc biệt khi đoán đọc điều vẽ các địa vật, các hiện tượng không thể hiện trên ảnh như nước ngầm, địa hình, thổ nhưỡng dưới thảm thực vật... Do vậy khi đoán đọc điều vẽ phải nghiên cứu, phát hiện đầy đủ các quy luật của chỉ báo, quy luật phân bố của địa chất cũng như tập hợp các yếu tố cảnh quan, chỉ có nghiên cứu đầy đủ các quan hệ chỉ báo, quy luật phân bố của các địa vật mới đảm bảo chất lượng của việc đoán đọc điều vẽ ảnh. 2.3.1.3. Đoán đọc điều vẽ gián tiếp trên cơ sở mối quan hệ tương hỗ giữa các địa vật trên khu đo. Giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài của tập hợp tự nhiên cùng loài cũng có mối quan hệ tương hỗ nhất định, mối quan hệ tương hỗ đó được biểu thị bằng phần trăm, chỉ tiêu chất lượng của các yếu tố bên trong cảnh quan, xác định theo các chương trình tương quan lập từ các tham số đã biết và các ẩn số cần xác định. Chẳng hạn để phân biệt đất sét và đất mặn và đầm lầy khi đoán đọc điều vẽ trong một cảnh quan hoang mạc ta phải nghiên cứu quan hệ giữa chúng với địa hình theo bản đồ địa hình tỷ lệ lớn. Ta biết rằng đất sét luôn phân bố ở khu vực không có điều kiện thoát nước, đầm lầy thường phân bố ở các triền sông hay các chỗ trũng, còn đất mặn thường gặp ở khắp nơi, nhưng ở vùng đất trũng, các thung lũng hay gặp hơn theo vị trí tương đối của vùng đất thấp liên quan đến thuỷ văn, ta dễ dàng nhận biết. Như vậy ta có thể sử dụng chuẩn gián tiếp để nhận biết đất sét và đất mặn ở vùng trũng cùng với việc tăng độ dốc của sườn, điều kiện thoát nước sẽ tăng lên và điều kiện giữ mùn và độ ẩm giảm xuống, nó phản ánh đến đặc trưng của lớp phủ thực vật. 2.3.1.4.Đoán đọc điều vẽ trên cơ sở ảnh mẫu. Mẫu đoán đọc điều vẽ là hình ảnh điển hình của một khu đo nào đó đã được khảo sát và điều vẽ ngoài trời với một mức độ tin cậy nhất định, nó phản ánh toàn bộ hình ảnh địa vật trên ảnh trong điều kiện chụp ảnh xác định. Mẫu đoán đọc điều vẽ thường được thành lập từ các cặp ảnh lập thể. Mẫu hoá là chọn mẫu đoán đọc điều vẽ cho tất cả các địa vật cảnh quan có cấu trúc nền khác nhau. Việc đoán đọc điều vẽ các địa vật đồng loại trên các khu vực tương tự được tiến hành bằng cách so sánh ảnh chụp khu vực đó với ảnh mẫu theo phương pháp tương tự chứ không phải theo phương pháp đồng nhất. - Theo nội dung ta chia ra 2 loại: mẫu chuyên đề và mẫu tổng hợp + Mẫu chuyên đề chỉ chứa một yếu tố cảnh quan. Ví dụ: Chỉ riêng yếu tố thổ nhưỡng hay yếu tố thực vật. + Mẫu tổng hợp thường được đi kèm với mẫu khảo sát đa ngành tập hợp cảnh quan với độ chi tiết đồng đều hoặc với độ chi tiết khác nhau. - Theo nguyên tắc phân chia, người ta chia ra ảnh mẫu hệ thống và ảnh mẫu lãnh thổ. + ảnh mẫu hệ thống mô tả tính chất của các đối tượng riêng biệt theo một hệ thống nhất định trong một lĩnh vực khoa học nào đó. + ảnh mẫu lãnh thổ mô tả tính chất của tập hợp các yếu tố theo cảnh quan, cảnh khu. ảnh mẫu loại này được xây dựng theo hệ thống cảnh quan. - Theo công dụng người ta chia ra làm 2 loại ảnh mẫu: ảnh mẫu dùng chung và ảnh mẫu dùng riêng. + ảnh mẫu dùng chung được thành lập dưới dạng Albom và có thể sử dụng mọi trường hợp đoán đọc điều vẽ ảnh và cho công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật đoán đọc điều vẽ ảnh trên một khu vực nào đó. 2.3.2. Cơ sở sinh lý của đoán đọc điều vẽ. 2.3.2.1 Các quy luật thụ cảm thị giác và giới hạn thị giác. Đoán đọc điều vẽ ảnh là quá trình sinh học liên quan tới thụ cảm và phân tích thị giác gồm 3 phần. - Hệ thống thu nhận hình ảnh: Đầu dây thần kinh thị giác nằm trong võng mạc của mắt thu nhận kích thích và biến đổi tín hiệu ánh sáng của tác nhân kích thích. - Bộ truyền: Dây thần kinh thị giác truyền kích thích vào vỏ não con người. - Trung tâm của bộ phận phân tích thị giác: ở đây kích thích thần kinh được truyền thành thụ cảm thị giác và hình thành hình ảnh, mắt người thực hiện chức năng quan trọng khi đoán đọc điều vẽ ảnh. Mắt người được cấu tạo từ 3 phần chính, màng, nhân và thủy tinh thể. Mầu sắc được mắt người cảm thụ nhờ 3 loại dây thần kinh hình nón. Khi dây thần kinh loại 1 bị kích thích sẽ cho cảm thụ màu đỏ, dây thần kinh loại 2 màu lục, loại 3 màu chàm. ánh sáng có độ dài bước sóng khác nhau sẽ kích thích 3 loại dây thần kinh này ở mức độ khác nhau và mắt người sẽ phân tích tác dụng phổ ánh sáng lên nó, khi đánh giá thành phần của tia đơn sắc trong phổ ánh sáng đó vỏ não sẽ tổng hợp các đại lượng tương đối của kích thích đỏ, lục và chàm do vậy ta sẽ nhìn được mầu của vật. Cảm thụ thị giác đầu tiên tăng nhanh rồi đạt tới độ rõ cực đại, nó sẽ ổn định khi hình thành hình ảnh. Mắt người cảm thụ lớn nhất đối với màu vàng và màu xanh da trời. Độ cảm thụ của mắt sẽ giảm nhiều với ánh sáng màu đỏ, lục và chàm tím. Mắt người có khả năng phân biệt khoảng 200 nền mầu với rất nhiều sắc độ. Mắt người thực hiện các chức năng quan trọng khi độ sâu của thị giác được xác định theo công thức dSTE = Trong đó: b là đường đáy mắt dSTE là giới hạn lập thể độ sâu thị giác H là độ xa gần của địa vật hmin là khoảng cách nhỏ nhất giữa các địa vật. 2.3.2.2. Các đặc điểm của thụ cảm thị giác: Khả năng thông tin của phương pháp đoán đọc điều vẽ trực tiếp phụ thuộc vào khả năng thụ cảm hình ảnh của mắt người, khả năng đoán đọc điều vẽ của ảnh, phụ thuộc vào thiết bị kỹ thuật của người đoán đọc điều vẽ. Khả năng thụ cảm hình ảnh của mắt phụ thuộc vào độ tinh của mắt và độ tương phản của thị giác. Mắt người sẽ không phân biệt được hai điểm sáng nếu như ảnh của chúng được tạo ra trên một sợi dây thần kinh hình nón vì một sợi dây thần kinh chỉ truyền về não một cảm giác. Hai điểm chỉ được phân biệt một cách rõ ràng khi hình ảnh của hai điểm đó được tạo ra trên hai dây thần kinh khác nhau. Vì vậy độ tinh giới hạn thị giác được đặc trưng bằng góc mà dưới góc đó từ tiếp điểm ta nhìn thấy đường kính của dây thần kinh, góc giữa hai trục nhìn của mắt là: g g = Trong đó: b là đường kính đáy mắt (mm) D là khoảng cách tới điểm quan sát (mm) Để thấy được cặp ảnh lập thể phải có 2 tấm ảnh chụp từ 2 điểm khác nhau với tỷ lệ của chúng không khác nhau quá 15% mỗi mắt chỉ được nhìn một ảnh, góc giao hội của các cặp tia chiếu cùng tên không được quá 160. 2.3.2.3 ảnh hưởng của các yếu tố chủ yếu đến độ chính xác của việc đoán đọc điều vẽ ảnh. Khả năng cho qua độ phân tích thị giác của mắt người ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đoán đọc điều vẽ ảnh. Khả năng này được đặc trưng bằng số lượng thông tin mà mắt người thụ cảm được trong 1 đơn vị thời gian. Khả năng này khoảng 70bít/s và bị giảm xuống khi xử lý và truyền thông tin, các yếu tố ảnh hưởng đến độ chính xác của việc đoán đọc điều vẽ là sự mệt mỏi của mắt, sự điều tiết thích nghi của mắt, sự thiếu sót của thông tin ảo giác và khả năng đoán đọc điều vẽ của ảnh. Khi làm việc bằng mắt nhiều, mắt dễ bị mỏi, đặc biệt khi làm trên các dụng hình lập thể. Để nâng cao độ chính xác của việc đoán đọc điều vẽ ảnh tức khả năng truyền đạt lên hình ảnh các chi tiết nhỏ của địa vật. Khả năng này do độ tương phản của hình ảnh, độ rõ nét và tỷ lệ của hình ảnh quyết định. Tỷ lệ của ảnh quyết định khả năng đoán đọc điều vẽ. Tỷ lệ ảnh chụp càng lớn thì khả năng đoán đọc điều vẽ của ảnh càng cao. Tuy nhiên không thể tăng chất lượng công tác đoán đọc điều vẽ chỉ dựa vào việc tăng tỷ lệ ảnh, vì khi tăng tỷ lệ ảnh sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. 2.3.3. Cơ sở chụp ảnh của đoán đọc điều vẽ: 2.3.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng hình ảnh: ảnh là một tài liệu quan trọng dùng để thành lập bản đồ địa hình, nó quyết định chất lượng công tác đoán đọc điều vẽ ảnh. ảnh là kết quả tác động lẫn nhau của nhiều yếu tố vật lý, bao gồm: - Độ sáng và màu khác nhau của địa vật - Đặc điểm chụp của máy chụp ảnh - Đặc điểm chụp ảnh trên các phương tiện bay - Chế độ xử lý hoá ảnh ảnh hưởng của các yếu tố vật lý này đến chất lượng hình ảnh không phải ở mức độ như nhau. Điều này gây khó khăn cho việc xác định sự liên hệ giữa địa vật và hình ảnh của nó. Các tham số của máy chụp ảnh ảnh hưởng tới khả năng đoán đọc điều vẽ của ảnh bao gồm: - Tiêu cự máy chụp ảnh. - Độ sáng của kính vật. - Khả năng phân biệt của kính vật. - Méo hình kính vật, kính lọc mầu. - Độ truyền dịch hình ảnh và cửa chớp nhanh của máy chụp ảnh. 2.4. Các phương pháp đoán đọc điều vẽ. Đoán đọc điều vẽ ảnh hàng không là một trong những quá trình cơ bản của việc thành lập và hiện chỉnh bản đồ địa hình. Phụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31815.doc
Tài liệu liên quan