Đồ án Kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám trên mạt cưa

MỤC LỤC

 

Mở đầu . 4

Lý do chọn đề tài . 5

Mục đích nghiên cứu . 6

Nhiệm vụ nghiên cứu .

Phương pháp nghiên cứu

Chương I : Tổng quan về giới nấm. 7

1.1 Tổng quan về giới nấm.

Chương 2 Tổng quan về nấm bào ngư xám. 9

2.1 Giới thiệu về nấm bào ngư xám.

2.2 Phân loại.

2.3 Đặc điểm tổng quát của nấm bào ngư xám.

2.3.1 Đặc điểm sinh học của nấm bào ngư xám.

2.3.2 Đặc điểm sinh học của nấm bào ngư xám.

2.3.3 Một số điểm lưu ý trong quá trình trồng nấm bào ngư xám.

2.3.3.1 Nhạy cảm với môi trường.

2.3.3.2 Dị ứng do dị ứng nấm bào ngư.

2.3.4 Thực trạng việc trồng nấm bào ngư xám ở

Việt Nam và trên thế giới.

2.3.5 Giá trị dinh dưỡng của nấm bào ngư xám.

2.3.6 Tiềm năng phát triển nấm bào ngư xám ở việt Nam

Chương 3 : Kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám trên mạt cưa. 30

3.1 Giới thiệu nguyên liệu trồng nấm bào ngư xám

3.2 Cơ chất

3.3 Quy trình phân lập giống

3.3.1 Tạo môi trường nhân giống

3.3.2 Nhân giống và phân lập giống

3.3.2.1 Tạo giống gốc

3.3.2.2 Phương pháp nhân giống

3.4 Quy trình làm trại

3.5 Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên mạc cưa

3.5.1 Xử lý nguyên liệu

3.5.2 Khử trùng

3.5.3 Giai đoạn cấy meo

3.5.4 Giai đoạn nuôi ủ

3.5.5 Giai đoạn chăm sóc tưới đón nấm

3.6 Một số hiện tượng bất thường thường gặp trong và trình chăm sóc và hướng giải quyết

3.7 Những khó khăn và thuận lợi trong viêc trồng nấm

3.7.1 Thuận lợi

3.7.2 Khó khăn

3.8 Kết quả và thảo luận:

3.8.1 Tốc độ lan tơ:

3.8.1.1 Khảo sát tốc độ lan, đặc điểm của tơ nấm và hình thái của nấm bào ngư xám trên môi trường thạch (giống cấp một )

3.8.1.2 Khảo sát tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm cuả nấm bào ngư Nhật trên môi trường hạt (giống cấp hai)

3.8.1.3 . Khảo sát tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm của nấm bào ngư Nhật trên môi trường cọng mì (giống cấp ba)

3.8.2 Phương pháp thu nhận kết quả

3.8.2.1: Khảo sát tốc độ lan tơ trên môi trường hạt

3.8.2.2 Khảo sát tốc độ lan tơ trên môi trường cọng

3.8.2.3 Khảo sát tốc độ lan tơ trên môi trường mạt cưa

Chương 4 Kết luận và kiến nghị . 70

4.1 Kết luận

4.2 Kiến nghị

Chương 5 : Tài liệu tham khảo . 71

DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC BẢNG

 

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18523 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám trên mạt cưa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Có thể tránh vào nhà trồng vào sáng sớm hay trời lạnh, hoặc tưới ẩm nhà trồng để rửa bớt bào tử trước khi vào. 2.3.3.1 Nhạy cảm với môi trường: - Nấm bào ngư là một trong những loài nấm nhạy cảm với môi trường nhất. Ngoài yếu tố nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, pH, nồng độ CO2 ..., nấm còn đặc biệt nhạy cảm với các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, như hoá chất, thuốc trừ sâu, các kim loại nặng ... cả trong nguyên liệu cũng như trong không khí môi trường. Tai nấm thường biến dạng hoặc ngưng tạo quả thể. Do đó, cần kiểm tra điều kiện nuôi trồng hoặc nguồn nguyên liệu khi nấm có biểu hiện không bình thường. 2.3.3.2 Dị ứng do dị ứng nấm bào ngư - Trong các loài nấm trồng, thì đặc biệt thận trọng với bào tử nấm bào ngư. Nhiều người nhạy cảm với loại bào tử này, sẽ biểu hiện ngay trong 08 giờ hoặc 4 – 6 tuần (ở trường hợp khác). Bào tử nấm xâm nhập vào cuống phổi, gây triệu chứng khó thở, mệt mỏi, nhiều vết đỏ ở tay, nhức đầu, ho và sốt (có thể đến 390C). Bệnh kéo dài vài ngày rồi dứt, nhưng có thể tái đi tái lại, khi tiếp xúc lại với nguồn bệnh. - Để tránh hít phải bào tử nấm (nấm bào ngư, cũng như các loài nấm khác), nên đeo khẩu trang khi vào khu vực nhà trồng, nhất là vào sáng sớm khi trời còn lạnh 2.3.4 Thực trạng việc trồng nấm bào ngư xám ở Việt Nam và trên thế giới * Thực trạng trong nước: - Việc tổ chức sản xuất nấm bào ngư của các đơn vị chuyên kinh doanh về nấm còn nhiều thiếu sót. Chất lượng giống nấm chưa đảm bảo từ khâu sản xuất đến quá trình nuôi trồng, bảo quản, cách sử dụng. Các giống nấm bào ngư đã và đang được nuôi trồng ở Việt Nam từ nhiều nguồn giống khác nhau. Một số giống được nhập từ một số nước và vùng lãnh thổ: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,… Một số khác được sưu tầm trong nước, song việc chọn lọc, kiểm tra để đánh giá tiềm năng về năng suất, chất lượng của từng loại, từ đó để nhân giống đại trà phục vụ cho sản xuất hầu như chưa có đơn vị nào đảm trách. - Khâu hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng, chế biến nấm đạt chất lượng xuất khẩu đến từng hộ gia đình không đầy đủ, do thiếu cán bộ và trình độ kỹ thuật viên non kém. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và làm công tác kỹ thuật về nấm được đào tạo cơ bản tại các trường đại học, có kinh nghiệm lâu năm và chuyên tâm với nghề nghiệp còn quá ít. - Công tác nghiên cứu về công nghệ chọn, tạo giống, công nghệ nuôi trồng nấm bào ngư đạt năng suất cao, chi phí thấp, công nghệ bảo quản nấm đạt chất lượng ở các trung tâm nghiên cứu và cơ sở sản xuất chưa được chú trọng đúng mức. Các thiết bị, công nghệ trồng nấm nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,… không phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ở Việt Nam. - Hợp đồng xuất khẩu nấm thường không đủ về số lượng, chất lượng còn thấp dẫn đến mất lòng tin với khách hàng nước ngoài. - Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về giá trị dinh dưỡng và cách ăn nấm trên các phương tiện thông tin đại chúng cón quá ít. * Tình hình trên thế giới - Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu sản xuất nấm bào ngư, nấm hương, nấm rơm là chủ yếu. Khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu trồng nấm theo mô hình công nghiệp được cơ giới hóa chuyên môn rất cao với sản lượng từ 200-1000 tấn/năm. - Khu vực Châu Á (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hản Quốc, Thái Lan…) triển khai theo mô hình trang trại vừa và nhỏ, đặc biệt là ở Trung Quốc nghề trồng nấm đã thực sự đi vào từng hộ nông dân. Hiện tại Trung Quốc là nước sản xuất nhiều nấm nhất trên thế giới. Sản lượng nấm của Trung Quốc trung bình khoảng 3 triệu tấn/năm, chiếm 60% tổng sản lượng thế giới. 2.3.5 Giá trị dinh dưỡng của nấm bào ngư xám: - Dinh dưỡng nấm bào ngư Nhật rất cao không kém hơn dinh dưỡng các sản phẩm từ động vật. Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư Nhật hàm lượng protein chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại axit amin, ngoài ra còn có carbohydrate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác. Sử dụng nấm không những không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu, tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư, v.v.., đồng thời người ăn nấm thường xuyên sẽ giúp cơ thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và chống lão hóa. - Nấm ăn nói chung và nấm bào ngư nói riêng là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Hàm lượng protein chỉ đứng sau thịt, cá, giàu các chất khoáng và các acid amin tan trong nước, các acid amin không thay thế như lyzin, tryptophan, các acid amin chứa nhóm lưu huỳnh. Ngoài ra chúng còn chứa một lượng lớn các vitamin quan trọng. - Thành phần các chất dinh dưỡng chính của một số loài nấm Bào ngư bao gồm: carbonhydrate, protein, amino acid, chất béo, khoáng chất, hoạt chất và các vitamin được nhiều nhà dinh dưỡng học quan tâm nghiên cứu, nhằm đánh giá vai trò của nấm như nguồn thực phẩm cho con người. - Carbonhydrate và protein là thành phần chính, chiếm từ 70 đến 90% trọng lượng khô quả thể, tro khoảng 10% chứa nhiều loại chất khoáng. Chất béo có hàm lượng thấp trong hầu hết các loài, dao động trong khoảng 1 - 2%, ngoại trừ P. limpidus (9,4%). - Giá trị về mặt năng lượng được đánh giá trên cơ sở thành phần protein thô, chất béo và carbohydrate, trị số này thấp khoảng từ 261 - 367 Kcal/100g chất khô. Bảng 3 Thành phần dinh dưỡng của nấm Bào ngư (%). Tên loài Nước Protein thô Chất béo Đường tổng số Chất xơ P. cystidiosus 90,2 31 9 17 13 P. abalonus 91,7 32 4 19 3 P. blaoensis 89 25 4 11 8 - Hàm lượng protein thô của nấm ăn dao động trong khoảng 18,4 - 61,5. Từ dẫn liệu ở bảng cho thấy hàm lượng protein thô ở cả 3 loài nấm trên có giá trị trung bình 25 - 32%, trị số này có ý nghĩa về mặt dinh dưỡng. Trong đó Pleurotus abalonus có hàm lượng đạm cao nhất 32% và thấp nhất là ở Pleurotus blaoensis điều này có thể do Pleurotus blaoensis là loài hoang dại mới được đưa vào nuôi trồng chủ động so với 2 loài còn lại đã được thuần hóa sớm hơn. - Hàm lượng chất béo nhìn chung là khá thấp, trị số này cao nhất ở loài chuẩn Pleurotus cystidiosus (9%) và bằng nhau ở Pleurotus abalonus và Pleurotus blaoensis. - Hàm lượng carbonhydrat cao nhất ở Pleurotus abalonus và thấp nhất là ở Pleurotus blaoensis ; hơn nữa, hàm lượng chất xơ trong Pleurotus abalonus là thấp nhất, do vậy mà về mặt cảm quan cho thấy nấm Pleurotus abalonus có mùi vị thơm ngon nhất trong 3 loài, tiếp đến là Pleurotus cystidiosus. - Hàm lượng nước của 3 loài trên dao động trong khoảng 89 - 91.7% nghĩa là lượng sinh khối khô chỉ vào khoảng 10% song tỷ lệ chất dinh dưỡng rất đáng kể và cân đối, vượt hơn hẳn các loại rau quả. Do đó quan niệm trước đây coi nấm như là một loại rau là không chính xác. Hàm lượng protein thô của nấm Bào ngư nếu như so với các loại thịt cá lượng protein đạt xấp xỉ 40% trọng lượng khô, trị số sinh năng lượng khá thấp, chỉ cung cấp năng lượng ở mức tối thiểu, đây là một trong những ưu điểm của loài nấm ăn này, thích hợp cho người ăn kiêng. - Ở nấm bào ngư Nhật còn phát hiện được chất kháng sinh, gọi là pleurotin. Chất này ức chế hoạt động của vi khuẩn Gram dương (Robins và cộng sự, 1947). Bên cạnh đó, Yoshioka và cộng sự (1975) cũng tìm thấy hai polysaccharide có tính kháng ung bướu. Cả hai đều có nguồn gốc là glucose. Trong đó chất được biết nhiều nhất, bao gồm 69% β (1-3) glucan, 13% galactose, 6% mannose, 13% uronic acid. Hình 12: Công thức hóa học của pleurotin Bảng 4 Giá trị dinh dưỡng của một số loại nấm bào ngư Bảng 5 Thành phần một số Vitamin trong nấm Bào Ngư Tiềm năng phát triển nấm bào ngư xám ở việt Nam: - Nấm bào ngư đã được trồng tại Việt Nam khoảng 20 năm nay, trên nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau hiện tại thị trường có nhiều loại, nhưng hai loại nấm bào ngư màu xám và màu trắng (nguồn giống Nhật Bản) là được ưa chuộng. - Kỹ thuật trồng, chăm sóc nấm bào ngư không khó, chỉ cần người trồng tuân thủ đúng quy trình hướng dẫn. Hiệu quả kinh tế mà nó mang lại khá cao. - Hiện nay đã có nhiều nông dân VN thoát nghèo nhờ việc trồng nấm bào ngư. Hiện nay mô hình trồng nấm bào ngư đã được nhân rộng ra nhiều nơi như: Đồng Nai, Bến Tre, Củ Chi, Bình Thuận,Vĩnh Long, An Giang, Bình Dương, Đà Lạt. Đồng Tháp…..Không những giúp người dân thoát nghèo, việc trồng nấm bào ngư đúng quy trình và theo quy mô lớn còn có thể giúp một số doanh nhân biết cách đầu tư làm giàu nhanh chóng. Chương 3 : Kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám trên mạt cưa Giới thiệu nguyên liệu trồng nấm bào ngư xám Bào ngư xám có thể trồng trên rất nhiều loại nguyên liệu khác nhau Mạt cưa Rơm Rạ Bã mía Mạt cao su Bông vải Tuy nhiên nguyên liệu đang được sử dụng phổ biến là mạt cưa. Hình 13 Mạt cưa chuẩn bị được đưa đi phối trộn Cơ chất Mạt cưa : được nghiền nhỏ từ gỗ khúc. Là cơ chất rất tốt cho sự phát triển của nấm bào ngư cũng như là với bào ngư xám. Nuôi trồng bào ngư trên mạ cưa có nhiều thuận lợi: Chế biến và bổ sung dinh dưỡng dễ dàng Có thể khử trùng để hạn chế nhiễm vi sinh vật lạ. Viêc chăm sóc và thu hái thuận tiện hơn. Giống gốc Giống cấp 1 Giống cấp 2 Giống cấp 3 Bảo quản Môi trường cấp I Cấy chuyền Môi trường cấp II Cấy chuyền Lựa chọn Bảo quản Lựa chọn Cấy chuyền Môi trường cấp III Hình 14 Sơ đồ quy trình nhân giống nấm Thời gian thu hái rút ngắn lại. Quy trình phân lập giống: 3.3.1 Tạo môi trường nhân giống: Cách tạo môi trường phân lập giống là môi tường PGA ( Agar – glucose – dịch chiết khoai tây) Khoai tây ( 200g ) không mộc mầm, không biến màu xanh. Gọt vỏ cắt nhỏ và mỏng. Đường glucose 20g ( có thể thay bằng đường kính hoặc đường Maltose ) 20g Agar 1 lít nước sạch Nấu khoai tây chính nhuyễn lọc lấy nước. Bổ sung đường và Agar vào dịch vừa mới được tách chiết và tiếp tục nấu cho sôi. Phân chia môi trường vào các ống nghiệm ( khoảng 1/3 ống ). Đậy nút bông và đem hấp khử trùng. Lấy ống nghiệm ra để nghiêng tới khi nguội để tạo môi trường thạch nghiêng. Đây là môi trường thích hợp cho meo phát triển tốt. Phương pháp phân lập: Thao tác phân lập phải được thực hiện trong điều kiện vô trùng. Các bước như sau: Sát trùng dụng cụ cấy. Sát trùng bề mặt quả thể nấm bằng dung dịch HgCl2 0,1% hoặc bằng Alcol. Sau đó rữa lại bằng nước vô trùng. Dùng dao cắt vài phiến nhỏ trên tai nấm rồi dùng que cấy để cấy vào ống thạch nghiêng. Đậy nút bông rồi đem đi ủ. Sau 7 – 10 ngày thì tơ ăn lan đầy ống nghiệm Hình 15 Tóm tắt quy trình chế biến môi trường thạch 3.3.2 Nhân giống và phân lập giống: 3.3.2.1 Tạo giống gốc: - Khởi đầu của quá trình nhân giống, hay làm meo giống là phải có giống gốc - Giống gốc hay giống ban đầu có thể thực hiện bằng nhiều cách + Thu nhận và gây nẩy mầm bào tử nấm + Tách sợi nấm từ các cơ chất có nấm mọc - Phân lập từ quả thể nấm (mô thịt nấm). Phổ biến hiện nay người ta thích dùng mô thịt nấm hơn, vì thao tác dễ làm và đặc tính giống ít bị biến đổi (nhân vô tính). Việc phân lập gọi là thành công khi trên môi trường nuôi cấy chỉ mọc duy nhất một loại tơ nấm nhất định làm giống, không hiện diện một loài sinh vật nào khác. Cách tạo môi trường nhân giống Lúa nấu vừa cho đến mức vừa búp nở, để nguội rồi cho vào chai. Dậy nút bông. Đem hấp khử trùng những chai này ở 1atm / 121oC trong 60 phút ( dùng nồi hấp áp lực cao ). Hoặc có thể khử trùng bằng phương pháp Tyndall Hình 16 Phân lập giống từ tổ chức mô của nấm bào ngư Phương pháp nhân giống Chuẩn bị môi trường nhân giống cấp 2 xong thì tiến hành nhân giống. Dùng kẹp gắp những mẫu thạch có tơ nấm cho vào chai đã được chuẩn bị sẵn môi trường. Rồi đem ủ ở nhiệt độ phòng. Sau khi tơ nấm lan đầy chai ( khoảng 10 ngày ) thì có thể cấy vào cơ chất để cho quả thể Hình 17 Quy trình phân lập giống Quy trình làm trại: - Vật liệu làm nhà nấm làm bằng tre, lá, lưới, nylon. Có thể tận dụng sàn nhà để treo bịch phôi nấm,xung quanh nhà trồng nấm có thể bao lưới cước hoặc nylon để giữ ẩm độ, hạn chế côn trùng giúp cho nấm phát triển tốt. - Nhà trồng nấm phải sạch sẽ, cao ráo,thoáng khí, thoát nước và giữ được độ ẩm. Các bịch phôi nấm có thể xếp đặt trên các bệ ( bằng tre hay sắt ) hoặc treo dưới các thanh ngang, mỗi hàng cách nhau 20-30cm, mỗi dây cách nhau 20-25cm, mỗi dây có thể treo từ 6-10 bịch phôi. Tốt nhất bố trí dàn treo từng khối một, mỗi khối rộng từ 1,4-1,6m chiều dài tùy theo nhà trồng. Mỗi khối chừa các lối đi để tiện chăm sóc và thu hái. Yêu cầu đối với nhà trồng Hình 18 Nhà trồng Gần nguồn nước tưới, không gần nơi có nhiều khói bụi và các nguồn nước ô nhiễm ỗ rác mương cống chuồng gia súc bịch nấm đã bị hư… vì nấm rất nhạy cảm với môi trường Nhà trồng nấm không cần quá cao ( vì khó giữ ẩm) thường thì từ 2,5- 3m không nên che rợp quá ( nếu rợp quá thì sẽ thiếu ánh sáng mầm bệnh dễ phát sinh và là điều kiện tốt đễ các mầm bệnh phát triển). Diện tích phải vừa đủ để treo một đợt bịch để đảm bảo độ ẩm. Dây cách dây khoảng 3,5 tất. Mỗi dây treo khoảng 6 bịch, Bịch cuối cugn2 cách mặt nền khoảng 30cm. Bố trí lối đi giữa các hàng dây treo bịch sao cho có thể với tay vừa đủ để chăm sóc và thu hái. Trời nóng thì nên làm vách hở chân để thông thoáng, trời lạnh thì cần che kính chân nhất là vào ban đêm để giữ ấm cho nấm. Nhà có khả năng giữ ẩm không bị gió lùa nhưng cũng không bí quá làm ngộp nấm Sạch sẽ và đủ ánh sáng nhưng không bị chiếu nắng. Cần khử trùng nhà trồng nấm cho sạch sẽ trước khi treo hoặc xếp dàn bịch nấm. Nhiệt độ thích hợp từ 20-30oC. Độ ẩm không khí cần khoảng 80-90%. Sau khi treo hoặc xếp bịch vào nhà trồng thì ta tiến hành rạch bịch. Mỗi bịch khoảng 9 rạch. Mỗi rạch khoảng 3cm.Hoặc ta có thể lấy bỏ nút gòn trên miệng bọc để quả thể nấm có thể mọc ra từ đó.Làm như vậy thì kích thước và hình dạng những tai nấm khi mọc ra sẽ đều hơn. Hình 19 Mô hình nhà trồng Quy trình trồng nấm bào ngư xám trên mạc cưa: Hình 20 Nấm bào ngư xám * Sơ đồ quy trình trồng nấm bào ngư Làm ẩm Ủ đống Nguyên liệu Đảo Phối trộn Phụ gia Đóng túi Khử trùng Cấy giống Nuôi sợi Chăm sóc Thu hái Đóng túi và cấy gionggiốngng Nuôi sợi Chăm sóc Thu hái Hình 21 Sơ đồ quy trình nuôi trồng nấm bào ngư 3.5.1 Xử lý nguyên liệu: Sàn và đảo trộn mạt cưa: Sàn mạt cưa là công đoạn khá vất vả, đòi hỏi sức lực và tay nghề. Mạt cưa được đưa vào máy sàn loại bỏ hết các tạp chất những phần lẫn trong quá trình đổ đóng. Ở đây sản xuất thủ công hộ gia đình nên việc sàn mạt cưa cũng được làm bằng thủ công. Mạt cưa → ủ đống 1 ngày (trộn nước vôi 1% nâng độ ẩm đống ủ lên 60%) → bổ sung dinh dưỡng → đóng bịch → hấp thanh trùng → làm nguội → cấy giống → ủ tơ → rạch bịch → thu hái. Nguyên liệu bổ sung : tro, magiê, bột nhẹ (CaCO3) Nước vôi 1- 2% ( 10lít nước – 100 – 200 gr vôi bột) Chú ý: Nước đưa vào xử lý phải là nước sạch Nguyên liệu mùn cưa mùn cưa phải phơi khô trước khi đưa vào bảo quản, càng để lâu càng tốt cho trồng nấm. Vì khi nguyên liệu ẩm thường có nhiều dinh dưỡng thích hợp với nấm mốc làm nhiễm bịch phôi. Mùn cưa mới, tế bào chưa chết hoàn toàn, có thể còn tồn tại các chất kháng nấm, tơ nấm khó phân hủy (thủy phân chậm) năng suất thấp, mất nhiều thời gian nấm mới mọc. Khi mùn cưa để lâu, tế bào của cây đã chết, sợi nấm mọc dễ dàng hơn. Sau khi lựa chọn, mùn cưa được đưa vào ủ theo công thức sau - Mùn cưa khô: 100kg - Nước vôi pha loãng (pH:13): 20-30 lít. - Thời gian ủ 6 – 7 ngày giữa chu kỳ ủ có đảo trộn. Nhiệt độ ủ 65- 75oC - Phối trộn nguyên liệu : sau khi nguyên liệu được xử lý (thời gian nhanh chậm tùy thuộc vào từng loại cơ chất khác nhau) nên phối trộn nguyên liệu với nhiều thành phần dinh dưỡng khác. - Phối trộn nguyên liệu: Nguyên liệu trộn đều, làm ẩm, trộn nhiều lần cho nước ngấm đều trong nguyên liệu. Ẩm độ của nguyên liệu khoảng 65-70%, nghĩa là nếu nấm nguyên liệu (sau khi làm ẩm) trong tay bóp lại thì nguyên liệu sẽ kết khối nhưng nước không nhỏ giọt ra là được - Công thức phối trộn: 100 kg nguyên liệu đã tạo ẩm 2% cám bắp 2% cám gạo 1% bột nhẹ - Cách trộn nguyên liệu: nguyên liệu sau khi ủ được trộn với các phụ gia theo tỷ lệ như trên, sau đó đảo đều và kiểm tra độ ẩm lần nữa trước khi đưa vào đóng túi. Dùng vòi tưới nước đều lên mạt cưa và vôi. Để một thời gian cho vôi nước và mạt cưa thấm vào nhau.Rồi dùng dụng cụ để đảo trộn đóng mạt cưa đó lên.Ta cần phải trộn đều để giúp cho mạt cưa vôi và nước được trộn đều với nhau. Cuối cùng ta phải ủ hỗn hợp đó suốt 12 giờ rồi mới được sử dụng. Hình 22 Máy sàn mạc cưa Đóng bọc đục lỗ và nhét gòn: Túi pp dày khoảng 0,5mm và có kích thước 19 x 36 cm, cổ nút, thun, bông, nút gòn. Dùng túi pp cho nguyên liệu đã làm ẩm vào , nện chặt vừa phải. Nên đóng túi đồng loạt cho đến hết nguyên liệu , không nên để thừa nguyên liệu qua đêm. Nếu không đóng hết thì phải đưa phần nguyên liệu thừa vào đóng ủ để ủ tiếp. mỗi túi thường chứa khoảng 1- 1,2kg nguyên liệu. Nút nhựa hở hai đầu để làm cổ bịch tra vào làm cổ. Nén mạt cưa chặt tay để đủ cơ chất cho meo phát triển cũng như là không bị bung ra trong quá trình hấp. Sau đó ta dùng một cây dài tròn vót nhọn đầu , xoi một lỗ ở giữa xuống tận đáy bịch. Cuối cùng là dùng bông gòn không thấm làm nút gòn, dùng giấy bao bên ngoài nút bông hoặc làm nắp chụp Hình 23 Cấu tạo bịch phôi giống Hình 24 Mạc cưa đã được đóng bọc và nhét gòn Hình 25 Tạo lỗ hình nón ở giữa bịch phôi 1.Vải bông; 2. Phần giấy dầu xòe ra sau khi buộc chặt, 3. Giống sau khi cấy; 4. Lỗ hình nón Khử trùng Sau khi mạt cưa đã được phối trộn, ủ đủ thời gian và nhiệt độ và đóng bọc ta sắp vào vĩ sắt và cho vào lò sấy. Có thể khử trùng theo phương pháp sau: sử dụng nồi cao áp ( 121o- 125oC/ 90 phút) Tuy nhiên trong sản xuất thủ công thì người ta hay sử dụng nồi hấp thủ công. Dạng nồi này chỉ tạo được nhiệt độ 100oC. Do vậy mà cần phải kéo dài thời gian khử trùng. Để làm được điều này thì tốt nhất ta nên sử dụng phương pháp Tyndall. Đó là khử trùng 3 lần , Mỗi lần 30 phút và các lần cách nhau 24 giờ Hoặc ta có thể khử trùng bằng cách khử trùng trong nồi hấp.Sau khi đóng túi, đưa khi khử trùng trong các nồi hấp. Phương pháp đơn giản nhất là hấp cách thủy trong thùng phuy. Thời gian từ 10- 12 giờ, nhiệt độ trong túi nguyên kiệu đạt từ 95- 100oC. Lò khử trùng có kích thước lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng nguyên liệu và điều kiện vật chất. Túi hấp xong phải có mùi thơm, không bị chua do lên men, nút bông chặt không ướt. Sau đó chuyển bịch vào phòng vào phòng cấy đã thanh trùng. Dể nguội 24- 36 giờ rồi tiến hành cấy giống. Hình 26 Cấu tạo lò hấp khử trùng Hình 27 Vỉ sắt hấp khử trùng Hình 28 Lò hấp Hình 29 Lò hấp bịch meo giống 3.5.3 Giai đoạn cấy meo Khi chọn meo giống cần chú ý các đặc điểm sau: quan sát thấy tơ mọc thẳng, nhánh tơ hình lông chim, phân phối đề khắp chai hay bịch, có màu trắng. Mật độ tơ đóng dày. Ngửi có mùi nấm bào ngư. Cách cấy meo Có rất nhiều loại meo giống khác nhau: + Meo hạt + Meo giống cọng… Cách cấy meo: các túi nguyên liệu sau khi hấp để nguội khoảng 18- 20 giờ thì có thể tiến hành cấy giống Cấy giống cọng: sau khi túi phôi được đưa vào phòng cấy, dùng pince kẹp cọng meo giống cho vào túi mạt cưa đã để nguội. Cấy bằng hạt: phôi đã được làm nguội cho vào phòng cấy, dùng que sắt khều nhẹ giống từ túi nilon hoặc từ lọ thủy tinh sang túi phôi lắc đều trên bề mặt túi. Lượng giống cấy cứ một lọ hoặc một túi giống cấy 200g được 25- 30 túi phôi. Thao tác cấy phải được thực hiện nhanh chóng, đảm bảo hạn chế mầm bệnh lây lan từ không khí. Tốt nhất là thực hiện việc cấy giống trong một nhà riêng sạch sẽ. Tất cả các dụng cụ cấy phải sạch, nên khử trùng trước và sau khi cấy. Thực hiện việc cấy giống bên cạnh đèn cồn. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng quyết định tất cả các quá trình trồng nấm. Trong giai đoạn này mọi thao tác phải hết sức cẩn thận và nhanh nhẹn. Nếu không làm đúng các thao tác sẽ dẫn đến bị nhiễm các vi sinh vât lạ sẽ ăn các tơ nấm khi meo giống ra tơ.Phải hết sức thận trọng trong giai đoạn này.Nếu tơ nấm ra khỏe mạnh sẽ chống lại được các vi sinh vật lạ còn nếu không bịch meo giống sẽ bị nhiễm và không ra nấm được. Chú ý: chọn giống cấy phải đúng tuổi , lúc bào tử ( màu đen) mới xuất hiện khoảng 1/2 lọ hay túi không nên chọn meo quá già hoặc quá non. Sau cấy giống phải đưa vào nhà ủ ngay. Hình 30 Cấy meo cọng Hình 31 Cấy meo hạt 3.5.4 Giai đoạn nuôi ủ tơ nấm Yêu cầu đối với nơi ủ tơ: Sạch sẽ, không khí phải được thông thoáng, được làm vệ sinh định kỳ bằng formol , nước vôi trong. Không cho ánh sáng trực tiếp chiếu vào nhưng cũng không quá tối. Không bị dột mưa. Không ủ chung với giàn nấm đang tưới hay mới thu hoạch xong. Cứ 5- 7 ngày kiểm tra một lần nhằm phát hiện những mốc xanh mốc cam… để hủy bỏ không để lây nhiễm qua các bịch khác. Trong thời gian nuôi ủ tơ nấm, không cần tưới thường xuyên vì nước đã cung cấp trong quá trình xử lý nguyên liệu đã vừa đủ cho tơ nấm phát triển. Nếu tưới quá nhiều nước sẽ gây hiện tượng bị úng. Chỉ cần tưới nước nền xung quanh vách sao cho đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp. Trong thời gian ươm sợi nấm phát triển lấy chất dinh dưỡng thì nguyên liệu cấy nấm. Sợi tơ có màu trắng trong, đồng nhất. Kiểm tra thấy bịch rắn chắc là nấm phát triển tốt. Khi thấy tơ ăn trắng bịch thì chuyển ra nhà trồng nấm. Thường thì thời gian nuôi ủ nấm bào ngư khoảng 25- 30 ngày trong điều kiện nhiệt độ 20-30oC, độ ẩm không khí là 60-70%. Sau khi tơ đã ăn trắng túi cần tăng độ thông thoáng và ánh sáng nhằm mục đích thay đổi môi trường để kích thích tơ nấm kết hợp với nhau nhanh hơn, chuẩn bị hình thành quả thể. Trường hợp sợi nấm không phủ kín được toàn bộ khối nguyên liệu hoặc sợi nấm phát triển yếu ớt là biểu hiện của tình trạng nguyên liệu không tốt hoặc nguyên liệu đã nhiễm vi sinh vật gây bệnh. Khi phát hiện thấy bịch nấm bị nhiễm cấn lấy ra và đem ra xa phòng ươm nấm rồi chôn xuống đất. Khi phát hiện nấm có màu xanh, do bị nhiễm các loài nấm mốc cũng cần lấy ra loại bỏ và đưa ra xa khỏi phòng ươm và chôn vào đất. Hình 32 Nhà nuôi ủ Giai đoạn chăm sóc tưới đón nấm Chăm sóc: để loại bỏ bụi bám bên ngoài bịch đồng thời tạo sốc nhiệt ta có thể nhúng bịch vào xô nước đến cổ bịch rồi rút ra, treo chúng vào nhà trồng nấm Yêu cầu của nhà trồng: + Gần nguồn nước tưới, không gần nơi có nhiều khói bụi và các nguồn nước ô nhiễm ỗ rác mương cống chuồng gia súc bịch nấm đã bị hư… vì nấm rất nhạy cảm với môi trường Nhà trồng nấm không cần quá cao ( vì khó giữ ẩm) thường thì từ 2,5- 3m không nên che rợp quá ( nếu rợp quá thì sẽ thiếu ánh sáng mầm bệnh dễ phát sinh và là điều kiện tốt đễ các mầm bệnh phát triển). Diện tích phải vừa đủ để treo một đợt bịch để đảm bảo độ ẩm. Dây cách dây khoảng 3,5 tất. Mỗi dây treo khoảng 6 bịch, Bịch cuối cugn2 cách mặt nền khoảng 30cm. Bố trí lối đi giữa các hàng dây treo bịch sao cho có thể với tay vừa đủ để chăm sóc và thu hái. Trời nóng thì nên làm vách hở chân để thông thoáng, trời lạnh thì cần che kính chân nhất là vào ban đêm để giữ ấm cho nấm. Nhà có khả năng giữ ẩm không bị gió lùa nhưng cũng không bí quá làm ngộp nấm Sạch sẽ và đủ ánh sáng nhưng không bị chiếu nắng. Cần khử trùng nhà trồng nấm cho sạch sẽ trước khi treo hoặc xếp dàn bịch nấm. Nhiệt độ thích hợp từ 20-30oC. Độ ẩm không khí cần khoảng 80-90%. Sau khi treo hoặc xếp bịch vào nhà trồng thì ta tiến hành rạch bịch. Mỗi bịch khoảng 9 rạch. Mỗi rạch khoảng 3cm.Hoặc ta có thể lấy bỏ nút gòn trên miệng bọc để quả thể nấm có thể mọc ra từ đó.Làm như vậy thì kích thước và hình dạng những tai nấm khi mọc ra sẽ đều hơn. Hình 33 Rạch bịch để ra tơ Trong thời gian này độ ẩm đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến năng suất do vậy mà cần phải tưới nước. Tuy nhiên khoảng 5-8 ngày sau khi rạch bịch mới được tưới. Cách tưới : không tưới thẳng và trực tiếp vào bịch phôi mà chỉ phun sương tạo mưa nhẹ cho nước rơi từ trên xuống, tưới ướt các vách, nóc và nền nhà để tạo độ ẩm không khí cần thiết cho nhà trồng. Tùy theo thời tiết mà ta tưới nước nhiều hay ít để tạo độ ẩm cho nhà trồng, mỗi ngày tưới từ 1 – 2 lần là đủ nên tưới vào buổi chiều ( nếu trời mưa dầm ẩm ướt ta không nên tưới vì lúc này độ ẩm không khí đã đủ). Khi tưới nước nấm cần lưu ý: Nguồn nước tưới phải sạch. Nếu nước bị nhiễm phèn nhiễm mặn thì tai nấm sẽ bị biến dạng. Tưới với lượng nước vừa đủ, nếu thừa sẽ làm cho bịch phôi bị úng làm giảm năng suất đồng thời tạo điều kiện cho các loài mốc lạ xuất hiện và là môi trường tốt cho chúng phát triển. Không để giọt nước bắn thẳng vào nụ nấm, hoặc tưới nước với giọt quá lớn rất dễ làm tai nấm nhũn ra rũ xuống và chết. Thu hái nấm Nên thu hái nấm đúng tuổi không hái khi nấm còn quá non hoặc quá già. Việc hái nấm bào ngư phải tiến hành ở giai đoạn trưởng thành, đó là lúc tai nấm chuyển từ dạng phễu lệch sang dạng lá lục bình ( lúc đó mũ nấm mỏng lại và căng rộng ra, mép hơi quằn xuống, nếu mép không quằn xuống tức là tai nấm đó bị già) Nấm thu hái ở giai đoạn này không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn ít bị hư hỏng ( không bị gãy mép khi thu hái) có thể bảo quản nấm tươi lâu hơn Khi thu hái nấm ta nên hái từng chùm không nên tách lẽ từng tai nấm. Ta dùng tay kéo hết phần cuống nấm kéo nhẹ ra ngoài. Chú ý nên cẩn thận hết hết phần gốc nấm ra ngoài, không nên để sót lại phần cuống nấm trong bịch vì như vậy bịch phôi sẽ rất dễ bị nhiễm các mầm bệnh. Kết thúc một đợt thu hái khoảng từ 4 – 5 ngày thì ta ngưng tưới nước khoảng một tuần để tơ nấm phục hồi sau đó mới tiếp tục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao cao thuc tap.doc
Tài liệu liên quan