Đồ án Nghiên cứu việc thiết kế Webside và ứng dụng thiết kế chương trình quản lý văn bản pháp luật

Ngày nay mạng máy tính đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sử dụng mạng máy tính con người cùng chia sẻ được mọi tài nguyên của máy. Nó giúp cho con người nắm bắt được thông tin một cách nhanh nhất. Trong lĩnh vực pháp luật là lĩnh vực nhạy cảm liên quan tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội thì việc nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng và chính xác có một vai trò quan trọng.Do đó nhu cầu tra cứu thông tin về các văn bản pháp luật trên mạng là một nhu cầu tất yếu phát sinh Với một lượng văn bản pháp luật khổng lồ lên tới hàng vạn văn bản pháp luật liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc quản lý thật không đơn giản. Việc quản lý rất phức tạp và gặp nhiều khó khăn.Hiện nay có rất nhiều công ty có các trang web pháp luật để giới thiệu về công ty mình nhưng chưa có công ty nào có các trang web lưu trữ hệ thống văn bản pháp luật để giúp người sử dụng tra cứu một cách thuận tiện. Khi muốn tra cứu thì người dùng phải mua sách hoặc tra trên đĩa CD cơ sở dữ liệu pháp luật do văn phòng quốc hội ban hành. Nhưng việc tra cứu gặp khó khăn vì không câp nhật được các văn bản một cách kip thời, trong khi các văn bản do các cơ quan ban hành thì thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Người sử dụng có khi lại tra cứu một văn bản đã hết hiệu lực pháp luật.

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu việc thiết kế Webside và ứng dụng thiết kế chương trình quản lý văn bản pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương trình giao tiếp thật đơn giản ở chỗ chỉ có một vài kiểu vào ra đơn giản và một số luật cụ thể cộng với các kỹ thuật đặc trưng của mô hình. Khi trình duyệt yêu cầu một trang Web sử dụng chương trình giao tiếp trên Web Server, Web Server truyền thông tin vừa nhận được từ gói tin HTTP yêu cầu của trình duyệt cho chương trình giao tiếp xử lý. Chương trình giao tiếp sau khi xử lý thông tin được yêu cầu nó sẽ trả lại kết quả cho Web Server, Server sẽ định khuôn dạng gói tin theo chuẩn HTTP và truyền trực tiếp cho trình duyệt Web mà không phải thông qua Web Server, cách này làm tốc độ tải trang Web sẽ nhanh hơn. Trước khi gửi dữ liệu cho Web Server, có thể trình duyệt cũng tiền xử lý dữ liệu trước khi gửi dữ liệu nhằm giảm bớt gánh nặng cho Server. Những ngôn ngữ có khả năng chạy trên trình duyệt gọi là front - end (VBScript, JavaScript...) 5. Xây dựng chương trình giao tiếp Một chương trình giao tiếp thường có các bước thi hành sau: Khởi tạo: Truy cập để lấy các thông tin của hệ thống, lấy trong biến môi trường của UNIX hoặc các hệ thống của Window (file *. ini, *. reg). Sau đó nó sẽ nhận thông tin do Web Server gửi đến. Xử lý: quá trình này xử lý thông tin nhận được trên một CSDL Trả kết quả: Sau khi xử lý xong, chương trình gửi lại kết quả cho Web Server. Chương trình kết thúc sau khi trả hết kết quả cho Server. Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng để xây dựng chương trình giao tiếp trên các hệ điều hành hiện nay như UNIX, Maintosh, WindowNT, Window 9x... Tuy nhiên chọn một ngôn ngữ để xây dựng chương trình giao tiếp ta nên căn cứ vào các tiêu chuẩn sau: Có nhiều câu lệnh thao tác với xâu văn bản Khả năng làm việc với các thư viện và các phần mềm ứng dụng khác Khả năng truy cập được vào các biến môi trường của chương trình Các biến môi trường của chương trình giao tiếp (Enviroment variables) các biến môi trường của chương trình giao tiếp bao gồm các biến chứa thông tin về máy chủ, máy khách, người sử dụng và một số thông tin phụ. . Dưới đây là liệt kê một số biến chính sau: Content - Length: Số byte dữ liệu do gửi đến cho CGI trong STDIN Content - Type : Kiểu dữ liệu Logon - User : Tên user login vào mạng Query - String : Xâu câu hỏi Gateway - Interface: Cung cấp phiên bản của giao diện CGI trên Web Server, dạng thức : CGI/ ví dụ CGI/1. 1 Remote - Addr: Địa chỉ IP của máy Client có yêu cầu Remote - Host : tên máy yêu cầu Request - Method : Phương thức yêu cầu POST/GET URL : Uniform Resource Locator Truy cập Form nhập dữ liệu : trình duyệt cho phép nhập dữ liệu và chọn các kiểu thông tin trên Form, khi nhập xong dữ liệu người sử dụng bấm Submit để gửi thông tin cho Web Server, Web Server có nhiệm vụ truyền các thông tin này cho chương trình giao tiếp tương ứng. 6. Các phương pháp xây dựng chương trình giao tiếp Có rất nhiều phương pháp nhằm mở rộng Web Server tuy nhiên mô hình hoạt động của chúng đều hoàn toàn tuân theo mô hình vừa trình bày. CGI (Common Gateway Interface) theo phương pháp CGI thì chương trình ứng dụng CGI này như là một chương trình thực hiện được. Mỗi khi có yêu cầu thực hiện CGI từ khách hàng thì máy chủ đều tạo ra một tiến trình (process) cho chương trình đó và Web Server sẽ truyền thông tin của trình duyệt cho chương trình thông qua các biến môi trường. Như vậy số lượng tiến trình làm việc song song trên máy chủ chính bằng số yêu cầu của khách hàng. Như vậy chương trình CGI sẽ chiếm rất nhiều tài nguyên của hệ thống làm cho chương trình chạy chậm và giảm hiệu quả đồng thời khả năng tương thích với người sử dụng cũng bị hạn chế do việc hỗ trợ ngôn ngữ. ISAPI (Internet Server Application Programming Interface): Với các chương trình viết theo phương pháp ISAPI thực chất là một thư viện liên kết động được xây dựng sẵn trong hệ điều hành Window. Phương pháp này khắc phục được mặt hạn chế của CGI ở chỗ khi có một yêu cầu mới thì máy chủ không taọ ra một tiến trình mới mà đọc thư viện tại cùng một không gian địa chỉ với Web Server xử lý các yêu cầu khác. Tức là thư viện này được dùng chung cho mọi tiến trình, mỗi khi được gọi vào bộ nhớ thư viện có khả năng phục vụ cho nhiều tiến trình cùng một lúc. Như vậy chương trình sẽ chiếm ít tài nguyên hệ thống làm tăng hiệu lực phục vụ nhiều tiến trình đồng thời. Tuy nhiên yếu điểm của phương pháp này là phải xây dựng một thư viện liên kết động, điều này không phải là dễ. Và phương pháp này chỉ áp dụng trên hệ điều hành Window. ASP (Active Server Pages): là một môi trường giúp ta sử dụng các ngôn ngữ đặc tả để tạo ra các chương trình giao tiếp cho tính năng động, tương tác và có tính hiệu quả cao cho Web Server. Các ngôn ngữ có thể sử dụng được là VBScript hoặc JavaScript. Ưu điểm nổi bật của ASP là nó hỗ trợ ngay các ngôn ngữ đặc tả được ứng dụng trong các trang HTML. Tức là trong một file bao gồm cả các thẻ chuẩn HTML đồng thời chứa các câu lệnh của ASP. Khi có một khách hàng yêu cầu một file có chứa chương trình ASP, ASP sẽ đọc nội dung file nếu gặp các thẻ chuẩn của HTML nó sẽ không xử lý nhưng nếu gặp nó các dòng lệnh của ngôn ngữ đặc tả thì nó sẽ xử lý. Sau quá trình xử lý nó sẽ trộn các kết quả vừa xử lý và các dòng lệnh HTML chuẩn để gửi về cho chương trình duyệt như một file HTML bình thường mà bất kỳ một trình duyệt nào cũng hiểu được. Tuy rằng các câu lệnh ASP giống như một ngôn ngữ lập trình nhưng tính cấu trúc của nó lại không cao. Một ưu điểm nổi bật của ASP là nó đã tích hợp sẵn các phương thức truy cập CSDL và ngôn ngữ SQL trong chương trình. Như vậy đối với người lập trình chỉ cần am hiểu các ngôn ngữ đặc tả thông thường và các khái niệm làm việc với CSDL đều có thể tạo ra được các ứng dụng tốt. Một đặc điểm khác của ASP có thể tích hợp các ngôn ngữ mạnh khác như Java, và cả chương trình CGI trong đó. Chương 3 Cơ sở dữ liệu và cách truy xuất cơ sở dữ liệu 1. Khái niệm Cơ sở dữ liệu là một lĩnh vực rất quan trọng của công nghệ thông tin mà nếu thiếu nó nhiều vấn đề đặt ra sẽ khó giải quyết được. Cơ sở dữ liệu được định nghĩa là kho thông tin về một chủ đề, được tổ chức hợp lý để dễ dàng quản lý và truy tìm. Bất kỳ kho thông tin nào đáp ứng được yêu cầu này đều có thể coi là một cơ sở dữ liệu. 2. Quản trị cơ sở dữ liệu là gì ? Chương trình quản trị cơ sở dữ liệu là một chương trình ứng dụng trên máy tính các công cụ để truy tìm, sửa chữa, xoá và chèn thêm dữ liệu. Các chương trình này cũng có thể dùng để tạo lập một cơ sở dữ liệu và tạo ra các báo cáo, thống kê. Các chương trình quản trị cơ sở dữ liệu liên quan khá thông dụng hiện nay tại Việt Nam là Foxpro, Access cho ứng dụng nhỏ, MSSQL và Oracle cho ứng dụng vừa và lớn. Quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ là một cách quản lý cơ sở dữ liệu trong đó dữ liệu được lưu trữ trong các bảng dữ liệu hai chiều gồm các cột và các hàng, có thể liên quan với nhau nếu các bảng đó có một cột hoặc một trường chung nhau. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu là một quá trình xử lý xoay quanh các vấn đề sau đây: + Lưu trữ dữ liệu + Truy nhập dữ liệu + Bảo đảm tính toàn vẹn của dữ liệu Ba vấn đề chính ở trên có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc lẫn nhau và chúng được liệt kê theo thứ tự thực hiện mỗi ứng dụng. Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ (Relationship Database Management System - RDMS) được xây dựng làm đơn giản hoá quá trình lưu và đọc dữ liệu RDMS cung cấp khả năng giao tiếp tốt với dữ liệu và giúp người lập trình tự do trong lĩnh vực quản lý truy cập cơ sở dữ liệu Sau đây là các bước xây dựng một cơ sở dữ liệu theo mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ: + Tổ chức dữ liệu theo table + Xác định các mối quan hệ giữa các table + Tạo tập tin cơ sở dữ liệu và định nghĩa cấu trúc của các table trong cơ sở dữ liệu. + Lưu dữ liệu Hai bước đầu là hai bước thiết kế cơ sở dữ liệu và đây là hai bước cực kỳ quan trọng. Nếu được thiết kế tốt, các khía cạnh khác sẽ được giải quyết dễ dàng hơn; ngược lại việc khai thác cơ sở dữ liệu sẽ không hiệu quả và chương trình sẽ có những lỗi rất khó phát hiện. Các bước chính khi tiến hành thiết kế một cơ sở dữ liệu: Xác định dữ liệu cần trong ứng dụng Xác định nguồn gốc dữ liệu Tổ chức dữ liệu thành các table Tiêu chuẩn hoá dữ liệu và các mối quan hệ giữa chúng Xác định cách sử dụng các bảng 3. Chuẩn ODBC (Open Database Connectivity) Trong mỗi hệ thống thông tin cách lưu trữ dữ liệu rất riêng biệt, thay đổi từ các file đơn giản đến cơ sở dữ liệu có quan hệ và cấu trúcYêu cầu đặt ra là phải tích hợp các hệ thống lưu trữ đó trong một môi trường mới. Microsoft đã giải quyết vấn đề đó bằng chuẩn ODBC (Open Database Connectivity). Phát triển ODBC, Microsoft muốn cung cấp một giao diện lập trình của các ứng dụng (Application Programming Interface - API) duy nhất có thể sử dụng để truy nhập dữ liệu trên nhiều hệ quản lý cơ sở dữ liệu khác nhauODBC có hai ưu điểm tận dụng được là: ODBC cung cấp một giao diện duy nhất để truy cập đến nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, nhờ đó giảm bớt thời gian nghiên cứu cơ sở dữ liệu mới cho ác nhà lập trình và phát triển ODBC cho phép phát triển ứng dụng Client độc lập với Server 4. Cấu trúc của ODBC Cấu trúc của ODBC gồm có bốn thành phần chính sau: Application Driver Driver Data source Application (ứng dụng): là giao diện người sử dụnglàm việc với cơ sở dữ liệu. Chúng sử dụng API với ODBC để xây dựng mối liên kết đến cơ sở dữ liệu và ứng dụng các câu lệnh SQL để điều khiển dữ liệu. Driver Manager(trình quản lý điều khiển): là trung gian giữa ứng dụng và trình điều khiển xác định được cần đến để truy cập từng loại cơ sở dữ liệu. Chúng ta hiểu rằng ứng dụng không đòi hỏi một mối liên kết đến trình điều khiển, thay vì đó nó đòi hỏi truy cập đến một thứ hợp lý hơn được gọi là Data Source. Trình điều khiển kết nối nó với một trình điều khiển vật lý và cơ sở dữ liệu. Driver(trình điều khiển): Trình điều khiển thực sự bổ sung ODBC API cho một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu đặc biệt. Nó xây dựng mối liên hệ đến Server, chịu sự điều khiển của các query SQL và trả về tập kết quả hay thông báo lỗi cho ứng dụng. Data Source( Nguồn dữ liệu ): Nguồn dữ liệu là thành ngữ được Microsoft sử dụng để mô tả sự liên kết của hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Hệ điều hành từ xa và mạng được yêu cầu để truy nhập cơ sở dữ liệu riêng nào đó. 5. Cấp độ tương thích Chuẩn ODBC không cung cấp một chuẩn duy nhất cho các trình điều khiển, nó phân các trình điều khiển tương thích thành hai loại: + Loại hỗ trợ cho ODBC API + Loại hỗ trợ cho SQL 6. Cấu hình ODBC ODBC được bổ sung như là một chuỗi các file có thể thi hành được các thư viện liên kết động (Dynamic Link Libary) và các file cấu hình INI như sau: ODBC Administrator( ODBC ADM. EXE): đây là chương trình thuộc nhóm Control Panel cho phép chúng ta cài đặt các trình điều khiển ODBC mới và định nghĩa Data Source mới. Chi tiết về các tự động hoá đã được cài đặt nằm trong ODBCINST. INI, còn chi tiết về Data Source nằm ở ODBC. INI Driver Manager(ODBC. DLL): trình quản lý điều khiển chịu trách nhiệm kết nối Data Source đến các trình điều khiển ODBC khác nhau và các khởi động kích hoạt khác. Driver : Các trình điều khiển tự chúng bao gồm một hay nhiều thư viện liên kết động cũng như hỗ trợ các file INI, tuỳ thuộc vào các trình bổ sung cho các nhà cung cấp. Trước khi truy cập một cơ sở dữ liệu thông qua ODBC chúng ta phải định nghĩa Data Source để cho ODBC biết làm sao để xây dựng mối liên kết cho chúng khi yêu cầu. Có thể sử dụng một trong hai cách sau: Tên Data Source Tên cơ sở dữ liệu. Mô tả về cơ sở dữ liệu có thể có hoặc không Khi truy xuất cơ sở dữ liệu bằng ASP chúng ta sẽ sử dụng phương pháp thứ nhất tức là sử dụng ODBC Administrator để định nghĩa một Data Source Chương 4 ASP và việc xây dựng các ứng dụng trên Web 1. Khái niệm ASP (Active Server Page) ASP là môi trường kịch bản trên máy chủ (Server - Side Scripting Enviroment ASP ( active server page ) Giới thiệu về ASP: Microsoft Active Server Page là một ứng dụng giúp ta áp dụng các ngôn ngữ Script để tạo những ưngs dụng động, có tính bảo mật cao và làm tăng khả năng giao tiếp của chương trình ứng dụng. Các đoạn chương trình nhỏ được gọi là Script sẽ được nhúng vào các trang của ASP phục vụ cho việc đóng mở và thao tác với dữ liệu cũng như điều khiển các trang Web tương tác với người dùng như thế nào. Một khái niệm sau đây liên quan đến ASP Script: là một dãy các lệnh đặc tả (Script). Một Sript có thể : Gán một giá trị cho một biến. Một biến là một tên xác định để lưư giữ dữ liệu, như một giá trị. Chỉ thị cho Web Server gửi trả lại cho trình duyệt một giá trị nào đó, như giá trị cho một biến. Một chỉ thị trả cho trình duyệt một giá trị là một biểu thức đầu ra( output expression). Tổ hợp của các lệnh được đặt trong các thủ tục. Một số thủ tục là tên gọi tuần tự của các lệnh và khai báo cho phép hoạt động như một ngôn ngữ( unit) Ngôn ngữ Script (Script language): là ngôn ngữ trung gian giữa HTML và ngôn ngữ lập trình JAva, C++, Visual Basic. HTML nói chung được sử dụng để tạo và kết nối các trang text. Còn ngôn ngữ lập trình được sử dụng để đưa ra dẫy các lệnh phức tạp cho máy tính. Ngôn ngữ Scripting nằm giữa chúng mặc dù chức năng của nó giống ngôn ngữ lập trình hơn là các trang HTML đơn giản. Sự khác nhau cơ bản giữa ngôn ngữ Scripting và ngôn ngữ lập trình là các nguyên tắc của nó ít cứng nhắc và ít rắc rối khó hiểu hơn. Do vậy, các đoạn chương trình script gọn nhẹ có thể lồng ngay vào các trang Web. Công cụ đặc tả (Scripting engine): Để chạy được các loại chương trình Script thì phải có máy Script engine. Máy này có nhiệm vụ đọc mã nguồn của chương trình và thực hiện các câu lệnh đó. Mỗi ngôn ngữ Script có một loại máy Script riêng. VD: VBScript engine cho loại chương trình VBScript, JavScript engine cho JavaScript. Có hai ngôn ngữ Script mà ASP hỗ trợ chính là Visual Basic Script và Java Script. Ngôn ngữ được ASP hỗ trợ mặc định là VBScript nên khi muốn dùng ngôn ngữ Script mặc định là Java Script chẳng hạn thì phải có dòng khai báo sau: ASP cung cấp một môi trường chình cho các công cụ đặc tả và phân tích các script trong một file.ASP để các công cụ này xử lý. ASP còn cho phép viết hoàn chỉnh các thủ tục để phát triển Web bằng nhiều ngôn ngữ Script mà trình duyệt có thể hiểu được tất cả. Trên thực tế, vài ngôn ngữ Script được sử dụng trong một file và nó được thực hiện bằng cách định nghĩa ngôn ngữ Script trong một trang của HTML tại nơi bắt đầu thủ tục Script. ASP xây dựng các file ở khắp nơi với phần đuôi mở rộng là .asp. File .asp là một file text và có thể bao gồm các sự kết hợp sau: Text Các trang của HTML Các câu lệnh của Script 2. Mô tả của asp Cách hoạt động của mô hình ASP được mô tả tóm tắt qua 3 bước sau: Một ASP bắt đầu chạy khi trình duyệt yêu cầu một file .asp cho Web Server. File .asp đó được nạp vào bộ nhớ và thực hiện ( tại máy chủ). Các đoạn chương trình Script trong file .asp đó có thể là mở dữ liệu, thao tác với dữ liệu để lấy những thông tin mà người dùng cần đến. Trong giai đoạn này, file .asp đó cũng xác định xem là đoạn script nào chạy trên máy người sử dụng. Sau khi thực hiện xong thì kết quả thực hiện của file .asp đó sẽ được trả về cho Web Server Browser của người sủ dụng dưới dạng trang Web tĩnh. Cú pháp của ASP: ASP không phải là ngôn ngữ Scripting mà thực ra nó cung cấp một môi trường để xử lý các Script có trong trang HTML. Sau đây là một số quy tắc và cú pháp của ASP. Phân định ranh giới(Delimiter): Các trang của HTML được phân định với text dựa vào các phân định ranh giới. Một phân định ranh giới là một ký tự hay các thứ tự đánh dấu điểm bắt đầu và kết thúc của một đơn vị. Trong trường hợp của HTML, các ký hiệu ranh giới(). Tương tự, các lệnh của Script ASP và các biểu thức đầu ra được phân biệt giữa text và các trang HTML bằng các phân định ranh giới ASP sử dụng phân định ranh giới là để chứa các lệnh ScriptVD: tức là gán giá trị football cho biến sport. ASP sử dụng phân định ranh giới là để chứa các biểu thức đầu ra. Như VD trên, biểu thức đầu ra sẽ gửi giá trị football ( giá trị hiện thời của biến) cho trình duyệt. 3. Câu lệnh của ASP Trong VbScript và các ngôn ngữ Scripting, một câu lệnh là đơn vị cú pháp hoàn chỉnh mô tả một loại của hành động, khai báo, hay định nghĩa. Sau đây mô tả lệnh IF...Then...Else của VbScript. <% If Time>=#10:00:00 AM# And Time<# 12:00:00 PM then Greeting=”Chào buổi sáng” Else Greeting=”Chào bạn” End if %> Với đoạn Script trên, khi người sử dụng nó sẽ xem trước 10 giờ sáng thì trên trình duyệt xuất hiện dòng: Chào buổi sáng, còn nếu sau 10 giờ thì sẽ thấy Chào bạn...Các thủ tục trong file ASP: Một đặc tính hấp dẫn của ASP là khả năng kết hợp chặt chẽ của các thủ tục ngôn ngữ Script trong cùng một file .asp đơn lẻ. Nhờ vậy, ta có thể sử dụng các điểm cực mạnh của ngôn ngữ Scripting để thực hiện một cách tốt nhất. Một thủ tục là một nhóm lệnh Script để thi hành một công việc cụ thể. Ta có thể định nghĩa một thủ tục và gọi sử dụng chúng nhiều lần trong các Script. Định nghĩa một thủ tục có thể xuất hiện trong Tag... và phải tuân theo các quy tắc của ngôn ngữ Script được khai báo. Thủ tục này có thể kéo dài tuỳ thích và phải đặt trong phân định Script là nếu chúng cùng trong một ngôn ngữ Scripting giống như script mặc định. Ta có thể đặt các thủ tục trong chính các file ASP chung và sử dụng lệnh Include Name Server( đó là để bao gồm cả nó trong file ASP gọi thủ tục. Hoặc có thể đóng gói theo chức năng một ActiveX Server component. 4. Gọi các thủ tục trong ASP Để gọi các thủ tục, bao gồm tên thủ tục trong lệnh. Đối với VbScript, ta có thể dùng từ khoá Call để gọi thủ tục. Tuy nhiên, các thủ tục được gọi yêu cầu các biến này phải đặt trong các dấu ngoặc đơn. Nếu bỏ qua từ khoá Call thì ta cũng phải bỏ luôn cả dấu ngoặc đơn đi cùng bao quanh các biến. Nếu gọi thủ tục Java Script từ VbScript thì ta phải sử dụng dấu ngoặc đơn sau tên thủ tục, nếu thủ tục không có biến thì sử dụng dấu ngoặc đơn rỗng. 5. Các đối tượng của ASP(Object) Một đối tượng là kết hợp giữa lập trình và dữ liệu mà có thể xem như là một đơn vị. ASP có 5 đối tượng sau: Đối tượng Nhiệm vụ Đối tượng Request Lấy thông tin từ người dùng Đối tượng Response Gửi thông tin cho người dùng Đối tượng Server Điều khiển hoạt động của môi trường ASP Đối tượng Session Lưu trữ thông tin từ một phiên (session) của người dùng Đối tượng Application Chia xẻ thông tin cho các người dùng của một ứng dụng Lấy thông tin từ người dùng: Đối tượng Request cho phép truy cập mọi thông tin lấy được chuyển qua với một yêu cầu của HTML. Đối tượng Request có 5 thông tin sau: Query String: Mặc dù có thể sử dụng biến Server là QUERY_STRING để xử lý thông tin QUERY_STRING từ yêu cầu của người dùng, ASP cung cấp QUERY_STRING để thông tin đễ dàng. Nếu form sử dụng phương pháp POST, các thông tin lấy được giống như một biến đặt sau đấu hỏi của URL. Form: thu nhặt tất cả các giá trị mà người sử dụng đã tạo ra vào Form khi nút submit của nó được bấm, nó được truyền về Server với phương thức POST. Gửi thông tin cho người dùng: Có thể dùng đối tượng Response để điều khiển thông tin gửi cho Web Browser bằng cách sử dụng: Cách thức ResponseContent Type để điều khiển kiểu cả nội dung gửi. Cách thức Response. Cookies để thiết lập một giá trị của Cookies. Cách thức Response Buffer để đệm thông tin. Cách thức ResponseAddHeader để thêm một phần tiêu đề mới vào HTML header với một số giá trị chọn lọc. Cách thức ResponseClear để xóa toàn bộ đệm ra của HTML, cách thức này chỉ xoá phần thân của response chứ không xoá phần header. Cách thức Response. End để kết thúc việc xử lý ở file .asp và gửi cho Web Browser kết quả thu được khi xảy ra phương thức này. Cách thức Response Flush: Khi thông tin được gửi ra bộ đệm kết quả thì nó chưa được gửi ngay về Web Browser mà chỉ đến khi dùng phương thức này thông tin mới được trả ngay về Web Browser. Tuy nhiên sẽ bị thông báo lỗi Run_Time nếu ResponseBuffer chưa đặt giá trị true. Server là đối tượng điều khiển môi trường hoạt động ASP, nó cung cấp các phương thức cũng như thuộc tính của Server. Phương thức Server. CreatObject dùng để tạo ra các đối tượng mới trên Server. Phương thức Server. HTMLEncode cung cấp khả năng mã hoá địa chỉ URL. Phương thức Server. MapPath trả về địa chỉ vật lý tương ứng như địa chỉ thư mục ảo trên máy chủ. Phương thức Server. URLEncode cung cấp khả năng mã hóa địa chỉ URL. Các đối tượng Session và Application: được sử dụng ghi nhớ thông tin trạng thái của các ứng dụng ASP. Ta có thể sử dụng ASP để duy trì 2 trạng thái: Trạng thái ứng dụng (Application State) bao gồm tất cả các thông tin trạng thái của các ứng dụng có hiệu lực với tất cả người sử dụng ứng dụng. Đối tượng Application được sử dụng để lưu trữ thông tin chung mà nó có thể chia sẻ cho tất cả moị người dùng một ứng dụng ASP đơn giản. Trạng thái phiên (Session State) bao gồm thông tin chỉ có hiệu lực với một người sử dụng cụ thể. Dùng đối tượng Session để quản lý thông tin của một người đang sử dụng ứng dụng. Trong mỗi ứng dụng ASP cơ bản có thể có file Global.asa. File này được lưu giữ trong thư mục gốc của ứng dụng. ASP đọc file này khi: Web Server bắt đầu nhận được yêu cầu bắt đầu khởi tạo ứng dụng. Điều này có nghĩa là sau khi Web Server chạy, yêu cầu đầu tiên đến một file .asp sẽ làm là cho ASP tới đọc file Global.asa gồm có: Các sự kiện bắt đầu ứng dụng Application_ OnStart, bắt đầu phiên SessionOnEnd hoặc cả hai. Trong đó có các thủ tục Script mà mà ta muốn chạy mỗi khi sử dụng một úng dụng hay một phiên. Nếu một ứng dụng và một phiên khởi động vào cùng một thời điểm, ASP sẽ xử lý sự kiện ứng dụng trước khi nó xử lý sự kiện bắt đầu phiên. Các sự kiện kết thúc ứng dụng Application_OnEnd, kết thúc phiên Session_OnEnd hoặc cả hai. Cũng như các sự kiện này là các thủ tục trong file Global. asa Ta có thể sử dụng Tag để tạo các đối tượng trong file Global. asa. ASP làm việc với ActiveX Server Component: ActiveX Server Component có thể hiểu được theo cách thông thường là các tự động hóa của Server, được thiết kế chạy trên Web Server như là một ứng dụng của Web cơ bản. Các thành phần đóng gói thường là đặc trưng năng động như là cơ sở dữ liệu Acces, vì vậy ta không phải tạo ra các chức năng này. ASP gồm có 5 ActiveX Server Component: Thành phần cơ sở dữ liệu Access Thành phần Ad Rotator Thành phần tương thích với trình duyệt Thành phần file Access Thành phần kết nối động. Phần II. Thiết kế chương trình quản lý văn bản pháp luật Chương 1.Thiết kế hệ thống 1.Đặt vấn đề: Ngày nay mạng máy tính đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sử dụng mạng máy tính con người cùng chia sẻ được mọi tài nguyên của máy. Nó giúp cho con người nắm bắt được thông tin một cách nhanh nhất. Trong lĩnh vực pháp luật là lĩnh vực nhạy cảm liên quan tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội thì việc nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng và chính xác có một vai trò quan trọng.Do đó nhu cầu tra cứu thông tin về các văn bản pháp luật trên mạng là một nhu cầu tất yếu phát sinh Với một lượng văn bản pháp luật khổng lồ lên tới hàng vạn văn bản pháp luật liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc quản lý thật không đơn giản. Việc quản lý rất phức tạp và gặp nhiều khó khăn.Hiện nay có rất nhiều công ty có các trang web pháp luật để giới thiệu về công ty mình nhưng chưa có công ty nào có các trang web lưu trữ hệ thống văn bản pháp luật để giúp người sử dụng tra cứu một cách thuận tiện. Khi muốn tra cứu thì người dùng phải mua sách hoặc tra trên đĩa CD cơ sở dữ liệu pháp luật do văn phòng quốc hội ban hành. Nhưng việc tra cứu gặp khó khăn vì không câp nhật được các văn bản một cách kip thời, trong khi các văn bản do các cơ quan ban hành thì thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Người sử dụng có khi lại tra cứu một văn bản đã hết hiệu lực pháp luật. 2. Cách tổ chức dữ liệu và thiết kế chương trình cho bài toán quản lý văn bản pháp luật trên web Để lưu trữ được các văn bản pháp luật một cách khoa học ,thuận tiện cho việc tra cứu, tìm kiếm thì ta phảI hiểu rõ về từng loại văn bản pháp luật cũng như cách phân loại chúng. Việc phân loại các văn bản pháp luật được thực hiện như bảng sau: Hiến pháp Luật hình sự Luật dân sự ………… Bộ luật hình sự Bộ luật tố tong dân sự …………………. Bộ luật dân sự ……………. …………… Để giải quyết được các yêu cầu đã phân tích, cơ sở dữ liệu về văn bản phải thuận tiện cho việc lưu trữ, cập nhật sửa chữa và đặc biệt là phải khoa học để lúc hiển thị lên trang Web được dễ dàng, hấp dẫn người sử dụng, tìm kiếm được nhanh chóng. Một phương pháp sử dụng khá rộng rãi từ trước đến nay là quản lý theo từng ngành luật. Mỗi văn bản sẽ thuộc về một nhóm sẽ có một mã nhóm và tên nhóm. Mỗi một văn bản sẽ thuộc về một ngành luật và bản thân một văn bản cũng sẽ có một mã văn bản và tên văn bản để nhận biết. Như vậy trong một ngành luật sẽ có nhiều loại văn bản , và mỗi một văn bản sẽ phải có những thông tin chi tiết về chính văn bản đó như mã văn bản, tên của văn bản, ngày ký, người ký, thời đIúm có hiệu lực. Việc mã hóa rõ ràng đóng một vai trò quan trọng.Nó giúp cho người sử dụng tra cứu một cách nhanh chóng văn bản mà họ quan tâm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK2834.DOC
Tài liệu liên quan