Đồ án Phân tích tình hình thực hiện giá thành pha chế dầu nhờn tại chi nhánh hoá dầu Hải Phòng

Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhà cửa, kho tàng, máy móc trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Trong đó máy móc thiết bị sản xuất - kinh doanh chiếm một tỷ trọng đáng kể. Khấu hao máy móc thiết bị được hạch toán riêng thành một khoản mục chi phí của giá thành. Đối với TCP của cả doanh nghiệp chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc nhóm chi phí ổn định. Thông thường, đầu niên khoá tài chính, doanh nghiệp đã có thể xác định được TCP khấu hao tài sản cố định. Dù hoạt động sản xuất - kinh doanh nhiều hay ít, thì trong niên khoá tài chính đó doanh nghiệp vẫn phải trang trải, vẫn phải tính vào giá thành sản phẩm - hàng hoá tiêu thụ một khoản khấu hao cố định. Bởi vậy nếu tính trên 1 đơn vị sản phẩm hàng hoá tiêu thụ thì chi phí khấu hao thuộc loại chi phí biến động. Nếu khối lượng sản xuất - kinh doanh càng tăng thì chi phí khấu hao tính cho 1 đơn vị sản phẩm - hàng hoá tiêu thụ càng giảm.

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích tình hình thực hiện giá thành pha chế dầu nhờn tại chi nhánh hoá dầu Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý các định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Giá thành đơn vị và tổng giá thành sản lượng hàng hoá Giá thành đơn vị là giá thành tính cho một loại sản phẩm nhất định, theo một đơn vị nhất định. Giá thành đơn vị sản phẩm dùng để so sánh, đối chiếu giữa giá thành kế hoạch với giá thành thực tế, hoặc đối chiếu giữa giá thành của doanh nghiệp với giá thành cùng loại sản phẩm của các doanh nghiệp khác, hoặc đối chiếu giữa kỳ kế hoạch với kỳ báo cáo. Trên cơ sở đó, tiến hành phân tích, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến việc hạ giá thành sản phẩm. Tổng giá thành sản lượng hàng hoá là toàn bộ những chi phí bỏ ra để tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tính cho toàn bộ sản lượng hàng hoá sản xuất trong kỳ. Giá thành toàn bộ sản lượng hàng hoá cho biết toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ và tỷ trọng của từng loại chi phí có trong giá thành để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hàng hoá. Tỷ trọng chi phí là căn cứ để phân tích, tìm ra các biện pháp hạ giá thành sản phẩm. 1.2.4.Phương pháp tính giá thành thực tế 1.2.4.1. Công thức tổng quát Giá thành thực tế sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ được xác định như sau: Z = C + Dđk - Dck Giá thành đơn vị sản phẩm sẽ là: zđv = Z Q = C + Dđk - Dck Q ở đây: Z : Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ của từng đối tượng tính giá thành (đ) zđv: Giá thành đơn vị sản phẩm của từng đối tượng tính giá thành đ/sp C: Tổng chi phí sản xuất trong kỳ (đ) Dđk và Dck - Chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ (đ) Q: Sản lượng thành phẩm (hiện vật). Trong trường hợp cuối tháng không có sản phẩm dở dang hoặc ít và ổn định, thì từng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cũng đồng thời là tổng giá thành sản phẩm đã hoàn thành, khi đó Z = C. Như vậy, để tính được giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ, cuối kỳ kế toán nhất thiết phải kiểm kê và ước tính giá trị SP, dịch vụ dở dang cuối kỳ còn giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ là giá trị cuối kỳ trước chuyển sang. Kiểm kê, tính giá sản phẩm dở dang cuối kỳ: Sản phẩm dở dang là sản phẩm chưa hoàn thành quy trình chế biến của mình trong phạm vi doanh nghiệp. Kiểm kê sản phẩm dở dang là xác định số lượng sản phẩm dở dang trong các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Việc kiểm kê cần tiến hành đồng bộ vào 1 thời điểm cuối tháng ở tất cả các bộ phận sản xuất để tránh khỏi tính trùng cũng như không bị bỏ sót sản phẩm dở dang. Tính giá sản phẩm dở dang là xác định chi phí sản xuất liên quan đến việc chế biến sản phẩm dở dang đó. Tùy theo đặc điểm sản xuất và quản lý của doanh nghiệp mà kế toán lựa chọn phương pháp tính giá sản phẩm dở dang thích hợp trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc nhất quán của kế toán. Có các phương pháp tính giá sản phẩm dở dang sau : * Tính theo chi phí nguyên vật liệu chính : theo phương pháp này chỉ tính vào giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chi phí nguyên vật liệu chính. Còn các chi phí còn lại (được gọi chung là chi phí chế biến) được tính hết cho sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Phương pháp này đơn giản, dễ tính toán nhưng không chính xác lắm và chấp nhận được trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng đáng kể trong giá thành. * Tính theo chi phí trực tiếp : Theo phương pháp này chỉ tính vào giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, còn chi phí sản xuất chung tính hết cho sản phẩm hoàn thành (không phân bổ cho sản phẩm dở dang cuối kỳ). Như vậy, so với phương pháp trên chính xác hơn vì có tính thêm 1 phần chi phí chế biến. * Tính theo giá thành bán thành phẩm bước trước : theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ ở giai doạn 1 được tính theo chi phí nguyên vật liệu chính, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ ở giai đoạn 2 được tính theo giá thành bán thành phẩm bước 1 và cứ như vậy... giá trị sản phẩm dở dang bước n được tính theo giá thành bán thành phẩm bước (n - 1). Nói cách khác, chi phí chế biến ở mỗi bước được tính hết vào giá thành sản phẩm hoàn thành của bước đó. Phương pháp này áp dụng trường hợp doanh nghiệp có tính giá thành các loại bán thành phẩm. * Tính theo mức độ hoàn thành (còn gọi là ước tính sản lượng tương đương): Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang mà quy đổi ra thành sản phẩm hoàn thành tương đương, trên cơ sở đó phân bổ chi phí đầu vào cho sản phẩm dở dang cuối kỳ. Khi áp dụng phương pháp này cần phân biệt 2 trường hợp: 1>Chi phí nguyên vật liệu chính được bỏ ra 1 lần ngay từ đầu trước khi chế biến sản phẩm: trong trường hợp này chi phí nguyên vật liệu chính cho 1 sản phẩm dở dang cũng bằng chi phí nguyên vật liệu chính cho 1 sản phẩm hoàn thành và so với cùng khối lượng sản phẩm hoàn thành thì : Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ = 100% chi phí nguyên vật liệu chính + Chi phí chế biến x % hoàn thành 2>Chi phí nguyên vật liệu chính được bỏ vào dần dần trong quá trình sản xuất cùng với các chi phí chế biến khác (vật liệu phụ, nhân công, quản lý...). Trong trường hợp này chi phí nguyên vật liệu chính cũng được tính theo mức độ hoàn thành như những chi phí chế biến khác và so với cùng khối lượng sản phẩm hoàn thành thì : Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ = Chi phí nguyên vật liệu chính + Chi phí chế biến x % hoàn thành * Tính theo 50% chi phí chế biến : Đây là một trường hợp riêng của phương pháp trên. Phương pháp này giả định rằng tất cả sản phẩm dở dang đều hoàn thành ở mức độ %, trên cơ sở đó tính ra giá thành sản phẩm dở dang cuối kỳ theo 2 công thức trên. Phương pháp này không chính xác lắm vì mang tính giả định nhưng cũng chấp nhận được vì đơn giản và áp dụng được trường hợp khối lượng sản phẩm dở dang nằm rải rác ra tương đối đồng đều ở các giai đoạn sản xuất khác nhau (khi đó bù trừ nhau sẽ hoàn thành ~ 50%). Ngoài ra, phương pháp này còn được áp dụng để tính giá sản phẩm dở dang bị hao hụt, mất mát mà không xác định được mất ở giai đoạn nào của chu kỳ sản xuất. * Tính theo giá thành định mức : theo phương pháp này các chi phí trực tiếp (chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công) được tính vào sản phẩm dở dang theo định mức chi phí, chi phí sản xuất chung được phân bổ vào sản phẩm dở dang theo tiên thức nhất định. Phương pháp này đơn giản mà vẫn tương đối chính xác (mức độ chính xác phụ thuộc vào chất lượng công tác định mức) nhưng đòi hỏi phải có đẩy đủ các định mức chi phí. 1.2.4.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành : Tùy theo đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức và quản lý sản xuất mà kế toán áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp. Về cơ bản, có 2 phương pháp tính giá thành như sau : 1>Tính giá thành theo công việc : Phương pháp này áp dụng trong các trường hợp sau : - Sản phẩm có quy trình chế biến giản đơn (còn gọi là 1 bước). Quy trình công nghệ giản đơn là quy trình chế biến liên tục khép kín về không gian và thời gian kể từ khi đưa vật liệu chính vào chế biến đến khi ra sản phẩm cuối cùng. - Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng: trước khi tiến hành sản xuất đã xác định được khối lượng, mặt hàng cần sản xuất, giá bán của sản phẩm và người mua các loại và lượng sản phẩm đó. - Doanh nghiệp thuộc loại hình tổ chức sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt nhỏ, sản xuất không liên tục, mặt hàng không ổn định, chu kỳ sản xuất này kết thúc, chu kỳ sau đã có thể sản xuất mặt hàng khác. Theo phương pháp này đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm đã hoàn thành. Chi phí sản xuất trong kỳ được tập hợp hoặc phân bổ trực tiếp theo các đối tượng tính giá thành. Tùy theo đặc điểm sản xuất cụ thể của doanh nghiệp mà áp dụng 1 trong các công thức tính tổng giá thành sản phẩm dịch vụ hoàn thành trong kỳ (gọi tắt là tổng giá thành) sau : * Trường hợp khối lượng sản phẩm dở dang không có hoặc có ít không đáng kể (ngành điện, than, kinh doanh dịch vụ v.v...) Tổng giá thành = Tổng chi phí sản xuất trong kỳ * Trường hợp khối lượng sản phẩm dở dang có nhiều và biến động nhiều giữa các kỳ thì để đảm bảo tính giá thành chính xác, phải tính đến chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang giữa đầu và cuối kỳ. Giá thành sản phẩm , dịch vụ được tính theo công thức tổng quát ở trên. *Trường hợp doanh nghiệp sản xuất 1 loại sản phẩm với nhiều kích cỡ, mẫu mã, quy cách khác nhau thì để đơn giản cho việc tính giá thành người ta quy các chủng loại khác nhau đó thành các nhóm sản phẩm (đối tượng tính giá thành là nhóm sản phẩm) và quy đổi các nhóm sản phẩm ra thành sản phẩm qui chuẩn (hoặc sản phẩm qui đổi), trên cơ sở đó tính tổng giá thành và giá thành đơn vị của nhóm. Tổng giá thành của nhóm = Tổng giá thành của tất cả các nhóm x Số SP qui chuẩn của nhóm(Q0i) Tổng số SP qui chuẩn của tất cả các nhóm(Q0) Số sản phẩm qui chuẩn của nhóm (Q0i) = Số sản phẩm x Hệ số quy đổi của nhóm (Qi) của nhóm (Hi) Tổng số sản phẩm qui chuẩn của các nhóm Q0 = * Trường hợp trong cùng 1 quá trình sản xuất ngoài sản phẩm chính, doanh nghiệp còn thu được sản phẩm phụ thì khi tính tổng giá thành đều phải trừ bớt giá trị sản phẩm phụ. Giá trị sản phẩm phụ ở đây được tính theo giá bán tối thiểu của sản phẩm đó trên thị trường. Tổng giá thành Trong tất cả các trường hợp trên, sau khi tính xong tổng giá thành, kế toán tính tiếp giá thành đơn vị theo công thức sau : Giá thành đơn vị = = Sản lượng hoàn thành * Trường hợp doanh nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt nhỏ thì chi phí sản xuất được tập hợp theo từng đơn vị sản phẩm, theo từng loạt sản phẩm , hoặc theo từng đơn đặt hàng. Việc tính giá thành không thực hiện định kỳ theo kỳ báo cáo mà tiến hành vào thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất, khi sản phẩm , loạt sản phẩm hoặc đơn đặt hàng được hoàn thành. Trong trường hợp này không cần kiểm kê và tính giá sản phẩm dở dang cuối kỳ bởi toàn bộ chi phí sản xuất tập hợp theo các đối tượng tính giá thành chưa hoàn thành chính là giá trị sản phẩm dở dang. 2>Tính giá thành theo giai đoạn (tính giá thành theo phương pháp phân bước): Phương pháp này áp dụng đối với các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm qua nhiều giai đoạn công nghệ khác biệt nhau. Để tạo ra sản phẩm cuối cùng, vật liệu chính phải trải qua nhiều bước chế biến theo 1 trình tự trước sau nhất định, sản phẩm của bước trước là đối tượng chế biến của bước sau. Tùy theo có tính giá thành của bán thành phẩm hay không mà doanh nghiệp có thể lựa chọn 1 trong 2 phương án tính giá thành cụ thể : * Phương án có tính giá thành của bán thành phẩm (gọi tắt là có bán thành phẩm) : Kế toán tính giá thành bán thành phẩm bước 1 rồi tính nhập với chi phí sản xuất của bước 2 để tính tiếp ra giá thành bán thành phẩm bước 2 và cứ như vậy cho đến bước cuối cùng. Phương án tính giá thành có bán thành phẩm cho phép theo dõi chặt chẽ trên sổ sách kế toán việc di chuyển sản phẩm dở dang giữa các giai đoạn sản xuất, nhưng tính toán phức tạp hơn và thường áp dụng khi bán thành phẩm được đem bán ra ngoài hoặc chỉ tiêu giá thành là chỉ tiêu hạch toán nội bộ của bộ phận sản xuất. z1 = Cnvlc + Dđk1+ Ccb1 - Dck1 z2 = Z1 + Dđk2+ Ccb2 - Dck2 ... zn = Zn-1 + Dđkn+ Ccbn - Dckn = zsp z1 , z2 , ... zn Giá thành bán thành phẩm bước 1, 2, .. n zsp Giá thành thành phẩm. Cnvlc Chi phí nguyên vật liệu chính Dđk1, Dđk2, ...Dđkn Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bước 1, 2, ... n Dck1, Dck2, ...Dckn Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ bước 1, 2, ... n Ccb1 , Ccb2 , ... Ccbn Chi phí chế biến bước 1, 2, ... n * Phương án không tính giá thành của bán thành phẩm (gọi tắt là phương án không có bán thành phẩm). Theo phương án này chi phí sản xuất của các giai đoạn khác nhau có liên quan đến khối lượng sản phẩm hoàn thành được tính nhập song song với nhau theo từng khoản mục để tính ngay ra giá thành sản phẩm cuối cùng. z1 = Cnvlc + Ccb1 z2 = Ccb2 ... zn = Ccbn zsp = Z1 + Z2 ... + Zn Quá trình tính giá thành thể hiện theo sơ đồ sau : CFSX bước 1 của thành phẩm + CFSX bước 2 của thành phẩm + ...+ CFSX bước n của thành phẩm = Giá thành thành phẩm 1.3 . Nội dung phân tích chi phí sản xuất - kinh doanh và giá thành sản phẩm 1.3.1. Nội dung phân tích giá thành sản phẩm Phân tích giá thành sản phẩm đuợc thực hiện từ phân tích các khoản mục chi phí 1.3.1.1. Phân tích khoản mục chi phí "Nguyên vật liệu trực tiếp" : Chi phí nguyên, vật liệu là một khoản mục chi phí quan trọng trong lĩnh vực sản xuất. Nó thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và chủ yếu trong sản xuất, chế biến hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Tổng chi phí nguyên vật liệu đối với doanh nghiệp là loại chi phí biến động, tức nó phụ thuộc vào khối lượng sản xuất - kinh doanh nhiều hay ít. Trong phân tích, khi xem xét chi phí nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm, có thể coi đó là loại chi phí thuộc nhóm ổn định, được xác định theo định mức thiết kế chế tạo sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trong giá thành được tính như sau : Kmục CP "nvl" = (mức tiêu hao vật liệu i x đơn giá vật liệu i) Kmục này tăng, giảm là do hai nhân tố : - Nhân tố 1 : "Mức tiêu hao vật liệu" ---> phản ánh trình độ sử dụng vật liệu tiết kiệm hoặc lãng phí. - Nhân tố 2 : "Giá cả vật liệu mỗi loại" --> phụ thuộc vào hai yếu tố : Giá mua vật liệu, phụ thuộc quan hệ cung cầu của mỗi loại vật liệu trên thị trường và chi phí thu mua : phản ánh khả năng tổ chức quá trình thu mua vật liệu hợp lý hay không ? Phân tích khoản mục chi phí vật liệu bằng phương pháp thay thế liên hoàn. 1.3.1.2. Phân tích khoản mục chi phí tiền lương : Trong các doanh nghiệp ở Việt nam, TCP lương thực tế (quỹ lương hoặc quỹ trả công lao động) bao gồm 2 thành phần : chi phí lương ổn định và chi phí lương biến động theo khối lượng sản xuất - kinh doanh. Thông thường phần quỹ lương ổn định được xác định theo qui định chung của Nhà nước và thang bậc hoặc theo các hợp đồng lao động dài hạn theo thời gian. Phần quĩ lương này phụ thuộc vào số lượng và cơ cấu lao động của doanh nghiệp. Việc xác định quĩ lương biến động và sự phân chia nó cho người lao động khá linh hoạt. Một vấn đề đặt ra là tính hợp lý trong các định mức lương. Các định mức này đã gắn với kết quả tăng cường lao động và nâng cao chất lượng lao động thì có tăng được thu nhập không ?... Điều quan trọng trong phân tích chi phí lương không phải là đánh giá sự tăng, giảm tuyệt đối tổng chi phí tiền lương mà là đánh giá sự thay đổi tỷ trọng chi phí lương và hiệu quả của trả công lao động. Nếuu tổng quỹ lương tăng, nhưng tỷ trọng lương giảm thì việc gia tăng quỹ lương được coi là chấp nhận được... Trình tự phân tích chi phí tiền lương : a) Đánh giá chung : + Chênh lệch tiền lương tuyệt đối DL = Quỹ lương thực tế - Quỹ lương kế hoạch Nếu : DL < 0 : Số tính được là tiết kiệm tương đối quỹ lương DL > 0 : Số tính được là vượt chi, không hợp lý. + Chênh lệch tiền lương tương đối DL = (Quỹ lương thực tế – Quỹ lương kế hoạch) x Tỷ lệ hoàn thành KHSX Nếu : DL < 1 là hụt chi quỹ lương DL > 1 là vượt chi quỹ lương Số chênh lệch tương đối thể hiện mức độ tiết kiệm hay lãng phí của số chênh lệch tuyệt đối. b) Tìm nguyên nhân làm tăng, giảm quỹ lương (của lao động trực tiếp). Ltdtt = Số lượng lao động trực tiếp (N) x Mức tiền lương bình quân (Lbq) + Phân tích mức độ ảnh hưởng tới chênh lệch tuyệt đối quỹ lương bằng phương pháp thay thế liên hoàn. - Nhân tố 1 : Số lượng lao động trực tiếp (N) : D L1 = (N1 - N0) L0p0 - Nhân tố 2 : Lương bình quân / người (L0p) : D L2 = N1 x (L1 - L0) c) Phân tích tăng giảm khoản mục "Chi phí lương" trong giá thành đơn vị sản phẩm mỗi loại : + So sánh mức lương của sản phẩm thực tế với KH. + Số chênh lệch chi phí tiền lương do năng suất lao động của lao động trự tiếp sản xuất. Có thể dùng công thức sau để phân tích : Tổng chi phí lương của SP - j Lsp - j = ------------------------------------------ Khối lượng sản phẩm sản xuất - j + Thời gian sản xuất sản phẩm - j x Đơn giá lương tính cho đơn vị j (thời gian theo định mức : giờ, ngày). Như vậy : Mức chi phí tổng lương của 1 sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh mức chi phí lao động sống. Cũng bằng cách thay thế liên hoàn có thể phân tích Kmục này. 1.3.1.3. Phân tích khoản mục chi phí "Khấu hao máy móc thiết bị" : Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhà cửa, kho tàng, máy móc trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh... Trong đó máy móc thiết bị sản xuất - kinh doanh chiếm một tỷ trọng đáng kể. Khấu hao máy móc thiết bị được hạch toán riêng thành một khoản mục chi phí của giá thành. Đối với TCP của cả doanh nghiệp chi phí khấu hao tài sản cố định thuộc nhóm chi phí ổn định. Thông thường, đầu niên khoá tài chính, doanh nghiệp đã có thể xác định được TCP khấu hao tài sản cố định. Dù hoạt động sản xuất - kinh doanh nhiều hay ít, thì trong niên khoá tài chính đó doanh nghiệp vẫn phải trang trải, vẫn phải tính vào giá thành sản phẩm - hàng hoá tiêu thụ một khoản khấu hao cố định. Bởi vậy nếu tính trên 1 đơn vị sản phẩm hàng hoá tiêu thụ thì chi phí khấu hao thuộc loại chi phí biến động. Nếu khối lượng sản xuất - kinh doanh càng tăng thì chi phí khấu hao tính cho 1 đơn vị sản phẩm - hàng hoá tiêu thụ càng giảm. Xét từ góc độ phân tích : TCP khấu hao tài sản cố định thuộc thuộc giá trị tài sản cố định phải tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố định. CPKH.TSCĐ = Tổng giá trị TSCĐ x Tỷ lệ khấu hao Giá trị tài sản cố định phải tính khấu hao phụ thuộc giá mua ban đầu của TSCĐ, hệ số đánh giá lại TSCĐ, thời gian đưa TSCĐ vào sử dụng và tính khấu hao. Tính mức ảnh hưởng của 2 nhân tố bằng phương pháp thay thế liên hoàn. Xác định tỷ lệ khấu hao phổ biến 3 phương pháp : Phương pháp khấu hao đều : Quy định mức thu hồi vốn đầu tư đều đặn hàng năm . Phương pháp này rất thuận tiện trong điều kiện kinh tế có giá cả ổn định hoặc đối với các loại tài sản cố định có giá cả ổn định trong nhiều năm , ít bị ảnh hưởng bởi yếu tố tiến bộ KHKT ứng dụng. Phương pháp khấu hao luỹ kế giảm ( Khấu hao nhanh ) cho phép thu hồi vốn trong những năm đầu cao hơn những năm sau. Phương pháp này có ưu thế đối với các loại TSCĐ có độ hao mòn vô hình cao hoặc trong điều kiện nền kinh tế lạm phát cao . Tuy nhiên khấu hao nhanh làm tăng giá thành sản phẩm hàng hoá ... có thể ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Phương pháp khấu hao luỹ kế tăng : Cho phép vốn thu hồi những năm sau nhiều hơn những năm trước . Phương pháp này trong thực tế ít áp dụng . Tuy vậy nó thích hợp với những lĩnh vực sản xuất có khối lượng sản phẩm gia tăng theo thời gian , ví dụ : Khai thác tài nguyên , khoáng sản trong điều kiện nền kinh tế khá ổn định ... Do đó với mỗi phương pháp khấu hao khác nhau , giá trị khấu hao TSCĐ được phản ánh trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh một khác nhau . Sự lựa chọn phương pháp khấu hao ảnh hưởng không những chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí bình quân ( giá thành sản phẩm ) mà còn tới giá trị vốn thu hồi của nhà đầu tư và khả năng tái đầu tư TSCĐ . 1.3.2. Phân tích giá thành sản phẩm trong mối liên hệ với SL thực hiện : ở phần trên, ta đã đề cập đến phân tích sự biến đổi của chi phí trong giá thành sản phẩm (giá thành đơn vị sản phẩm) nhằm mục đích phát hiện các chi phí làm tăng, giảm giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp biết được sẽ khai thác khả năng giảm giá thành ở khoản phí nào ? Giá thành sản phẩm luôn phụ thuộc vào mức chi phí sản xuất kinh doanh (phí đầu vào) và khối lượng SPHH đã sản xuất được trong kỳ (kết quả đầu ra). Vì vậy nên xem xét giá thành không chỉ theo mức phí đầu vào (đã phân tích ở mục trên) mà còn phải phân tích sự biến đổi của nó theo mức độ hoạt động cao, thấp trong kỳ. Điều đó giúp chủ doanh nghiệp có thể ra được quyết định quản lý giá thành, chi phí có hiệu quả hơn. * Xác định hệ số hoạt động thực tế kỳ báo cáo SL thực tế Hệ số hoạt động kỳ báo cáo = -------------------- SL kế hoạch Trong đó : SL thực tế có thể tính bằng các đơn vị khác (hiện vật, lao động, giá trị v.v...). SL kế hoạch được xác định là mức hoạt động bình thường của doanh nghiệp có nội dung tính toán phù hợp với tử số. Việc xác định khả năng sản xuất bình thường còn tuỳ thuộc vào việc khai thác khả năng tiềm tàng về năng lực SX thực tế , hiện có của Doanh nghiệp ... Hệ số hoạt động được dùng để điều chỉnh chi phí đầu vào tương ứng. * Phân chia chi phí thuộc sản phẩm hoàn thành kỳ báo cáo thành hai loại : biến phí và định phí. + Biến phí là những chi phí mà khi mức hoạt động của xí nghiệp phát triển, doanh số đạt cao dẫn đến chi phí này sẽ tăng theo hoặc giảm theo số lượng... các chi phí này thường là các chi phí trực tiếp của sản xuất kinh doanh : nguyên vật liệu dùng vào sản xuất hàng hoá lao động trực tiếp ăn lương theo sản phẩm, công việc, điện năng, hơi đốt, tiền vận chuyển vật tư, hàng hoá chi phí quảng cáo, điện đàm thuế trực thu (thuế tài nguyên). Tổng biến phí sẽ tăng, giảm theo mức độ hoạt động của xí nghiệp, song biến phí tính cho một đơn vị lại tương đối ổn định. Do vậy sự thay đổi của tổng biến phí theo mức hoạt động được xem là một hiện tượng kinh tế tất yếu mà không phản ánh trình độ năng suất lao động kỳ thực tế. + Định phí là những chi phí thường không thay đổi theo mức hoạt động của xí nghiệp (trong giới hạn đầu tư nhất định). Vì vậy mức định phí trong giá thành đơn vị sẽ thay đổi theo mức độ hoạt động của xí nghiệp dẫn đến định phí trong giá thành đơn vị là sản phẩm là nhân tố phản ánh trình độ tăng năng suất lao động. Định phí bao gồm : tiền lương trả cho ban giám đốc, tiền khấu hao tài sản cố định; tiền thuê tài sản, nhà cửa, phương tiện, tiền bảo hiểm (trừ bảo hiểm hàng hoá...); phí tổn quản lý hành chính, kinh tế khác... Điều chỉnh định phí theo mức hoạt động kỳ thực tế. Dẫn đến bước phân tích này giúp ta tính toán cụ thể mức định phí không mang lại kết quả sản xuất và mức định phí tiết kiệm tương đối so với mức hoạt động thực tế cao hơn dự kiến. Cách điều chỉnh tính như sau : lấy định phí đã xác định (theo giới hạn đầu tư) nhân với hệ số hoạt động thực tế. Chênh lệch giữa định phí đã dự kiến và định phí đã điều chỉnh là mức phí làm tăng, giảm tương ứng với giá thành của hàng hoá. Do đó làm giảm tăng tương ứng lợi nhuận. Tiết kiệm chi phí để giảm thấp giá thành là mục tiêu chiến lược của mọi doanh nghiệp trên cơ sở đó tăng lợi nhuận giảm giá bán để tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá trên thị trường. Vì vậy phân tích giá thành trên nhiều góc độ bằng các cách thức khác nhau là cần thiết, giúp chủ doanh nghiệp nhìn rõ khả năng tiềm tàng, tính toán được trị số của nó để kế hoạch hoá giá thành, định hướng quản lý giá thành có hiệu quả thiết thực hơn. 1.4 Phương pháp phân tích chi phí sản xuất - kinh doanh : 1. 4.1. Phương pháp so sánh : Là phương pháp lâu đời nhất và áp dụng rộng rãi nhất. So sánh trong phân tích kinh tế là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng một nội dung, một tính chất tương tự nhau. Phương pháp so sánh có nhiều dạng : - So sánh các số liệu thực hiện với các số liệu định mức hay kế hoạch - So sánh số liệu thực tế giữa các kỳ, các năm - So sánh số liệu thực hiện với các thông số kỹ thuật - kinh tế trung bình hoặc tiên tiến. - So sánh số liệu của xí nghiệp mình với các số liệu của các xí nghiệp tương đương hoặc xí nghiệp của đối thủ cạnh tranh. - So sánh các thông số kỹ thuật - kinh tế của các phương án kinh tế khác. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp so sánh là cho phép tách ra được những nét chung, nét riêng của các hiện tượng được so sánh, trên cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển, hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm các giải pháp quản lý hợp lý và tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể. Đòi hỏi có tính nguyên tắc khi áp dụng phương pháp so sánh là : * Các chỉ tiêu hay các kết quả tính toán phải tương đương nhau về nội dung phản ánh và cách xác định. * Trong phân tích so sánh có thể so sánh số tuyệt đối, số tương đối và số bình quân. Số tuyệt đối là số tập hợp trực tiếp từ các yếu tố cấu thành hiện tượng kinh tế được phản ánh. Ví dụ : Tổng sản lượng. Tổng chi phí lưu thông. Tổng lợi nhuận... phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy được khối lượng qui mô của hiện tượng kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường của hiện tượng, vì thế, dung lượng ứng dụng tuyệt đối trong phân tích so sánh nằm trong một khuôn khổ nhất định. Số tương đối là số biểu thị dưới dạng số phần trăm số tỷ lệ hoặc hệ số. Sử dụng số tượng đối có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu các hiện tượng kinh tế, đặc biệt cho phép liên kết các chỉ tiêu không tương đương để phân tích so sánh. Chẳng hạn thiết lập mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu khối lượng hàng hoá tiêu thụ và lợi nhuận để suy diễn, nếu tăng khối lượng hàng hoá lên 1% thì có thể tăng tổng lợi nhuận lên 1%. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được chất lượng bên trong cũng như qui mô của hiện tượng kinh tế. Bởi vậy, trong nhiều trường hợp, khi so sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối lẫn số tương đối. Số bình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDo_an_tot_nghiep___chuong_I.doc
  • docDo_an_tot_nghiep___chuong_II__phan_1.doc