Hoàn thiện một số chính sách cơ bản nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 3

I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 3

1. Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) 3

2. Đặc điểm và tính chất của doanh nghiệp vừa và nhỏ 4

3. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế 14

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN 17

4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị 17

4.2. Trang thiết bị kỹ thuật công nghệ 19

4.3. Trình độ đội ngũ các nhà quản trị và trang thiết bị quản trị 19

II. Chính phủ và DNVVN trong nền kinh tế 20

1. Vai trò chung của chính phủ trong nền kinh tế 20

2. Mối quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp trong nền kinh tế 22

3. Cac chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ đối với DNVVN 33

3.1. Môi trường pháp lý 33

3.2. Chính sách hỗ trợ về vốn và tài chính 35

3.3. Các chính sách hỗ trợ khác 36

CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 38

I. Tổng quan về hệ thống chính sách liên quan đến phát triển DNVVN 38

II. Đánh giá tình hình thực hiện và tác động của một số chính sách chủ yếu đối với sự phát triển DNVVN 39

- Chính sách thương mại 39

- Các chính sách ngân sách, tiền tệ và tài chính 41

- Chính sách đất đai 42

- Các chính sách công nghệ và đào tạo 44

- Các chính sách trợ giúp của chính phủ 46

III. Đánh giá tổng quan 49

1. Kết quả đạt được 49

2. Những tồn tại và nguyên nhân 53

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐẾN PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM 64

1. Triển vọng và xu hướng phát triển các DNVVN ở Việt Nam 64

2. Một số giải pháp hữu nghị và hoàn thiện 65

2.1. Giải pháp về nội lực của bản thân DNVVN 65

2.2. Các giải pháp về chính sách điều tiết 69

KẾT LUẬN 77

 

 

 

 

 

 

doc116 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện một số chính sách cơ bản nhằm phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của doanh nghiệp; hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao. 3. Các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ đối với DNVVN 3.1. Môi trường pháp lý Từ sau những năm đổi mới, đặc biệt khi có hiến pháp 1992, với quan điểm Nhà nước quản lý xã hội bằng phát luật, các thuật ngữ “ hành lang pháp lý ”, “ khung khố pháp lý”, “ môi trường pháp lý” xuất hiện nhiều trong các ấn phẩm kinh tế, pháp lý ở nước ta. Tuỳ theo mục đích của người viết mà các thuật ngữ được sử dụng. Nếu như khái niệm “ hành lang pháp lý” sử dụng như một tiêu chí xác định giới hạn được phép hoặc không được phép kinh doanh cũng như hoạt động của chủ thể quản lý Nhà nước, từ khái niệm “ khung khổ pháp lý” đề cập đến một hệ thống bao gồm các lĩnh vực pháp luật khác nhau và các chế định pháp luật được thể hiện bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật; còn “ môi trường pháp lý ” là khái niệm bao quátn hơn, nó được cấu thành bởi không chỉ khung khổ pháp luật mà còn bao hàm cả việc thực thi pháp luật trong thực tiễn hay nói cách khác là việc duy trì và tăng cường pháp chế. Với một nội dung như thế môi trường pháp lý là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu tạo nên môi trường kinh doanh cho cácn doanh nghiệp. Tuy nhiên với doanh nghiệp vừa và nhỏ tác động của môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho chúng phát triển trên cả hai phương diện: lập pháp và thực thi pháp luật trong cuộc sống. Một số nhân tố thuộc môi trường pháp lý có ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau: - Đối với từng nhóm ngành kinh doanh, Nhà nước có quy định về quyền hạn, nhgiã vụ, trách nhiệm của thành viên trong doanh nghiệp trước pháp luật, trong quản lý doanh nghiệp cũng như trong hoạt động kinh doanh với khách hàng. Từ đó định hướng cho doanh nghiệp phát triển theo đúng quy định của pháp luật, nếu sự quy định này rõ ràng, cụ thể thì doanh nghiệp dễ dàng chấp hành và thực hiện theo những quy định đó. -Thủ tục xin giấy phép kinh doanh và nội dung cũng có tác động lớn. Nếu các loại giấy tờ phải xin phép qua nhiều cơ quan trước khi được cấp giấy phép kinh doanh gây khó khăn và tốn thời gian cho người muốn thành lập doanh nghiệp. Tất nhiên các quy định này là rất cần thiết nhưng nên tiến hành đơn giản nó sao cho hợp lý và thuận tiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện. Như vậy, việc xem xét thủ tục xin giấy phép kinh doanh và nội dung hồ sơ kinh doanh có ảnh hưởng đến tiến trình thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Nó có thể tạo đà thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình thành lập và kinh doanh. - Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển DNVVN. Nếu Nhà nước có một cơ sở pháp lý quy định khung khổ tiêu chí DNVVN, ở một số văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có các văn bản về thuế có các điều khoản thiết yếu khuyến khích; hỗ trợ các DNVVN thì nó là cơ sở để tạo đà cho doanh nghiệp phát triển lâu dài và bền vững. Nếu Nhà nước đưa DNVVN thành một đối tượng hỗ trợ riêng biệt thì thực sự nó ảnh hưởng rất lớn đến sự trưởng thành của DNVVN. - Luật phá sản doanh nghiệp: Nếu Nhà nước đưa luật phá sản doanh nghiệp vào áp dụng đối với DNVVN là có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của DNVVN. Trong nền kinh tế thị trường thì mỗi DNVVN là một chủ thể kinh doanh trên thương trường, vì vậy, trong cạnh tranh để phát triển thì chắc chắn sẽ có một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phải giải thể hoặc phá sản. Do vậy, việc áp dụng loại thuế này nó sẽ khuyến khích DNVVN hoạt động và phát triển chắc chắn, bền vững lâu dài. Đồng thời nó cũng góp phần giảm bớt các rào cản cho các doanh nghiệp phát triển dễ dàng và loại bỏ các DNVVN làm ăn kém hiệu quả. 3.2. Chính sách hỗ trợ về vốn và tài chính Tiến trình phát triển của các DNVVN cũng là tiến trình phát triển cả nền kinh tế. Do đó, các DNVVN nếu được sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của Nhà nước thì nó sẽ tiếp tục phát huy các ưu điểm cuả nhóm doanh nghiệp này: thích nghi nhanh với các biến đổi của thị trường, đổi mới công nghệ nhanh, quản lý năng động, hiệu quả, suất đầu tư cho một lao động thấp, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời, sự hỗ trỡ đó còn giúp cho các DNVVN giải quyết được một vấn đề mấu chốt nhất là phải cạnh tranh gay gắt với nước ngoài để đứng vững ngay trên thị trường nước mình. Đối với DNVVN ở bất cứ nước nào vốn vẫn là mối ưu tiên hàng đầu của họ. Do thành lập DNVVN tương đối dễ dàng cho nên một số DNVVN ngày càng nhiều, lại tập trung vào những ngành, những sản phẩm không đòi hỏi vốn quá lớn cho nên cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, mức lợi nhuận ngày càng mỏng đi và khó mà tích luỹ vốn để mở rộng quy mô doanh nghiệp, đầu tư trang thiết bị công nghệ mới, đào tạo nhân công và chủ doanh nghiệp…Trong khi đó, DNVVN lại không đủ tài sản, nhất là bất động sản, để làm vật đảm bảo vay vốn ở các ngân hàng. Đặc biệt là nhu cầu vốn trung – dài hạn để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng lại càng nan giải hơn. Mặt khác, lãi suất cho vay tiền ở các ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của các ngành sản xuất của DNVVN. Do vậy, nếu Nhà nước có một chính sách hỗ trợ vốn hợp lý và đúng lúc thì nó rất có ý nghĩa cho sự phát triển DNVVN. Mặc dù số vốn ban đầu không cần lớn nhưng khó khăn về tài chính là một sự trở ngại đối với DNVVN ở ngay giai đoạn hoạt động của nó và làm cho nó yếu đi. Vì vậy, chính sách hỗ trợ vốn và tài chính có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển DNVVN. Đối với DNVVN, vốn vay vừa là chất xúc tác để mở rộng tăng trưởng, vừa là một cái đệm an toàn phòng khi “ sẩy chân” về tài chính. Đặc biệt là trong những năm đầu khi quỹ dự phòng của các doanh nghiệp nói chung còn nhỏ, vốn vay có thể trở thành một công cụ tối thiểu cần thiết để xây dựng nền móng vững chắc và tạo khả năng sinh lãi thực sự cho doanh nghiệp. 3.3. Các chính sách hỗ trợ khác - Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực: vì quy mô nhỏ, các DNVVN không đủ khả năng tự đài thọ đào tạo cũng không có hiệu quả cao so với các doanh nghiệp lớn, do đối tượng cần được đào tạo ở từng doanh nghiệp quá ít, chúng ta cần lưu ý đa số các giám đốc của các DNVVN còn rất trẻ, có thừa máu mạo hiểm kinh doanh nhưng lại thiếu kiến thức kinh doanh và kỹ năng quản trị. Vì vậy, nếu Nhà nước có một chính sách hỗ trợ DNVVN về đào tạo thì sẽ hình thành được một lớp doanh nhân có đủ sức cạnh tranh, đối tác với doanh nhân nước ngoài. Chính sách hỗ trợ nguồn nhân lực của Nhà nước góp phần giúp cho DNVVN có điều kiện nâng cao trình độ quản trị cho các chủ doanh nghiệp và nâng cao tay nghề cho người lao động khác. Chính sách hỗ trợ này giúp cho DNVVN tạo cho mình một đội ngũ lao động vững mạnh, có trình độ cao để thích ứng với những thay đổi kỹ thuật công nghệ tong giai đoạn mới. - Hỗ trợ về thông tin, thị trường: cũng do hạn chế về quy mô, các DNVVN không đủ điều kiện tiếp cận thị trường quốc tế, thiết lập mạng lưới thu thập thông tin, điều tra thị trường như các doanh nghiệp có quy mô lớn. Một chương trình hỗ trợ thông tin của Nhà nước sẽ giúp cho các DNVVN hoạt động có hiệu quả hơn, tránh xu hướng theo kiểu “ buôn chuyến ”, “ đánh quả ”, “ làm ăn xổi ” khi mà Nhà nước vẫn còn lúng túng, thiếu chiến lược hỗ trợ dẫn dắt cho các DNVVN. Việc Việt Nam sẽ gia nhập ASEAN – AFTA thì chính sách hỗ trợ về thông tin, thị trường của Nhà nước giúp cho DNVVN có những chuẩn bị thông tin, hướng dẫn cho họ biết phải làm gì, phải vạch ra một chiến lược kinh doanh như thế nào để tiếp tục tồn tại trước đối thủ cạnh tranh quốc tế. - Chuyển giao kỹ thuật, công nghệ: công nghệ giữ vai trò quyết định trong phát triển kinh tế – xã hội, là động lực tăng trưởng kinh tế, là nhân tố cơ bản để chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của từng hàng hoá trên thị trường. Do qui mô của DNVVN nhỏ nên thường DNVVN còn thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại làm tăng chất lượng sản phẩm và tiến tới cạnh tranh sản phẩm với các doanh nghiệp khác. Việc Nhà nước có chính sách hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, công nghệ tạo lập môi trường kinh doanh cho DNVVN yên tâm đầu tư, đổi mới công nghệ. Do vậy, chính sách điều tiết này của Nhà nước có tác động mạnh đến sự phát triển của DNVVN, nếu chính sách này được phát triển mạnh thì các DNVVN có thêm điều kiện nâng cao, đổi mới trang thiết bị công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất của mình nhằm phát triển ổn định và lâu dài. - Hỗ trợ địa điểm, phát triển cơ sở hạ tầng: trong số rất nhiều các chính sách hiện hành có nhiều chính sách liên quan trực tiếp đến các DNVVN. Trong đó có chính sách hỗ trợ địa điểm, phát triển cơ sở hạ tầng cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của DNVVN. Đa số các DNVVN khởi sự và hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn địa điểm và cơ sở hạ tầng yếu kém. Do vậy, chính sách hỗ trợ này thực hiện giúp cho doanh nghiệp có cơ sở để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng một nền móng vững chắc cho sự phát triển ở hiện tại và trong tương lai. Chương II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. I. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN DNVVN. Hệ thống chính sách liên quan đến phát triển DNVVN nó xuất phát từ quá trình hình thành của hệ thống chính sách : Do DNVVN hoạt động phải có sự can thiệp của Nhà nước cho nên hệ thống chính sách xuất phát từ khi Doanh nghiệp ra đời. Theo đánh giá của WB và IMF Việt Nam là nước có thu nhập thấp và tỷ lệ mắc nợ cao.Hiệu quả kinh tế còn thấp và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu so với các nước trong khu vực.Hệ thống ngân hàng vẫn còn yếu kém,tỷ lệ dư nợ tín dụng quá hạnvà nợ khó đòi ở mức khá cao và đang có chiều hướng gia tăng. Thu ngân sách trước mắt đang phải gặp những khó khăn do việc hạ thấp các mức thuế quan theo cam kết cần phải thực hiện trong khuôn khổ AFTA về danh mục các mặt hàng thuộc dạng thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung và việc thực hiện đã được bắt đầu bằng70 mặt hàng từ năm 1997. Nhà nước có biện pháp nhằm cải thiện nhận thứ của các cơ quan quản lý nhà nước, các cán bộ nhà nước cũng như mọi tầng lớp nhân dân nói chung về vai trò quan trọng của DNVVN trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Chính phủ giao nhiệm vụ cho cơ quan hoặc thành lập cơ quan làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, xây dựng đề xuất chính sách,xây dựng kế hoạch và chương trình, điều phối các hoạt động xúc tiến DNVVN. Chính sách liên quan đến phát triển DNVVN Hệ thống Chính sách chủ yếu liên quan đến phát triển DNVVN là: - Chính sách Thương Mại - Chính sách Ngân Sách, Tiền tệ và Tài chính - Chính sách Đất đai - Các chính sách Công nghệ và Đào tạo - Chính sách Hỗ trợ II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DNVVN. - Chính sách thương mại: A. Những cải cách trong chính sách Thương Mại Chính sách “mở cửa” thương mại vầ đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những yếu tố quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần phát triển vào sự phát triển kinh tế. Nếu không có lượng vốn nước ngoài đổ mạnh mẽ trong thời gian qua ,tốc độ phăt triển GDP năm 1995 sẽ vào khoảng 5,2% chứ không phải là 9,5% . Các biện pháp đổi mới chủ yếu có liên quan đến thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài, được sử dụng như một bộ phận đổi mới kinh tế. B. Những điều kiện mới cho việc tham gia nhập khẩu Nhờ có những chính sách kinh tế, kể từ năm 1991 cho đến nay nhiều doanh nghiệp đã được phép xuất khẩu các sản phẩm do chinhs họ sản xuất và được phép nhập khẩu các đầu vào trung gian cần thiết cho quá trình sản xuất của mình, Như đã đề cập ở trên,Nghị Định 57/NĐ_CP ngày 31/7/1998 cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia vào các hoạt động xuất- nhập khẩu trong phạm vi giấy phép đăng ký kinh doanh mà không cần phảicó giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Nghị định mới là một bước tiến lớn trong quá trình tự do hoá thương mại mà Việt Nam đã tạo ra cho tất cả các doanh nghiệp, trong đó có các DNVVN C. Kiểm soát thương mại phi thuế quan- các biện pháp tự do hoá gần đây Nhà nước quản lý xuất –nhập khẩu có điều kiện theo hạn ngạch và giấy phép xuất và nhập khẩu. Đôi khi Chính phủ còn ban hành danh mục các mặt hàng tạm ngừng xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Việc điều chỉnh các danh mục hàng hoá do Chính phủ phê duyệt dựa trên kiến nghị của Bộ trưởng Thương mại. Ngoài ra, số mặt hàng xuất, nhập khẩu có điều kiện đã giảm đáng kể. Như đã được công bố, hạn ngạch xuất, nhập khẩu được ấp dụng khi các biện pháp thuế quan và phi thuế quan khác không đủ hiệu lực để khắc phục tình trạng mất cân đối của nền kinh tế của cung cầu thị trườngt rong nước, hoặc hàng hoá nhập khẩu có ảnh hưởng đến đến sản xuất trong nước. Ngoài ra, hạn ngạch xuất khẩu còn được áp dụng khi việc xuất khẩu phải được thực hiện theo hạn ngạch do đối tác nước ngoài qui định đối với Việt Nam. Việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo giấy phép đã được thực hiện nhằm đảm bảo điều tiết cung cầu, cân bằng cán cân thương mại hoặc chỉ được thực hiện do bị hạn chế theo một số tiêu chuẩn phân loại nhất định nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, đạo đức, trật tự, an toàn xã hội, tâm sinh lý trẻ em, sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. D. Kiểm soát ngoại hối_ các biện pháp nghiêm ngặt hiên nay Ngoại tệ là huyết mạch của hoạt động ngoại thương và đầu tư trong phạm vi mà máy móc thiết bị, linh kiện sản xuất, công nghệ , phụ tùng và các sản phẩm trung gian khấc cần nhập khẩu từ nước ngoài. Nếu không có ngoại tệ, thì doanh nghiệp trong thực tế không thể tiếp nhận trong thị trường quốc tế để có các sản phẩm nhập khẩu cần thiết. Trong khi các biện pháp tự do hoá thương mại đã cho phép tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam_ Đặc biệt các DNVVN , mặc dù các DNVVN ít bị ảnh hưởng hơn. Hiện tại,việc kiểm soát ngoại hối đang được áp dụng ở Việt Nam bao gồm các yếu tố sau: Thứ nhất: Việc kiểm soát nhằm thu gọn ngoại tệ vào các ngân hàng bằng cách yêu cầu các cá nhân và tổ chức kinh doanh khi chuyển ngoại tệ vào Việt Nam phải lập tức đổi sang đồng Việt Nam hoặc phaỉ gửi vào một tài khoản ngoại tệ ở ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ Thứ hai: Việc kiểm soát không cho phép các doanh nghiệp tự do thu ngoại tệ. Thay vào đó, để chuyển đổi đồng Việt Nam sang ngoại tệ, các doanh nghiệp phải giải trình được “mục đích hợp pháp” của công việc đó. Theo các qui định về ngoại hối hiện hành, việc có “mục đích hợp pháp” trong việc sử dụng ngoại tệ là đồng nghĩa việc doanh nghiệp có tham gia sản xuất các mặt hàng cụthể trong danh mục các mặt hàng nhập khẩu hoặc trong các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt hoặc các doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động liên quan đến hoạt động thay thế hàng nhập khẩu được qui định trong danh mục thì được phép mua ngoại tệ ngân hàng để nhập khẩu. Thứ ba: Tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước qui định chứ không được căn cứ theo tỷ giá thị trường. Cách qui định này gây ra nhiều rủi ro, đặc biệt khi tỷ đánh giá quá cao. Khi tỷ giá hối đoái so với đồng Việt Nam được qu i định quá cao so với tỷ giá hối đoái trên thị trường, thì sự thâm hụt ngoại tệ chắc chắn sẽ phát sinh theo tự nhiên của qui luật cung cầu. Sự thâm hụt này sẽ làm giảm lượng ngoại tệ của các Ngân hàng và doanh nghiêp. E. Kiểm soát xuất nhập khẩu bằng các biện pháp thuế quan Hầu hết các nước, thuế xuất nhập khẩu là cơ chế chủ yếu để điều tiết hoạt động thương mại và sự vận hành của nền kinh tế. Đối với nhiều nước, thuế quan được sử dụng với mục đích chính là điều hành thương mại, còn mục đích thu ngân sách chỉ là thứ yếu. Đối với Việt Nam, cũng như các nước kém phát triển khác, thuế xuất nhập khẩu lại là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân sách. Khi nền kinh tế đã phát triển , tầm quan trọng của thuế lợi tức, thuế tiêu thụ và thuế thu nhập cá nhân sẽ tăng mạnh- ít ra thì điều này cũng được căn cứ trên kinh nghiệm của nhiều nước. Đối với các DNVVN, nét đặc trưng quan trọng nhất của thuế nhập khẩu có xu thế tăng lên ở mức rất cao và tỏ ra rất phức tạp. Đối với vấn đền này, điều quan trọng cần lưu ý là số lượng thuế nhập khẩu và thuế suất nhập khẩu tối đa của Việt Nam còn cao hơn rất nhiếu so với các nước khác trong khu vực. Về lý thuyết thuế nhập khẩu cao được sử dụng làm cơ chế bảo hộ công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh tranh từ nước ngoài. Trong thực tế, việc bảo hộ công nghiệp bằng các mức thuế cao là ảo tưổng . Các chính sách ngân sách, tiền tệ và tài chính: Khái quát các bước cải cách trong chính sách tài khoá, tiền tệ và tài chính Các chính sách tài khoá, tiền tệ và tài chính có tác động quan trọng đối với việc huy động vốn và sự phát triển của các doanh nghiệp. Các bước cải cách quan trọng về chính sách tài khoá, tiền tệ và tài chính đã được thực hiên trong những năm vừa qua là hết sức quan trọng. Khái quát về các chính sách tài khoá và tiền tệ Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng tài chính quốc tế về các biện pháp quản lý vĩ mô hợp lý. Như đã đề cập ở trên, trong những năm gần đây, thông qua việc thắt chặt ngân sách và ban hành các loại thuế mới kết hợp với chính sách “mở cửa” thương mại và đầu tư, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao với tỷ lệ lạm phát thấp. Chính phủ Việt Nam đã tạo ra được uy tín lớn trong việc thiết lập một môi trường với chính sách vĩ mô hợp lý để có mức tăng trưởng cao và tỷ lệ lạm phát thấp; điều đó đã đem lạilợi ích cho tất cả các nghành và các doanh nghiệp, trong đó có các DNVVN Trong tương lai, mức tăng trưởng và lòng tin của các nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào việc duy trì môi trường ổn định nàyvà các chính sách cần thiết để cố môi trường đó vẫn phải tiếp tục được nghiên cứu và thực hiện. Chính sách hỗ trợ vốn và tài chính:Tiến trình phát triển của các DNVVN cũng là tiến trình phát triển cả nền kinh tế. Do đó, các DNVVN nếu được sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của Nhà nước thì nó sẽ tiếp tục phát huy các ưu điểm cuả nhóm doanh nghiệp này: thích nghi nhanh với các biến đổi của thị trường, đổi mới công nghệ nhanh, quản lý năng động, hiệu quả, suất đầu tư cho một lao động thấp, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời, sự hỗ trỡ đó còn giúp cho các DNVVN giải quyết được một vấn đề mấu chốt nhất là phải cạnh tranh gay gắt với nước ngoài để đứng vững ngay trên thị trường nước mình. - Chính sách đất đai Việc cải cách đất đai có ảnh hưởng quan trọng đối với phát triển công nghiệp và khu vực doanh nghiệp tư nhân.Luật đất đai năm 1993 đã tạo cơ sở cho việc cấp quyền sử dụng đất đai dài hạn.Điều 1 của luật đất đai đã xác nhận lại rằng’’đất đai thuộc sở hữu toàn dân,và chịu sự quản lý của Nhà nước’’. Bởi vậy,quyền sở hữu chính thức về đất đai vẫn không thay đổi.Các cá nhân và các tổ chức có thể có quyền hợp pháp về sử dụng đất nhưng chưa bao giờ được sở hữu đất đai. Các quyền và nghĩa vụ sử dụng đất tuỳ thuộc vào từng loại đất,cụ thể là đất nông nghiệp,đất lâm nghiệp,đất đô thị,đất cư trú,đất có mục đích đặc biệt,và đất hoang; các quyền và nghĩa vụ sử dụng đất cũng có thể biến đổi, tuỳ theo người sử dụng đất là cá nhân, hộ gia đình, hay tổ chức trong và ngoài nước. Quyền sử dụng đất được thể chế hoá và được xác nhận bằng quyền sử dụng đất được thể chế hoá và được xác nhận bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được áp dụng để giảm độ bất định và tạo điều kiện để đất đai có thể sử dụng làm vật thể chấp cho các khoản vốn vay và tín dụng. Đối với đất Nông nghiệp và đất Nông nghiệp quyền sử dụng đất cấp cho các cá nhân và hộ gia đình có thể được chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi hoặc thừa kế. Tuy nhiên, việc công nhận quyền sử dụng đất vẫn còn tuỳ thuộc vào thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương. Các qui định về quyền sử dụng đất có ảnh hưởng quan trọng đến khu vực tư nhân. Theo quyết định 217-QĐ-NH ngày 17/8/1996 của thống đốc ngân hàng nhà nước thì tất cả các loại đất không có quyền sử dụng đất đều không thể sử dụng để thể chấp . Hiện tại, rất ít các doanh nghiệp, nhất là DNVVN ngoài quốc doanh , có giấy chứng nhận này . Trong các khu vực đô thị hoá và các khu vực xây dựng, quyền sử dụng đất dài hạn được cấp chủ yếu cho các DNNN. Nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân không được phép quyền sử dụng loại đất đó và do vậy các doanh nghiệp này phải thuê đất. Theo Nghị định 18/CP qui định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước giao đất hoặc cho thuê đất ban hành , tất cả các quyền sử dụng đất phục vụ cho các mục đích thưông mại và công nghiệp phải chuyển sang quyền sử dụng đất. Các DNNN được quyền góp vốn và giá trị quyền sử dụng đất vào liên doanh với các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước. Các doanh nghiệp tư nhân không được phép làm như vậy. Các văn bản qui liên quan đến đất đai và các quyền sử dụng đất , cũng như việc thế chấp các quyền này còn rất phức tạp và không rõ ràng. ở nhiều phương diện , các văn bản pháp qui này có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân và vẫn có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho các doanh nghiệp tư nhân và tạo lợi thế cho các doanh nghiệp Nhà nước. Trong thực tế, việc sử dụng các quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn vẫn còn khó khăn ở khu vực đô thị. Quyền sử dụng đất đối với phần lớn đất đai vẫn chưa được xác định rõ ràng bởi vì còn phải nộp rất nhiều giấy tờ để chứng minh quyền sử dụng đất , và việc phải nộp bao nhiêu loại giấy tờ còn phải phụ thuộc vào yêu cầu của cơ quan đăng ký quyền sử dụng đăt. Nhiều loại giấy tờ hoặc rất khó xin hoặc không thể xin đưộc hoặcđã mất trong thời gian chiến tranh hay trong thời kỳ cách mạng. Hơn nữa vẫn chưa có một hệ thống đăng ký công khai thống nhất cho các quyền sử dụng , cho thuê và thế chấp. Giá trị quyền sử dụng đất do Uỷ ban Nhân dân Tỉnh thầnh xác định theo phương pháp hành chính, chứ không phải do thị trường quyết định và mỗi tỉnh áp dụng mỗi cách. Các thủ tục thuê đất rất phức tạp và cũng khác nhau giữa các tỉnh. Các vấn đề liên quan đến đất đai vẫn đang là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN. Thứ nhất , rất khó để có được đất dùng cho các mục đích đầu tư. Thứ hai, hệ thống xét duyệt của Chính phủ đối với việc thực hiện các quyền sử đụng đất là rất phức tạp và rắc rối, không có hiệu quả kinh tế và tạo cơ hội cho các hành vi trục lợi và các hành vi lạm dụng khác. Thứ ba, nếu các quyền sử dụng đất phục vụ cho các mục đích thưông mại và công nghiệp không được qui định một cách rõ ràng và các điều kiên dùng đất để thế chấp không được nới lỏng, các doanh nghiệp tư nhân không thể phát triển một cách đúng đắn: hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân đang buộc phải thực hiện các thủ tục và qui định không rõ ràng, và đôi khi đã có những hành động vi phạm pháp luật. Các chính sách công nghệ và đào tạo Để tham gia vào thị trường quốc tế, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải có công nghệ hiện đại. Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu, thì sự dư thừa lao động với mức thù lao thấp vẫn chưa đủ. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ hết sức lạc hậu, tụt hậu so với mưc công nghệ trung bình của thế giới từ 3 đến 4 thế hệ. Đặc biệt là, có nhiều các DNVVN ngoài quốc doanh vẫn đang sử dụng những máy mócthiết bị mà các doanh nghiệp Nhà nước đã thái bỏ. Hơn thế nữa, mặc dù tỷ lệ biết đọc biết viết của Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực, nhưng kiến thức quản lý và kỹ năng chuyên môn của người lao động Việt Nam không đủ cao để có thể làm chủ được công nghệ hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực và trình độ công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế , Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đặc biệt đến chính sách đào tạo và chính sách công nghệ. Hội nghị toàn thể lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đảng( khoá VIII) đã thảo luận về hai vấn đề này. Dưới ánh sách của Nghị quyết này, 17 chương trinh khoa học và công nghệ đã được thực hiện. Mặc dù Đảng và Chính phủ quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ và đào tạo,nhưng vẫn còn một số yếu tố đang hạn chế việc tiếp cậnvới công nghệ hiện đạicủa các doanh nghiệp và công nhân Việt Nam, kể cả DNNN. Một số yếu tố đó là: 1. Một trong những thách thức lớn nhất là thiếu các nguồn tài chính cho giáo dục và đào tạo cơ bản cần thiết để có thể tạo điều kiện cho các sinh viên, công nhân Việt Nam tiếp thu công nghệ mới.Bởi vậy, kinh phí dành cho giáo dục phổ thông và đào tạo hướng nghiệp ở Việt Nam còn tương đối thấp so với các nước trong khu vực. 2. Các DNVVN vẫn còn thiếu sự tiếp cận cần thiết với thị trường vốn trong và ngoài nước với cáckhoản tín dụng trung và dài hạn để đầu tư mua sắm thiết bị mới, công nghệ, kinh nghiệm chuyên môn và đào tạo công nhân. 3. Có lẽ điều quan trọng nhất la:việc khắc phục những trở ngại và cản trở việc chuuyển giao công nghệ còn tồn tại trong khuôn khổ chính sách và pháp luật hiện hành của Việt Nam phải được thực hiện sớm. Một số vấn đề quan trọng nhất được tóm tắt sau đây: a. Các qui định hạn chế nghiêm ngặt trong Luật Dân sự về các hợp đồng chuyển giao công nghệ cao mà Việt Nam đang cần. Hiện nay, những hạn chế đókhông còn tồn tại ở các nước k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2002.doc
Tài liệu liên quan