Hoạt động của ngân hàng thương mại trong quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG

I.Ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán 3

 1.Chức năng của NHTM 3

 2.Nghiệp vụ của NHTM 4

II.Nghiệp vụ của NHTM trên TTCK 8

1.Chức năng của thị trường chứng khoán 8

 1.1 TTCK và đối tượng giao dịch của nó 8

 1.2 Chức năng của TTCK 9

2.Mối quan hệ giữa NH và TTCK 10

3.Các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK 11

III.NHTM đối với sự ra đời và hoạt động của TTCK VN 14

 1.Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển TTCK ở VN 14

 2.Hoạt động của NHTM VN nhằm thúc đẩy sự hình thành và

phát triển TTCK.17

 3.Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình hoạt động TTCK VN 19

 4.Một số yêu cầu đối với NHTM VN hiện nay .25

KẾT LUẬN 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động của ngân hàng thương mại trong quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK như trên, NHTM có thể tham gia tích cực vào hoạt động của TTCK với các nghiệp vụ sau: 3.1.NHTM là người trợ giúp đắc lực trong việc cung cấp hàng hoá cho TTCK. Hàng hoá của TTCK là các CK. Các CK tồn tại dưới hình thức như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu NHTM, cổ phiếu của các công ty cổ phần, cổ phiếu của các doanh ngiệp Nhà nước cổ phần hoá.. Như vậy để tạo ra hàng hoá cho TTCK, việc đầu tiên là ngân hàng thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNNN và hình thành các công ty cổ phần. NHTM mua cổ phiếu với một tỉ giá đáng kể và trực tiếp tham gia quản lý kinh doanh, tư vấn hoạt động tài chính của công ty. Đặc biệt NHTM còn tham gia hỗ trợ cho công ty lúc gặp khó khăn. Trong trường hợp này , tín dụng được chuyển thành cổ phần để duy trì hoạt động của công ty. NHTM thực hiện bảo lãnh phát hành CK trên thị trường sơ cấp. Các công ty gặp khó khăn khi tự mình phát hành CK do hạn chế về kinh nghiệm, trình độ và mạng lưới giao dịch. Vì thế họ dựa vào dịch vụ bảo lãnh phát hành của NHTM - người vốn có đủ uy tín kinh nghiệm. Khi thực hiện vai trò này, NHTM có thể giúp cho công ty lựa chọn loại CK phát hành, tư vấn về các vấn đề khác. Trong những trường hợp đậc biệt như số phát hành khá lớn, các NHTM có thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, NHTM còn thực hiện chiết khấu các loại CK cho khách hành. Nhờ đó nâng cao tính thanh khoản của hàng hoá CK, hấp dẫn các cá nhân và tổ chức sẵn sàng mua KC trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 3.2. NHTM là người môi giới có nhiều ưu thế nhất trên TTCK Người môi giới là thành viên quan trọng của TTCK. Xuất phát từ chức năng làm thủ quỹ cho các doanh nghiệp, các NHTM luôn là người am hiểu tường tận, nắm được thông tin đầy đủ chính xác về các công ty phát hành CK. Hơn nữa, NHTM có đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ với nghiệp vụ KC, có sẵn những phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và phù hợp với người môi giới. Với ưu thế đó NHTM giúp khách hàng lựa chọn được những cơ hội đâu tư có lợi, tiết kiệm được chi phí giao dịch, xác định được thời điểm mua CK tốt nhất. Như thế nó mang lại lợi ích cho cả người mua và người bán CK, thúc đẩy TTCK hoạt động sôi động hơn, hiệu quả hơn. 3.3. NHTM cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách : ngân hàng có thể giữ các CK được sử dụng như vật thế chấp cho khoản vay của khách hàng. Hay những cá nhân tổ chức có thể nhờ ngân hàng quản lý sinh lời tài sản của họ và giao các chứng khoán cho ngân hàng quản lý . Ngân hàng có thể bảo quản những CK này dưới nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời, khách hàng cũng có thể yêu cầu NHTM thực hiện những dịch vụ liên quan đến CK như thu hồi vốn các CK đáo hạn, thu lãi cổ tức và ghi có vào tài khoản của họ ... Vai trò này xuất phát từ chức năng trung gian tài chính của NHTM . Cũng như vai trò của người môi giới, việc thực hiện vai trò này đem lại cho NHTM nguồn thu đáng kể đồng thời giúp cho người mua bán CK giảm khoản chi phí, thời gian, tăng độ an toàn và được hưởng những lợi nhuận cao hơn nhờ vào kinh nghiệm và chuyên môn của NHTM 3.4. NHTM thực việc thanh toán các chứng khoán Đây là nhiệm vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý CK của NHTM. Ngân hàng có thể mở tài khoản cho khách hàng của mình để theo dõi việc mua bán, chuyển nhượng CK của khách hàng bao gồm cả việc thu lãi thu cổ tức. Như vậy, NHTM đã góp phần làm cho hoạt động trên TTCK được dễ dàng thuận lợi hơn, Bởi các đối tượng tham gia TTCK (người mua bán, môi giới) sẽ không phải quan tâm đến lưu trữ và theo dõi mua bán một số lượng cổ phiếu, trái phiếu rất lớn hàng ngày. Các NHTM đã đảm đương công việc này cho họ . 3.5. NHTM tham gia tích cực vào việc định giá hàng hoá trên TTCK. ở thị trường chính thức ( sở giao dịch chứng khoán) và thị trường bán tập trung thì mọi việc mua, bán CK đều được thực hiện qua người môi giới. Còn thị trường vô hình chỉ là bộ phận nhỏ. Do vậy có thể nói giá CK trên thị trường là do nhà môi giới quyết định qua các cuộc đấu giá hay thương lượng. Kết quả đấu giá hay thượng lượng này tuỳ thuộc vào từng thời điểm, cung cầu các loại CK đó trên thị trường và kinh nghiệm, thực lực của các nhà môi giới, mà NHTM là người môi giới có uy tín nhất trên thị trường. Do đó NHTM trực tiếp tham gia và có ảnh hưởng tới việc định giá CK trên TTCK. Trên đây ta đã thấy rõ vai trò của NHTM đối với sự hình thành và phát triển TTCK ở những nước có nền kinh tế thị trường. Đồng thời TTCK cũng tạo điều kiện để NHTM phát triển các dịch vụ của mình , đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn đa dạng của nền kinh tế. Sụ tham gia của NHTM vào TTCK đã làm mờ đi ranh giới giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh và hệ thống ngân hàng đa năng. 3.6.NHTM thực hiện nghiệp vụ đầu tư trên TTCK. NHTM đã huy động được vốn thì phải cho vay kiếm lời. Đây là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nhưng cũng có rất nhiều rủi ro (ngân hàng có thể bị mất vốn hoặc thu hồi vốn không đầy đủ, có khách hàng không có ý thức trả nợ, hoặc không có khả năng trả nợ...). Chính vì vậy, với mục đích phân tán rủi ro ngân hàng có thể dùng vốn của mình để đầu tư CK ở những công ty có triển vọng thu lợi nhuận cao. Vì ngân hàng có được những thông tin chính xác về tình hình làm ăn của công ty, kết hợp với sự phân tích và tài phán đoán về triển vọng của công ty trong tương lai sẽ giúp cho ngân hàng có được sự lựa chọn đúng đắn mua CK cho chính mình. II. NHTM với sự ra đời và hoạt động của TTCK việt nam 1. Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi căn bản, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế của nhà nước. Nền kinh tế đã đạt được những thành tựu nhất định, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện . Hiện nay, chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu vốn lúc này rất lớn và cấp bách. Nhưng vấn đề đặt ra là có thể huy động vốn từ những nguồn nào? Có thể trông chờ vào vốn vay từ nước ngoài ( vốn ODA, vốn vay thương mại ...) vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ( FDI ). Nhưng huy động vốn từ những nguồn này còn nhiều hạn chế như phụ thuộc nặng nề vào kinh tế thế giới và gánh nặng nợ nước ngoài, sử dụng vốn FDI cũng chỉ hướng vào một số lĩnh vực và hạng mục công trình. Do đó để chủ động tạo ra nhiều vốn đầu tư thì vẫn phải từ nội bộ nền kinh tế là chủ yếu. Nhưng không trông chờ nhiều từ nguồn ngân sách nhà nước vì ngân sách nhà nước thường xuyên bị thâm hụt. Việc phát hành công trái không thành công do lãi suất thấp, do dân chúng chưa quen. Phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình ( như đường dây 500KV) và trái phiếu của các ngân hàng quốc doanh tuy lãi suất cao nhưng bị hạn chế bởi khả năng luân chuyển. Do đó người dân vẫn còn ngần ngại trong đầu tư. Hơn nữa hệ thống ngân hàng tuy đã được đổi mới nhưng tính độc quyền còn cao, cạnh tranh kém, dịch vụ nghèo nàn chưa thực hiện hết các chức năng của mình nên chưa đủ khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong các cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, để thực hiện CNH-HĐH thì rất cần vốn trung và dài hạn để đầu tư xây dựng vật chất kỹ thuật, đầu tư cho phát triển công nghệ. Những vấn đề trên đặt ra nhu cầu cấp thiết tiến tới hình thành TTCK ở nước ta hiện nay. TTCK sẽ là một kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. TTCK ra đời nó sẽ tạo điều kiện cho việc phát hành công trái, trái phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu ngân hàng ...Đồng thời là cửa ngõ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, điều chỉnh cơ cấu kinh tế Mặt khác, sau khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực tư doanh được mở rộng, luật công ty đã được ban hành ( năm 1990 ). Theo luật này, công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu - là những mặt hàng cung cấp cho TTCK. Nếu có được một TTCK thì việc mua bán chứng khoán sẽ dễ dàng hơn, sẽ đưa vốn vào đầu tư sản xuất tốt hơn. Hơn nữa, việc phát triển TTCK ở Việt Nam gắn liền với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã có chủ trương ban hành nghị định 44/1998- NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng tiến độ cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Đến hết năm 1999 chúng ta dự kiến cổ phần hoá 400 DNNN, và trong chỉ thị số 20/1998/CT-TTG qui định đến hết năm 2000 sẽ chuyển khoảng 20% tổng số DNNN tức là khoảng 1200 đơn vị thành công ty cổ phần. Đến nay chúng ta mới thực hiện được 370 doanh nghiệp. Do đó việc thành lập TTCK sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá. Và ngược lại cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo hàng hoá cho TTCK. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố thuận lợi giúp đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam. Đó là các yếu tố như: Nước ta có chế độ chính trị - xã hội ổn định. Nền kinh tế từ khi đổi mới có nhiều chuyển biến và đạt được một số thành tựu to lớn, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, có điều kiện nâng cao tích luỹ, lạm phát giảm và giữ ở mức một con số trong những năm gần đây. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển TTCK. Hơn nữa, nước ta là nước đi sau nên có thể tiếp thu khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút kinh nghiệm bổ sung những khiếm khuyết từ mô hình TTCK của các nước. Chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: đã ban hành luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài có bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Từ 1988, nhất là từ khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự thay đổi về chất, từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp với mạng lưới rộng khắp. Các NHTM bao gồm NHTM quốc doanh, Ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh. Ngoài ra còn có mạng lưới các quỹ tín dụng được tổ chức ở cấp xã, phường. Thị trường liên ngân hàng ra đời làm tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM. Các NHTM phải tự chủ tài chính, phát triển các nghiệp vụ kinh doanh và ngày càng có nhiều kinh nghiệm hoạt động và kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó các NHTM cũng đã phát hành một số loại kỳ phiếu ngân hàng với các kỳ hạn và lãi suất khác nhau tức là đã tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Cùng với các NHTM, hệ thống kho bạc nhà nước cũng đã được củng cố về mạng lưới và nghiệp vụ. Những năm gần đây, kho bạc nhà nước đã tiến hành phát hành nhiều đợt tín phiếu kho bạc. Nhờ những kinh nghiệm thu được, kho bạc sẽ là người phát hành một khối lượng lớn công trái - một bộ phận quan trọng trong thị truường trái phiếu. Cũng do đổi mới, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các loại hình kinh doanh. Điều đó cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả nguồn lực cho công cuộc xây dựng đất nước. Nhiều công ty cổ phần và liên doanh đã ra đời với việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá DNNN. Điều này cho phép tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá cho TTCK ( cổ phiếu và trái phiếu công ty ). Như vậy , xuất phát từ kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và nhu cầu thực tiễn ở nước ta, việc hình thành TTCK không những thúc đẩy tiết kiệm trong nước, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, thúc đẩy cổ phần hoá DNNN mà còn thúc đẩy vốn đầu tư nước ngoài. Dó đó TTCK Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan. 2. Hoạt động của các NHTM Việt Nam nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển TTCK. TTCK Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu đổi mới CNH-HĐH đất nước trong điều kiện hiện nay. Trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn của các nước cho thấy vai trò đắc lực bậc nhất của các NHTM trong quá trình hình thành và phát triển TTCK, NHTM Việt Nam đã và đang có những đóng góp gì trong việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam? Đứng trước yêu cầu cấp thiết đó các NHTM Việt Nam đã và đang tích cực đổi mới về mọi mặt. NHTM đã sử dụng vốn huy động của mình mua công trái quốc gia với số lượng lớn ( 2550 tỷ đồng trong đợt phát hành vừa qua ) và tham gia đấu thầu mua trái phiếu kho bạc ( trong 8 tháng đầu năm 1999 mua trên 2000 tỷ đồng). Qua đó chúng ta nhận thấy NHTM đã tham gia tích cực vào TTCK với tư cách là người mua. Bên cạnh đó, các NHTM chính phủ, ngân hàng liên doanh đã phát hành cổ phiếu để gọi vốn cổ phần từ các cổ đông trong và ngoài nước với mục đích tạo vốn điều lệ. Điển hình là NHTMCP A Châu, ngân hàng First Vina Bank. Đặc biệt ngân hàng đã ban hành quyết định 529 TC- QĐ/TCDN có hiệu lực từ 16/8/1997 cho phép phát hành loạt tờ cổ phiếu thống nhất trên toàn quốc. Điều này làm tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu, tạo hàng hoá cho TTCK. Theo mô hình TTCK mà Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy định trong Nghị định 48/1998/CP ngày 11/7/1998 thì hạt nhân cơ bản của Trung tâm giao dịch chứng khoán là các công ty CK. Công ty chứng khoán là một loại định chế tài chính đặc biệt gắn liền với hoạt động CK trên TTCK. Công ty chứng khoán vừa là cầu nối giữa người đầu tư và người phát hành, vừa cung cấp một số hoặc tất cả các nghiệp vụ chứng khoán như môi giới tư doanh, bảo lãnh phát hành... tuỳ theo khả năng tài chính của mình. Trước yêu cầu đó, với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước đối với các NHTM, NHNN có vai trò quan trọng đối với sự ra đời của các công ty chứng khoán, thể hiện trước hết ở việc ban hành các điều kiện thành lập các công ty chứng khoán của NHTM. Điều kiện đầu tiên là số vốn điều lệ tính đến ngày nộp hồ sơ xin phép thành lập công ty chứng khoán của NHTM, với điều kiện này có rất nhiều NHTM trong tổng số >50 NHTM có đủ điều kiện. Điều kiện thứ hai rất quan trọng là tỷ lệ nợ quá hạn trung bình phải dưới 5% tổng dư nợ. Điều kiện thứ ba là tỷ lệ an toàn vốn đạt trên 5% hoặc lãi trước thuế trên vốn điều lệ từ 20% trở lên. Cho đến nay, UBCKNN đã chính thức cấp giấy phép cho ba công ty chứng khoán thuộc NHTM trên tổng số sáu công ty đó là: Công ty chứng khoán NHĐT&PT Việt Nam ( vốn điều lệ là 55 tỷ đồng ), được phép thực hiện cả năm nghiệp vụ: Môi giới, tư doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư. Công ty chứng khoán NHTM CP A Châu ( vốn điều lệ 43 tỷ đồng), và NHTM cổ phần Quân đội thành lập công ty chứng khoán TNHH Thăng Long có vốn điều lệ là 9 tỷ đồng, được thực hiện các loại hình: Môi giới, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư. Đồng thời, theo kế hoạch triển khai của UBCKNN, các NHTM quốc doanh khác được phép thành lập các công ty chứng khoán trực thuộc , các NHTM cổ phần sẽ thành lập công ty chứng khoán nếu có đủ điều kiện. Như vậy tuy không phải là những công ty chứng khoán duy nhất, song các công ty chứng khoán do NHTM thành lập là người tiên phong trên TTCK non trẻ của Việt Nam. Điều này xuất phát từ nhiều ưu thế vượt trội của các NHTM so với các doanh nghiệp khác về vốn, mạng lưới chị nhánh và khách hàng, đội ngũ nhân viên được đào tạo quy củ, trình độ quản trị điều hành, cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đầy đủ, thanh toán cập nhật...Trong thời gian tới, với những đổi mới vững chắc như hiện nay sẽ có nhiều NHTM tham gia vào TTCK. Bên cạnh đó, các NHTM đã tích cực đào tạo đội ngũ nhân viên yêu nghề, giỏi về nghiệp vụ chứng khoán, không ngừng nâng cấp mua sắm nhiều trang thiết bị hiện đại sẵn sàng tham gia hoạt động trên TTCK. 3. Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình hoạt động TTCK Việt Nam. Mặc dù còn quá ít thời gian để TTCK Việt Nam có thể khẳng định được vai trò của mình trong đời sống kinh tế, nhưng dù sao cũng cần phải thấy rằng, những diễn biến của TTGDCK TP.HCM thời gian qua đã bộc lộ khá nhiều yếu kém. Nền kinh tế của chúng ta chưa thực sự ổn định, hiệu quả kinh tế thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năn 1999 tỷ lệ tăng trưởng GDP chỉ đạt 4.8%. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, hàng hoá còn ứ đọng nhiều. Lưu thông tiền tệ chưa thông suốt, quản lý yếu kém, nhiều sơ hở, chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, lạc hậu... Hệ thống pháp luật tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng còn rất yếu, chưa đồng bộ và kém hiệu lực, trong khi hoạt động của TTCK đòi hỏi một hệ thống pháp luật chặt chẽ và ý thức chấp hành pháp luật cao. ở nước ta, một văn bản qui phạm pháp luật cao nhất nhằm điều chỉnh hoạt động của TTCK mới được dự thảo là pháp lệnh về chứng khoán và TTCK và cho đến nay vẫn chưa được ban hành. Hoạt động của TTCK liên quan trực tiếp đến luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, luật TTCK, luật dân sự , luật đầu tư....Việc soạn thảo và thi hành luật của ta còn gặp nhiều khó khăn do các nhà làm luật không am hiểu nghiệp vụ kinh tế nói chung và nghiệp vụ TTCK nói riêng, ngược lại các nhà kinh tế lại không nắm vững luật. Bên cạnh đó ý thức chấp hành luật còn thấp. Ngiêm trọng hơn là việc thi hành pháp luật không nghiêm minh dẫn tới nhiều hậu quả tiêu cực và giảm sút lòng tin . TTCK là nơi diễn ra các hoạt động phức tạp , xử lý lượng thông tin khổng lồ đòi hỏi sự chính xác và tốc độ cao nên phải được trang bị những thiết bị hiện đại, cơ sở vật chất đầy đủ, điều kiện của ta chưa thể đáp ứng được. Bên cạnh đó chúng ta chưa có hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác kiểm toán còn mới mẻ, số lượng công ty kiểm toán còn ít, do đó việc đánh giá tài chính của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn tới việc thiếu các thông tin chính xác, kịp thời, nhạy cảm đáp ứng cho yêu cầu vốn rất khắt khe của TTCK. Về trình độ nhận thức của con người: hầu hết mọi người dân Việt Nam hiểu biết rất ít về các loại chứng khoán và hoạt động của TTCK. Các quan chức, các nhà kinh tế, những người tham gia tích cực, chủ yếu vào sự hình thành và phát triển TTCK thì hầu như mới tiếp cận TTCK về mặt lý thuyết chứ chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên gặp rất nhiều khó khăn. Do đó yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có kế hoạch đào tạo, phổ biến kiến thức về TTCK cho dân chúngvà đặc biệt là nâng cao trình độ các cán bộ, nhân viên tham gia trực tiếp vào hoạt động TTCK. Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng tuy đã có những bước tiến căn bản nhưng chưa sẵn sàng tham gia vào TTCK. Các NHTM Việt Nam hiện nay hầu hết chỉ thực hiện các nghiệp vụ truyền thống (chủ yếu là huy động vốn và cho vay) công nghệ ngân hàng yếu kém, lạc hậu dịch vụ nghèo nàn. Đội ngũ cán bộ chưa hoàn toàn thích nghi với cơ chế thị trường, chưa có đủ năng lực và trình độ tham gia vào TTCK. Sự yếu kém về kinh nghiệm và trình độ của hệ thống ngân hàng thể hiện rất rõ qua các đợt phát hành trái phiếu của NHTM vừa qua. Hầu hết mới chỉ dừng lại ở mục tiêu huy động vốn mà không tính tới khả năng kinh doanh của những người đầu tư ngay trong các đợt phát hành đó. Hơn nữa các NHTM chưa có sự phối hợp cần thiết trong việc làm đại lý phát hành cho nhau nên chi phí phát hành rất tốn kém. Với thực trạng hiện nay, các NHTM cần phải đổi mới nhiều mới có thể tham gia vào TTCK và phát huy vai trò tích cực của nó đối với TTCK. Một khó khăn nữa đề cập ở đây là hàng hoá cho TTCK. Số lượng các công ty cổ phần của ta còn quá ít. Thêm vào đó hiệu suất kinh doanh kém, hàng hoá kém sức cạnh tranh nên ứ đọng nhiều. Tiến trình cổ phần hoá các DNNN diễn ra rất chậm do nhận thức của công chúng, do nhận thức tâm lý của những người lãnh đạo DNNN, do công tác đánh giá tài sản gặp nhiều khó khăn và sự vắng bóng của một TTCK thực sự. Không những số lượng công ty ít ỏi mà việc bán cổ phiếu của công ty cũng chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp chưa rộng rãi cho toàn dân chúng. Khả năng lưu thông bán lại các cổ phiếu đó chưa có. Thêm vào đó, chúng ta chưa có phương pháp xác định chất lượng công ty nên sự hiểu biết khả năng cung cấp thông tin về các công ty là hạn chế. Vì thế không tạo được cơ sở, sự tin tưởng không hấp dẫn công chúng mua bán cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu công ty - loại hàng hoá quan trọng trong TTCK- không những ít về số lượng mà còn kém về khả năng lưu thông. Những khó khăn nêu trên một phần là do những bất cập còn tồn tại trong hoạt động của hệ thống NH. Các NHTM trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định như huy động vốn phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân... Nhưng do thiếu hiểu biết và kinh nghiệm vận hành trong kinh tế thị trường nên trong NHTM vẫn chứa đựng những yếu tố chưa lành mạnh, vững chắc và an toàn. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực từ 1/10/1998 nhưng việc xây dựng các văn bản pháp quy để thi hành luật vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, một số chính sách, quy định không còn phù hợp chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời cũng đã gây nhiều khó khăn đối với hoạt động ngân hàng. Cụ thể vấn đề như thế nào chúng ta có thể xem xét trên từng lĩnh vực. a. Cơ cấu tổ chức , cán bộ: Sau đổi mới năm 1988, các NHTM đã phát triển với mạng lưới rộng khắp. Đến giữa năm 1998, các NHTM đã có một số lượng thành viên đáng kể: 4 NHTM quốc doanh với trên 200 chi nhánh trực thuộc, trên 600 chi nhánh cấp huyện và hàng ngàn phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, chi nhánh cấp 4, 61 NHTM cổ phần. Ngoài ra còn có 4 ngân hàng liên doanh và trên 200 văn phòng đại diện, chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài. Đây là điều kiện rất tốt để đưa hoạt động ngân hàng phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của đông đảo quần chúng ở mọi địa bàn. Tuy nhiên việc thành lập các ngân hàng theo địa giới hành chính đang làm giảm tính khách quan và độc lập trong hoạt động của nó, các ngân hàng khu vực lại chưa được hình thành. Thêm vào đó các quan hệ trên địa bàn lãnh thổ chưa được xử lý, phối hợp có hiệu quả. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hình thành quá nhanh và nhiều đã cạnh tranh với ngân hàng trong nước. Năm 1999 chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong sắp xếp lại mạng lưới góp phần đẩy mạnh việc lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, điều này thể hiện rất rõ trong việc đóng cửa và cơ cấu lại khu vực NHTM cổ phần. Đầu năm 1999, NHNN đã đệ trình chính phủ kế hoạch cơ cấu và lành mạnh hệ thông NHTM cổ phần, trong đó xác định rõ 10 ngân hàng thuậc loại yếu và không có khả năng trả nợ. Trên cơ sở đó, NHNN đã từng bước tiến hành sắp xếp mạng lưới tổ chức của hệ thống này. Đến nay có 5 ngân hàng bị rút giấy phép hoạt động, trong đó có một ngân hàng được mua lại và 2 ngân hàng được sát nhập với các NHTM cổ phần khác. Vấn đề con người trong các NHTM hiện nay cũng tồn tại nhiều bất cập Hầu hết cán bộ nhân viên nghiên cứu đã được đào tạo nhưng chưa thể đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao cuả hệ thống ngân hàng ngày càng hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Một số nguyên nhân đó là, công tác đào tạo, bồi dưỡng bố trí cán bộ còn nhiều thiếu sót nên khả năng thích ứng nhanh với cơ chế thị trường chưa cao, trình độ nghiệp vụ còn thấp, một bộ phận cán bộ và viên chức ngân hàng thoái hoá, biến chất, chế độ chính sách nhà nước... Thêm vào đó trong một thời gian dài, công tác thanh tra kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng không được coi trọng đúng mức, chất lượng hiệu quả kém, thiếu nghiêm minh trong xử lý các vụ vi phạm, điều này đã tạo kẽ hở dẫn đến những vụ vi phạm nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các NHTM nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. b. Hoạt động kinh doanh tiền tệ Nhìn chung, năng lực điều hành kinh doanh trong cơ chế thị trường của các NHTM còn nhiều bất cập, nặng nề nghiệp vụ truyền thống, các nghiệp vụ mới chậm được áp dụng nên số lượng ít ỏi và chất lượng chưa cao. Thêm vào đó là sự can thiệp hành chính còn nhiều vào các hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM, mức độ độc quyền cao ( các NHTM quốc doanh luôn chiếm trên 75% tỷ phần trong cả hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay. Những điều này dẫn tới tình trạng hiệu quả kinh doanh kém và có xu hướng giảm sút. Các chỉ tiêu về tỷ lệ nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các ngân hàng trong khu vực. Vấn đề được đề cập đầu tiên ở đây là hoạt động tín dụng-hoạt động chủ yếu của các NHTM Việt Nam. Tính đến hết tháng 8/1999 tổng dư nợ cho vay và đầu tư hệ thống đối với nền kinh tế chỉ tăng 7% so với đầu năm ( trong khi mức đề ra cho cả năm là 18%). Ngược lại, tốc độ huy động vốn thì tăng 10% so với mức dự kiến cả năm là 25%. Đây là tình trạng chung cho toàn ngành, từ các NHTM quốc doanh đến các công ty cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Mức độ tăng trưởng tín dụng thấp như vậy không phải các NHTM không có tiền cho vay. Liên tục trong hơn một năm qua tất cả các NHTM và tổ chức tín dụng đều liên tục giảm lãi suất tiền gửi ( bình quân lãi suát huy động vốn hiện nay là 0,6%-0,7%) nhưng vốn huy động vẫn thường xuyên tăng cao. ở hầu hết các NHTM, tốc độ tăng trưởng vốn huy động gấp 1,8 lần đến 3 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng trong 8 tháng đầu năm nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp dù chúng ta đã thực hiện một loạt các giải pháp nới lỏng chính sách tiền tệ như cắt giảm lãi suất, tái cấp vốn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay, nới lỏng điều kiện cho vay( các hộ nô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0749.doc
Tài liệu liên quan