Khóa luận Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô nếp lai

Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương thì ngô ởViệt Nam tập

trung chủyếu vào hai loài phụchính là đá rắn và ngô nếp. Ngô nếp được

phân bố ởkhắp các vùng trong cảnước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau:

Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập

và lưu giữ148 mẫu ngô nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15

nguồn nếp vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ(Nguyễn ThịNhài, 2005)[10].

pdf49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5237 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô nếp lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến tự nhiên hay nhân tạo như donor. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng rất quan tâm đến nguồn gen cây ngô địa phương trong đó có nguồn gen ngô nếp phục vụ tạo giống. Từ nguồn vật liệu ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể, dựa vào nội nhũ và các đặc tính nông sinh học khác để tạo ra dòng nếp thuần. Để tạo các đồng đẳng ngô nếp từ nguồn ngô thường, người ta cho lai ngô nếp và ngô thường, sau đó tiến hành lai lại và kiểm tra bằng phân tích hạt qua phản ứng với dung dịch KI. Bằng cách này, các nhà khoa học đã tạo ra khá nhiều dòng và giống nếp lai mới. Chúng được trồng cách ly với các loại ngô khác để đảm bảo chất lượng. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 14 Người ta cho rằng ngô nếp ưu thế lai cũng như ngô chất lượng protien cao, năng suất giảm đi so với ngô ưu thế lai bình thường, và giả thuyết cho rằng tích lũy mật độ hạt tinh bột thấp, nội nhũ mềm và khối lượng hạt thấp hơn. Năm 1990 mục tiêu chương trình tạo giống ngô nếp ưu thế lai và ngô có chất lượng protein của Argentina được bắt đầu và sau đó 1 vài dòng thuần được phát triển và thử khả năng phối hợp giữa các dòng tự phối tốt nhất và vụ ngô năm 2001/02 một số tổ hợp lai đơn được thử nghiệm. Số tổ hợp phân thành 3 nhóm là : - Ngô nếp ưu thế lai - Ngô chất lượng protein cao - Tổ hợp lai kép cải thiện tinh bột của ngô chất lượng protein Những thử nghiệm mới đã được thực hiện ở nhiều điểm đã nhận được những kết quả ngạc nhiên với những lai đơn mới trên cơ sở lựa chọn dòng bố mẹ tự phối thuần như trên đã cho năng suất cao, cải thiện tinh bột, chất lượng protein và thích nghi tốt. Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở Mỹ, nhưng phần lớn diện tích được trồng phần lớn ở miền trung Illois và Indian, phía bắc của Iowa. Diện tích ngô nếp hàng năm của Mỹ khoảng 290000 ha, chủ yếu diện tích này là trồng nếp vàng, nhưng gần đây có một số diện tích nhỏ được trồng bằng nếp trắng. Ở các nước phát triển như Mỹ việc chọn tạo giống ngô nếp tập trung chọn tạo giống ngô nếp ưu thế lai, năm 2003 có 12 công ty hạt giống chào bán các tổ hợp ngô nếp ưu thế lai được kinh doanh trên thị trường. Trong tương lai nước Mỹ có xu hướng trồng ngô nếp rộng rãi đồng thời để các nhà chế biến chấp nhận giống ngô nếp không biến đổi gen (non-GMO ) để xuất khẩu sang Châu Âu. Mặc dù đã trải qua thời gian rất dài nhưng việc sản xuất ngô nếp thương mại vẫn gặp rất nhiều vấn đề: thiếu những dạng đối chứng cho những dạng ngô đặc biệt, tiềm năng năng suất của các giống ngô nếp lai nhìn chung là thấp hơn so với ngô tẻ, biến động tuỳ thuộc vào đất trồng, trung bình đạt từ 65-75% so với ngô tẻ thường. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 15 Theo thông tin từ hội nghị ngô châu Á lần thứ 9 tại Bắc Kinh – T9/2005, Trung Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp lai cho năng suất cao và chất lượng ngon. Như: Giống nếp lai đơn màu trắng JYF101, năng suất trung bình 15 tấn bắp tươi/ha; Nếp trắng lai đơn Yahejin 2006 cho năng suất tươi tới 20 tấn/ha; giống nếp lai đơn màu tím Jinkenou 218 đạt 12 tấn bắp tươi/ha. Ngô nếp được dùng vào các mục đích khác nhau như ăn tươi, đóng hộp, chế biến tinh bột… Nhìn chung có hai cách sử dụng chính là làm thực phẩm và chế biến tinh bột. Ở Mỹ và các nước phát triển phần lớn ngô nếp được sử dụng để chế biến tinh bột, dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm, keo dán, chất hồ dính, công nghiệp dệt, công nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn, chế siro… Nhờ những tính chất đặc biệt mà hiện nay con người sử dụng ngày càng nhiều và phạm vi sử dụng tinh bột ngô nếp càng được mở rộng. Tinh bột ngô nếp còn được dùng như một dạng sữa ngô làm đồ gia vị cho món salad. 2.3.2. Nghiên cứu và sử dụng ngô nếp ở Việt Nam. Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương thì ngô ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào hai loài phụ chính là đá rắn và ngô nếp. Ngô nếp được phân bố ở khắp các vùng trong cả nước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau: Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ…Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập và lưu giữ 148 mẫu ngô nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15 nguồn nếp vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ (Nguyễn Thị Nhài, 2005)[10]. Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, những nghiên cứu chủ yếu vẫn là ngô tẻ, các nghiên cứu về ngô nếp rất hạn chế. Cho tới nay, chỉ có một số công trình được công bố: Công trình của Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy [7] tiến hành phân loài phụ cho 72 giống ngô nếp địa phương. Trong đó 48 mẫu nếp trắng, 8 mẫu nếp vàng, 16 mẫu nếp tím. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 16 Tác giả Ngô Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu [12] đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng tổng hợp được công nhận giống quốc gia năm 1989. Giống này có thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng thích ứng rộng, được trồng khá phổ biến ở Miền Bắc. Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp chọn lọc chu kỳ từ tổ hợp lai giữa hai giống nếp tổng hợp nhập nội từ Philipin đã tạo ra giống nếp trắng ngắn ngày S2, năng suất trung bình 20-26 tạ/ha, được công nhận năm 1989. Tác giả Phan Xuân Hào và cộng sự đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng VN2, được công nhận giống quốc gia năm 1997. VN2 được chọn tạo từ các giống ngô nếp ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng tốt, có nguồn gốc khác nhau: Nếp Tây Ninh, Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng, Nếp Thanh Sơn – Phú Thọ và Nếp S-2 từ Philipin. Đây là giống ngắn ngày, chất lượng dinh dưỡng cao, khả năng thích ứng rộng, năng suất bình quân đạt 30 tạ/ha (Phan Xuân Hào và cs, 1997) [6]. Phạm Thị Rịnh và cộng sự ở phòng Nghiên cứu Ngô Viện KHKTNN miền Nam đã tạo được giống ngô nếp dạng nù TPTD cải tiến N1 từ 2 quần thể ngô nếp nù địa phương ở Đồng Nai và An Giang. N1 đã được công nhận giống quốc gia năm 2004. Đây là giống ngô nếp ngắn ngày, có tiềm năng năng suất cao 40-50 tạ hạt khô/ha, thích hợp trồng ở các tỉnh phía Nam. Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cương - Viện Di Truyền Nông nghiệp, và Ngô Hữu Tình - Viện Nghiên cứu Ngô đã gây đột biến bằng tia gama, kết hợp với xử lý Diethylsulphat ở ngô nếp thu được một số dòng biến dị có các đặc tính nông học quý so với giống ban đầu (Nguyễn Hữu Đống và cs, 1997) [3]. Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam bắt đầu chuyển hướng sang tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai không quy ước có triển vọng như: MX2, MX4 của Công ty cổ phần Giống cây trồng Miền Nam, Bạch Ngọc của Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 17 công ty Lương Nông. Ngoài ra, một số giống nếp lai quy ước được trồng ở các tỉnh phía Nam, phần lớn có nguồn gốc từ Đài Loan, Thái Lan, và một số công ty giống quốc tế. Đồng thời Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập nguyên liệu và tạo ra hàng loạt các dòng thuần ngô nếp phục vụ chương trình chọn tạo giống ngô nếp lai. Hàng loạt các tổ hợp nếp lai mới triển vọng đã được tạo ra và đang được thí nghiệm ở nhiều vùng sinh thái ở Miền Bắc. Theo Điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương thì diện tích ngô nếp nước ta chiếm gần 10% diện tích trồng ngô cả nước. Diện tích ngô nếp liên tục tăng, đặc biệt là vùng đồng bằng ven đô thị. Nguyên nhân chính trước hết do các giống ngô nếp đáp ứng được nhu cầu luân canh tăng vụ trong cơ cấu nông nghiệp hiện nay, nhưng quan trọng hơn là đáp ứng nhu cầu xã hội ngày một tăng đối với sản phẩm này. Sản xuất ngô ở Việt Nam theo kế hoạch của Bộ NN và PTNT phấn đấu đến năm 2010 đạt 6-7 triệu tấn ngô/năm (Trần Hồng Uy và CS, 2004). Để đạt được mục tiêu, chúng ta cần vượt qua một số trở ngại khách quan như diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp, khí hậu khắc nghiệt và sâu bệnh ngày một nhiều hơn thì vấn đề cần giải quyết là từng bước chuyển một phần diện tích sang trồng các loại ngô rau, ngô quà (ngô nếp), ngô nổ với mục tiêu đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội, đa dạng các sản phẩm hàng hoá và nâng cao giá trị kinh tế của sản xuất ngô. Ở các vùng núi cao và vùng sâu, người dân sử dụng ngô nếp là nguồn lương thực chính dưới dạng xôi ngô hoặc dùng tươi: Nướng, luộc. Còn hầu hết các địa phương khác ngô nếp được xem như thực phẩm làm ăn quà và chế biến đơn giản. Những năm gần đây, đời sống được cải thiện, nhu cầu của người dân ngày một đa dạng. Các loại ngô thực phẩm được sử dụng ngày một nhiều, không những làm lương thực mà còn được chế biến thành các món ăn ưa thích: ngô chiên, súp ngô, snack ngô, ngô rau bao tử, chế biến tinh bột… Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 18 PHẦN 3: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Vật liệu, nội dung, địa điểm, thời gian nghiên cứu. 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu. Thí nghiệm gồm Gồm 2 giống ngô nếp lai mới: NL6 được tạo ra tại Viện Nghiên cứu Ngô và giống MX4 đang được trồng rộng rãi ở miền Bắc. Bảng 3.1: Danh sách các giống tham gia thí nghiệm STT Tên giống Nguồn gốc Đặc điểm 1 NL6 Viện NC Ngô Lai đơn 2 MX 4 (ĐC) Cty GCT MN Lai quy ước 3.1.2. Nội dung nghiên cứu. - Đánh giá ảnh hưởng của các mức phân bón đến sinh trưởng phát triển, các yếu tố cấu năng suất và khả năng chống chịu của các giống ngô nếp lai. - Xác định mức phân bón phù hợp để đưa vào sản xuất. 3.1.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu. - Thí nghiệm được bố trí tại Cao Minh – Phúc yên – Vĩnh Phúc. - Thời gian tiến hành: Vào vụ xuân 2009 (từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2009). 3.2. Phương pháp nghiên cứu. 3.2.1. Bố trí thí nghiệm. Thí nghiệm gồm 2 giống ngô NL6 và MX4 với 3 mức phân bón là: Mức 1 : 100 kg N +70 kg 2 5P O + 60 kg 2K O Mức 2 : 120 kg N + 80 kg 2 5P O +70 kg 2K O Mức 3 : 140 kg N +90 kg 2 5P O +80 kg 2K O Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 19 Tương ứng với 6 công thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn, 3 lần nhắc lại, mỗi công thức gieo 4 hàng/1 lần nhắc lại. Mỗi hàng dài 5 m. Công thức 1: Giống MX4 mức phân bón 1. Công thức 2: Giống MX4 mức phân bón 3. Công thức 3: Giống MX4 mức phân bón 3. Công thức 4: Giống NL6 mức phân bón 1. Công thức 5: Giống NL6 mức phân bón 2. Công thức 6: Giống NL6 mức phân bón 3. Khoảng cách gieo: 60cm x 25cm x 1 cây/hốc. Phân chuồng bón 10 tấn/ha Sơ đồ thí nghiệm. Dải bảo vệ NL6 MỨC 1 NL6 MỨC 3 MX4 MỨC 1 MX4 MỨC 2 NL6 MỨC 2 MX4 MỨC 3 MX4 MỨC 2 NL6 MỨC 1 NL6 MỨC 3 MX4 MỨC 3 MX4 MỨC 1 NL6 MỨC 2 NL6 MỨC 3 MX4 MỨC 1 MX4 MỨC 2 NL6 MỨC 1 NL6 MỨC 2 MX4 MỨC 3 Dải bảo vệ Dải bảo vệ I Dải bảo II vệ III 3.2.2. Quy trình kỹ thuật. Chăm sóc theo quy trình kỹ thuật của Viện nghiên cứu ngô. - Làm đất: đất được cày tơi xốp, làm sạch cỏ dại và tàn dư cây trồng vụ trước. Đất được phơi ải kỹ, bón vôi, san phẳng và rạch hàng. - Gieo hạt: mỗi hốc 2-3 hạt. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 20 - Bón phân + Bón lót: Bón toàn bộ lượng phân chuồng, phân lân. + Bón thúc: Khi cây ngô có 3 - 5 lá thật, bón 1/3 lượng đạm. Khi cây ngô có 7 - 9 lá thật, bón 1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali còn lại. Trước khi cây ngô trổ cờ bón 1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali - Chăm sóc: + Theo dõi quá trình sinh trưởng phát triển của cây ngô để có biện pháp xử lý kịp thời. + Tiến hành tỉa, dặm cây con để đảm bảo đúng mật độ và số lượng cây. + Khi ngô có 3-4 lá thật tiến hành xới xáo, làm cỏ và tỉa cây đảm bảo mỗi hốc có 1 cây. + Khi ngô 7-9 lá tiến hành làm cỏ, bón thúc lần 2. + Theo dõi để tưới tiêu, đảm bảo điều kiện cho ngô phát triển. + Tiến hành phòng ngừa sâu bệnh kịp thời khoa học. 3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi. - Thời gian sinh trưởng (ngày): Từ khi mọc đến các giai đoạn + Ngày mọc: Được xác định khi có 50% số cây mọc + Ngày trỗ cờ: Được xác định khi có ≥ 50% số cây trỗ cờ + Tung phấn: Được xác định khi có ≥ 50% số cây có hoa nở được 1/3 trục chính + Phun râu: Khi có ≥ 50% số cây trên ruộng có râu nhú dài từ 2-3 cm + Chín sinh lý: Khi có trên 75% số cây có lá bi khô và chân hạt có chấm đen. - Các chỉ tiêu hình thái: + Chiều cao cây (cm): Đo từ mặt đất đến điểm phân nhánh cờ đầu tiên. Đo 10 cây/ô thí nghiệm. + Độ cao đóng bắp (cm): Đo từ mặt đất tới đốt đóng bắp trên cùng, đo 10 cây/ô thí nghiệm. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 21 + Số lá (cắt đánh dấu lá thứ 5 và thứ 10 để xác định số lá dễ dàng). Đếm số lá sau khi ngô trỗ cờ hết, đếm 10 cây/ô thí nghiệm. + Động thái tăng trưởng chiều cao cây, 7 ngày đo một lần, đo từ mặt đất đến đỉnh lá cao nhất, đo 10 cây/ô thí nghiệm. + Động thái tăng trưởng số lá, 7 ngày đếm một lần, đếm 10 cây/ô thí nghiệm + Diện tích lá và chỉ số diện tích lá (LAI): Đo vào giai đoạn ngô từ 7 - 9 lá và giai đoạn ngô vừa trỗ cờ xong, giai đoạn này ngô đạt chỉ số diện tích lá cao nhất, đo 10 cây/ô. - Một số đặc trưng hình thái của bắp. + Độ che kín bắp (Điểm) Điểm 1: rất kín Điểm 2: kín Điểm 3: hơi hở Điểm 4: hở Điểm 5: rất hở + Chiều dài bắp (cm): Đo khoảng cách giữa hai đầu mút của hàng hạt dài nhất, đo 5 bắp/1 giống + Đường kính bắp (cm): Đo ở giữa bắp, đo 30 bắp/ 1 giống. - Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất + Số hàng hạt/bắp: Một hàng được tính khi có 50% số hạt so với hàng dài nhất, đếm tổng số hàng có trên bắp, đếm 30 bắp/1 giống. + Số hạt/hàng: Được đếm theo hàng hạt có chiều dài trung bình, đếm 30 bắp/1 giống. + Khối lượng 1000 hạt (gram) ở ẩm độ 14%: Cân 2 mẫu, mỗi mẫu 500 hạt, nếu chênh lệch < 5g là chấp nhận được. + Năng suất lý thuyết (NSLT) tấn/ha ở độ ẩm 14%: Số HH/B x Số H/H x Số B/C x Mật độ x P1000 hạt(14%) NSLT = 100.000.00 Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 22 Trong đó: Số HH/B: Số hàng hạt/bắp Số H/H : Số hàng/hạt Số B/C : Số bắp/cây - Khả năng chống chịu: + Sâu đục thân (%): Đếm số cây bị nhiễm sâu/ tổng số cây trong ô. Đánh giá bằng các mức độ như sau. Không bị sâu (< 5% số cây bị sâu) Nhẹ (có 5 - 15% số cây bị nhiễm sâu) Vừa (có 15 - 25% số cây bị nhiễm sâu) Nặng (có 25 - 35% số cây bị nhiễm sâu) Rất nặng (có 35 - 50% số cây bị nhiễm sâu) + Bệnh khô vằn: Số cây bị bệnh/tổng số cây trong ô thí nghiệm, sau đó đánh giá bằng cách cho điểm từ 1-5. Điểm 1: Không có vết bệnh Điểm 2: Có vết bệnh ở sát gốc Điểm 3: Vết bệnh lan đến những đốt sát gốc Điểm 4: Vết bệnh lan đến bắp (lá bi) Điểm 5: Vết bệnh lan toàn cây. + Bệnh đốm lá(điểm): Đếm số cây bị bệnh/tổng số cây bị bệnh trong ô thí nghiệm. Đánh giá bằng cách cho điểm theo thang điểm từ 1-5. Điểm 1: Không nhiễm (< 5% diện tích lá bị bệnh). Điểm 2: Nhẹ ( có từ 5-15% diện tích lá bị bệnh). Điểm 3: Vừa ( có từ 15-30% diện tích lá bị bệnh). Điểm 4: Nặng ( có từ 30-50% diện tích lá bị bệnh). Điểm 5: Rất nặng ( có từ 50% diện tích lá bị bệnh trở lên). + Đổ gẫy thân (%): Đếm các cây bị gãy ở thân phía dưới bắp/tổng số cây trong ô khi thu hoạch. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 23 Điểm 1: Tốt: <5 % cây gãy Điểm 2 : Khá: 5-15% cây gãy Điểm 3: Trung bình: 15-30% cây gãy Điểm 4: Kém: 30-50% cây gãy Điểm 5: Rất kém: >50% cây gãy + Chống đổ: Đổ gốc (%) được tính khi cây đổ nghiêng 1 góc > 300 so với phương thẳng đứng. 3.2.4. Phương pháp xử lý số liệu. - Số liệu được xử lý bằng chương trình Excel, thống kê sinh học. - Sử lý bằng thống kê toán học với các tham số sau: + Số trung bình ( X ). 1== ∑n i i X X n s X : Giá trị trung bình. iX : Các biến số. n: Dung lượng mẫu (n = 30) + Độ lệch chuẩn. ( )2iX X n δ −= ∑ + Sai số trung bình. m n δ= + Hệ số biến động. % .100%CV X δ= Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 24 PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Điều kiện khí hậu thời tiết vụ thí nghiệm. Vụ xuân ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ có thời tiết khá thuận lợi cho cây ngô sinh trưởng, phát triển và đạt năng suất cao. Bảng 4.1: Diễn biến thời tiết vụ xuân năm 2009 tại Cao Minh – Phúc Yên – Vĩnh Phúc Nhiệt độ không khí (OC) Tháng Ttb Tmax Tmin Độ ẩm không khí Trung bình (%) Lượng mưa trung bình (mm) Số giờ nắng trung bình (giờ) 3 21,2 31,3 13,3 83 55,4 57 4 24,5 33,2 16,7 83 132,3 107 5 29,4 34,5 22,0 83 313,4 135 6 30,6 38,6 22,3 79 167,7 181 (Nguồn: Trạm khí tượng Vĩnh Yên) Qua bảng ta thấy nhiệt độ trung bình qua các tháng tăng dần và đảm bảo cho cây ngô sinh trưởng phát triển tốt. Độ ẩm không khí của cây ngô dao động trong khoảng 79 – 83% là điều kiện tốt cho cây ngô phát triển. Vào đầu vụ (Tháng 3) ít mưa nhưng không ảnh hưởng nhiều tới cây con do bố trí gieo hạt vào thời điểm thích hợp và tưới nước kịp thời. Tuy nhiên, những ngày đầu tháng 5 ở Miền Bắc (đặc biệt khu vực Hà Nội ) có mưa lớn, kéo dài làm ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của ngô. Cây sinh trưởng phát triển tốt trong các giai đoạn. Giai đoạn mẫn cảm nhất của cây ngô (trỗ cờ, tung phấn, phun râu) diễn ra vào cuối tháng 4. Đầu tháng 5 gặp mưa lúc này ngô đã qua giai đoạn tung phấn và chuyển sang giai đoạn kết hạt. Mưa to kết hợp với gió đã làm đổ gãy ngô điều này làm giảm năng suất tuy nhiên không ảnh hưởng tới kết quả thí nghiệm. 4.2. Thời gian sinh trưởng. Từ khi gieo đến khi thu hoạch cây ngô phải trải qua các giai đoạn sinh Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 25 trưởng khác nhau và chia thành 2 giai đoạn chính: Thời kỳ sinh trưởng - sinh dưỡng và thời kỳ sinh trưởng sinh thực. Thời gian sinh trưởng của cây ngô được tính từ khi cây bắt đầu mọc cho đến khi chín sinh lý (thu hoạch bắp khô). Thời gian sinh trưởng ngắn hay dài phụ thuộc vào giống, mùa vụ, kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc và điều kiện sinh thái của từng vùng. Việc theo dõi sự chênh lệch về thời gian giữa các giai đoạn của các mức phân bón trong một giống thí nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất. Quá trình theo dõi sẽ đánh giá được thời gian trỗ cờ, tung phấn, phun râu và thời gian chín của các mức phân bón trên cơ sở đó ta biết được ở mức phân bón có làm thay đổi thời gian sinh trưởng của giống hay không? Từ đó định ra kế hoạch sử dụng các mức phân bón - giống vào từng thời vụ, vùng sinh thái cho phù hợp với cơ cấu cây trồng nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong sản xuất. Thời gian sinh trưởng là một tính trạng di truyền chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, mùa vụ trong năm. Nhìn chung, vụ xuân năm 2009 thời tiết tương đối thuận lợi cho quá trình nảy mầm của các giống thí nghiệm. Qua theo dõi ta thu được bảng sau: Bảng 4.2. Thời gian sinh trưởng của các giống ngô làm thí nghiệm. Từ ngày gieo đến ngày mọc (ngày) Từ ngày gieo đến trỗ cờ (ngày) Từ trỗ cờ đến phun râu (ngày) Từ phun râu đến chín (ngày) Thời gian sinh trưởng (ngày) Chỉ tiêu Theo dõi Giống M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 NL6 3 3 3 58 60 61 3 3 2 40 39 41 101 102 104 MX4 3 3 3 55 57 58 4 3 3 39 38 39 98 98 100 Ngày gieo 02/03/2009 Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 26 4.2.1. Giai đoạn từ gieo đến mọc. Giai đoạn này cây ngô sống chủ yếu bằng chất dự trữ trong hạt. Hạt sau khi hút nước trương lên và xảy ra quá trình biến đổi sinh lý, sinh hóa bên trong và bắt đầu nảy mầm. Giai đoạn này cây chịu ảnh hưởng của các yếu tố nội tại như trọng lượng hạt, tính nguyên vẹn, độ chín, yếu tố di truyền và các yếu tố ngoại cảnh. Khi gieo hạt gặp thời kỳ có nhiệt độ thấp thì ngô nảy mầm kém, đồng thời kéo dài thời gian nảy mầm. Trong vụ xuân năm 2009 tại Cao Minh - Phúc Yên, đầu vụ điều kiện thời tiết khá thuận lợi, nắng ấm, độ ẩm thích hợp nên thời gian từ gieo đến mọc của các giống ngô nếp rất nhanh và đồng đều, trên bảng 4.2 ta thấy các mức của các giống đều có thời gian mọc là 3 ngày. 4.2.2. Giai đoạn từ gieo đến trỗ cờ. Đây là giai đoạn cây ngô sinh trưởng sinh dưỡng, cây phát triển mạnh mẽ. Ở thời kỳ đầu, từ khi gieo đến 3 - 4 lá thật cây con sử dụng chủ yếu chất dinh dưỡng từ nội nhũ hạt nên sinh dưỡng phát triển chậm, cây non dễ bị chết nếu hạt bị thối hoặc bị sâu bọ cắn. Khi được 3 - 4 lá thật, cây ngô chuyển từ giai đoạn sinh trưởng dị dưỡng sang giai đoạn sinh trưởng tự dưỡng. Cây bắt đầu phát triển mạnh, nhất là từ sau khi đạt 7 - 9 lá đến trước khi trỗ cờ, giai đoạn này cây không ngừng tăng trưởng về chiều cao và số lá. Thời kỳ này quyết định việc tích lũy chất dinh dưỡng trên thân lá, từ đó ảnh hưởng tới năng suất sau này. Qúa trình sinh trưởng sinh dưỡng kết thúc khi cây ngô trỗ cờ. Qua bảng 4.2 cho thấy, các giống có thời gian từ gieo đến trỗ cờ không dài, chỉ từ 55 - 61 ngày. Giống NL6 ở các mức phân bón đều trỗ muộn hơn giống MX4 tương ứng là 3 ngày. Trong một giống ở mức phân bón càng nhiều thì thời gian từ gieo đến trỗ cờ càng dài. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 27 4.2.3. Giai đoạn từ trỗ cờ tới phun râu. Giai đoạn này cây ngô chuyển từ giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng sang giai đoạn sinh trưởng sinh thực. Lúc này cây ngô ngừng lớn, tuy nhiên cây vẫn hút chất dinh dưỡng mạnh. Qua theo dõi chúng ta nhận thấy thời gian giữa trỗ cờ- phun râu giữa các mức phân bón dao động từ 2 - 4 ngày. Giai đoạn từ tung phấn đến phun râu diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn nhưng tác động rất lớn tới năng suất. Mức phân bón nào có thời gian chênh lệch càng ngắn thì quá trình thụ phấn, thụ tinh càng diễn ra nhanh và tập trung điều đó có ý nghĩa quyết định rất lớn tới các yếu tố cấu thành năng suất. Đây cũng là giai đoạn rất mẫn cảm của cây ngô trước điều kiện ngoại cảnh và sâu bệnh. Vì vậy trong giai đoạn này phải đảm bảo đủ nước, dinh dưỡng, ánh sáng. Thời gian giữa trỗ cờ – phun râu là rất quan trọng, ảnh hưởng khá lớn đến quá trình thụ phấn của ngô. Kết quả theo dõi cho thấy, hầu hết các giống đều có khoảng thời gian từ trỗ cờ đến phun râu chỉ từ 2 – 4 ngày. Giống MX4 mức 1 có thời gian dài nhất là 4 ngày, ngắn nhất là giống NL6 mức phân bón 3 là 2 ngày. Các mức còn lại khoảng cách này là 3 ngày, sự ảnh hưởng của giai đoạn này thể hiện ở năng suất của từng mức. 4.2.4.Tổng thời gian sinh trưởng. Tổng thời gian sinh trưởng của các giống thí nghiệm vụ xuân năm 2009 dao động trong khoảng 98 - 104 ngày. Các mức phân bón của NL6 đều có thời gian sinh trưởng dài hơn so với mức phân bón của giống MX4 tương ứng 3 - 4 ngày. Giống NL6 có thời gian sinh trưởng là (101 - 104 ngày) Giống MX4 có thời gian sinh trưởng ngắn (98 – 100 ngày). Qua theo dõi thời gian sinh trưởng ta nhận thấy cả hai giống đều thuộc nhóm chín sớm có thời gian sinh trưởng < 105 ngày. Điều này rất thuận lợi trong việc bố trí luân canh cây trồng nhằm tăng lợi nhuận trong sản xuất. Tuy nhiên, với tổng thời gian sinh trưởng như trên cho thấy, tất cả các giống đều sinh trưởng ngắn, rất thích hợp cho bố trí vào các thời vụ như vụ xuân, vụ hè thu và vụ đông muộn ở các tỉnh Miền Bắc hoặc vụ 2 ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 28 4.3. Khả năng sinh trưởng của các giống ngô nếp lai. 4.3.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây. Chiều cao cây là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp sự sinh trưởng phát triển của cây ngô qua từng thời kỳ khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống nhưng cũng liên hệ chặt chẽ với điều kiện chăm sóc và điều kiện môi trường. Chiều cao cây cao thì có tiềm năng năng suất cao hơn tuy nhiên nếu cây quá cao thì dễ gãy đổ. Theo dõi động thái tăng trưởng chiều cao cây nhằm đánh giá độ đồng đều sinh trưởng của giống trong các mức phân bón, từ đó có những biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp. Kết quả theo dõi động thái tăng trưởng chiều cao cây thu được ở bảng 4.3 cho thấy: Giữa các mức trong một giống khi tăng lượng phân bón thì chiều cao cây cũng tăng. Thời kỳ cây tăng trưởng chiều cao nhanh là sau khi gieo 4 tuần, tương ứng với thời kỳ cây đạt 7 - 9 lá. Sau tuần thứ 5, tốc độ tăng trưởng chiều cao cây vẫn tiếp tục tăng nhưng chậm hơn so với các tuần trước đó, đến giai đoạn xoắn nõn lại tăng lên cho đến khi trỗ cờ hoàn toàn là kết thúc giai đoạn tăng trưởng của ngô. Sau tuần 8 thì giống MX4 mức phân bón 1, 2, 3 có chiều cao lần lượt là: 193,1; 195,2; 200,75. Giống NL6 mức phân bón 1, 2, 3 có chiều cao lần lượt là: 195,2; 198,3; 204,7. Qua bảng 4.3 ta thấy mức phân bón càng tăng thì chiều cao cây tăng càng nhanh. Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN Svth: Phạm Văn Ba-k32E 29 Bảng 4.3. Động thái tăng trưởng chiều cao cây, số lá của các giống. MX4 NL6 Chỉ tiêu theo Dõi ngày theo dõi Mức phân bón Cao cây Số lá Cao cây Số lá M1 28,05 3,5 29,45 3,51 M2 29,95 3,55 30,15 3,56 14/3/2009 M3 30,5 3,65 31,4 3,6 M1 60,3 5,25 60,1 5,6 M2 60,5 5,5 60,4 5,7 21/3/2009 M3 61,55 5,6 61,9 5,85 M1 80,4

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhoa_luan_ve_ngo.pdf