Khóa luận Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI 3

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 3

1.2. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 7

1.2.1. Trách nhiệm pháp lý 7

1.2.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại 9

CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC HÌNH THỨC CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI 22

2.1. BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG 22

2.1.1.Khái niệm 22

2.1.2 Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng 22

2.1.3. Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng 23

2.2. PHẠT VI PHẠM 25

2.2.1.Khái niệm 25

2.2.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm 26

2.2.3.Nội dung của chế tài phạt vi phạm 27

2.3. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 28

2.3.1. Khái niệm 28

2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài 28

2.3.3 Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại 28

2.4. TẠM NGỪNG, ĐÌNH CHỈ VÀ HUỶ BỎ HỢP ĐỒNG 32

2.4.1. Khái niệm 32

2.4.2. Điểm gống nhau giữa các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng 33

2.4.3.Về nội dung áp dụng và hậu quả pháp lý của chế tài 34

2.5. CÁC BIỆN PHÁP KHÁC DO CÁC BÊN THOẢ THUẬN 36

2.6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM VÀ KHÔNG PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM HỢP ĐỒNG 36

2.6.1. Miễn trách nhiệm và không phải chịu trách nhiệm hợp đồng 36

2.6.2. Sự kiện bất khả kháng 38

2.6.3 Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng 39

CHƯƠNG III. CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI NHÌN TỪ MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 40

3.1. CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI NHÌN TỪ MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP 40

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 49

3.2.1. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật thực định, thống nhất nội dung tư tưởng các quy định pháp luật. 49

3.2.2 Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán 53

KẾT LUẬN. 56

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11789 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng; b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng. 2. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại.” Như vậy, trong trường hợp bất khả kháng (thiên tai, địch hoạ, ...), hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng không bị coi là có lỗi. Bên bị vi phạm không có quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng. Ngay cả khi hết thời gian thực hiện hợp đồng được tính thêm khi có bất khả kháng, bên bị vi phạm cũng không thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và không bên nào được quyền đòi bên kia bồi thường thiệt hại , bởi vì Điều 296 không cho phép các bên được quyền từ chối thực hiện hợp đồng 2.1.3. Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm buộc bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí tổn thất phát sinh. Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ đúng theo thoả thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và yâu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý Điều 297, Luật Thương mại (2005) . Bên có quyền lợi bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng không chỉ là bên mua hàng mà còn có thể là bên bán hàng, khi giao hàng hoá, dịch vụ đúng cam kết trong hợp đồng nhưng không đựợc tiếp nhận. Bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định tại hợp đồng hoặc theo quy định của Luật Thương mại. Đây là một bổ sung và là một điểm mới quan trọng của Luật Thương mại (2005) so với Luật Thương mại (1997). Để áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Việc gia hạn này hoàn toàn do bên bị vi phạm quyết định trên cơ sở xem xét lợi ích của việc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng Điều 298, Luật Thương mại (2005) . Vì vậy, việc gia hạn để tiếp tục thực hiện hợp đồng nằm trong tiến trình áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng và hoàn toàn không phải là sự thoả thuận lại về thời gian thực hiện hợp đồng giữa các bên. Nếu không có thỏa thuận nào khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại nhưng không được áp dụng chế tài khác (đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, huỷ hợp đồng). Khi bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Theo quy định của pháp luật, bên bị vi phạm quyết định áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước khi sử dụng các chế tài hợp đồng khác. Bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong những trường hợp mà việc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của mình. Đối với những loại hàng hoá mang tính chất mùa, vụ, phụ thuộc vào từng thời điểm trong năm (bánh trung thu, nước giải khát, chăn đệm...) thì bên bị vi phạm không thể lựa chọn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nếu thời cơ tiêu thụ các loại sản phẩm trên đã hết. So với các hình thức trách nhiệm khác, buộc thực hiện đúng hợp đồng là một biện pháp chế tài mang tính mềm dẻo, thiện chí và hiệu quả của nó có khả năng hạn chế thiệt hại. 2.2. PHẠT VI PHẠM 2.2.1.Khái niệm Phạt vi phạm là việc bên bi vi phạm yêu cầu bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294, Luật Thương mại (2005) Điều 300, Luật Thương mại (2005) . Phạt hợp đồng là một chế tài tiền tệ, được áp dụng phổ biến đối với tất cả các hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng, không cần tính đến hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa gây thiệt hại. So với chế tài “buộc thực hiện đúng hợp đồng”, chế tài phạt hợp đồng cứng rắn hơn và có chức năng chủ yếu là trừng phạt, phòng ngừa vi phạm hợp đồng, đề cao ý thức tôn trọng pháp luật nói chung và pháp luật hợp đồng nói riêng. Mục đích chủ yếu mà bên bị phạm hướng tới khi áp dụng hình thức chế tài này không phải là “hành vi” giống như buộc thực hiện đúng hợp đồng mà là khoản tiền phạt mà bên vi phạm phải trả. Luật Thương mại (2005) qui định các bên có thể thoả thuận về một khoản tiền phạt hợp đồng, nếu xảy ra vi phạm, bên bị vi phạm có quyền đòi khoản tiền phạt mà không được quyền đòi bồi thường thiệt hại. Với quy định như vậy, chế tài phạt vi phạm dường như được áp dụng nhằm đồng thời hai mục đích: Răn đe, ngăn chặn vi phạm hợp đồng (trong trường hợp có vi phạm thì bên vi phạm sẽ phải nộp "phạt" không phụ thuộc vào việc thực tế vi phạm đó có gây ra thiệt hại cho bên kia không); Bồi thường thiệt hại theo mức định trước (tức là nếu có vi phạm gây thiệt hại thì bên bị thiệt hại không được quyền đòi bồi thường thiệt hại theo mức thiệt hại thực tế mà chỉ được đòi khoản tiền đã xác định trước mặc dù thực tế không có thiệt hại hoặc thiệt hại có thể là thấp hơn hoặc cao hơn mức quy định này). 2.2.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm, bao gồm: - Hợp đồng có thoả thuận về phạt vi phạm; - Có hành vi vi phạm hợp đồng; - Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Theo Luật Thương mại (2005), chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng khi các bên “có sự thoả thuận” trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không có sự thoả thuận về phạt vi phạm thì bên bị vi phạm mất quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và chỉ có quyền đòi bồi thường thiệt hại Khoản 12, Điều 3, Luật Thương mại (2005) . Tuy nhiên, quy định này của Luật Thương mại (2005) tỏ ra “sơ cứng”, không phù hợp với xu hướng đề cao sự tự do ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng. Hợp đồng không thoả thuận về việc phạt vi phạm, nhưng sau đó các bên có thoả thuận mới hoặc một bên thừa nhận vi phạm và chấp nhận mức phạt do bên bị vi phạm đưa ra thì không có lý do gì để không chấp nhận phạt vi phạm theo thỏa thuận của các bên. Phạt hợp đồng được áp dụng phổ biến đối với các hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy vậy, có những vi phạm mà không có cá nhân, tổ chức nào đặt vấn đề áp dụng trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó, như: vi phạm điều khoản về giải quyết tranh chấp, điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Khi đề cập đến căn cứ áp dụng chế tài phạt hợp đồng, Luật Thương mại (2005) cũng không đề cập đến yếu tố lỗi. Tuy nhiên, không có nghĩa là pháp luật đã cho phép áp dụng phạt hợp đồng đối với mọi hành vi vi phạm (không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ theo thoả thuận mà không cần tính đến yếu tố lỗi. Pháp luật quy định, được miễn trách nhiệm hợp đồng khi bên vi phạm không có lỗi (do bất khả kháng hoặc do lỗi của bên đối tác, xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận, do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Điều 294, Luật Thương mại (2005) ) .Điều đó cho thấy, lỗi vẫn là yếu tố cần thiết để áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng và các hình thức chế tài khác trong trách nhiệm hợp đồng. 2.2.3.Nội dung của chế tài phạt vi phạm Nội dung của chế tài phạt vi phạm là bên bị vi phạm buộc bên vi phạm phải trả một khoản tiền nhất định. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266, Luật Thương mại (2005) Điều 301, Luật Thương mại (2005) . Mức phạt do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng phải trong khuôn khổ giới hạn của pháp luật. Giới hạn thứ nhất là mức phạt hoặc tổng mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; giới hạn thứ hai là mức phạt đựơc tính trên giá trị nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Vấn đề đặt ra, nếu các bên không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng về mức phạt thì có áp dụng phạt vi phạm được không? Vấn đề này trong thực thi pháp luật đang có quan điểm vận dụng trái ngược nhau. Một số chuyên gia pháp lý cho rằng, nếu các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng về mức phạt thì cơ quan tài phán sẽ cân nhắc để áp dụng mức phạt tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm và nguyên nhân của vi phạm nhưng tối đa không quá 8% nghĩa vụ bị vi phạm. Tôi cho rằng, căn cứ Điều 300 và Điều 301 của Luật Thương mại (2005), nếu các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng về mức phạt thì không đủ căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm (cơ quan tài phán không thể tự quyết định mức phạt trong giới hạn phạt đã được pháp luật quy định), trừ trường hợp các bên có thói quen về vấn đề này trong hoạt động. Như vậy, Theo quy định của Luật Thương mại (2005), điều khoản phạt vi phạm hợp đồng thương mại chỉ đóng vai trò là “điều khoản tuỳ nghi”, tức là những điều khoản các bên có thể tự thoả thuận với nhau và ghi vào trong hợp đồng khi chưa có quy định của pháp luật hoặc đã có quy định của pháp luật nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của mình mà không trái pháp luật. Trong trường hợp này, các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận về điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng. Nếu có điều khoản phạt vi phạm, thì điều khoản đó có hiệu lực thi hành. Nếu các bên không thoả thuận và ghi vào trong hợp đồng thì chế tài phạt vi phạm có thể không được áp dụng. Các quy định của Luật Thương mại được xây dựng dựa trên nguyên tắc tôn trọng thoả thuận của các bên về mức phạt trước khi áp dụng mức phạt giới hạn mà pháp luật quy định. 2.3. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 2.3.1. Khái niệm Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm khoản 1, Điều 302, Luật Thương mại (2005) . Nếu như hình thức phạt hợp đồng có chức năng chủ yếu là trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa thì bồi thường thiệt hại có chức năng chủ yếu là bồi hoàn, bù đắp khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Với mục đích này, bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. 2.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài Để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại phải hội đủ cả 4 căn cứ: - Có hành vi vi phạm hợp đồng; - Có thiệt hại thực tế xảy ra; - Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại đó; - Có lỗi của bên vi phạm. 2.3.3 Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm giá trị vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Về nguyên tắc, bên vi phạm phải “bồi thường toàn bộ” những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm, không giới hạn bởi giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận. Việc bồi thường thiệt hại được tiến hành theo nguyên tắc “bồi thường toàn bộ”, do vậy mà có những trường hợp số tiền bồi thường của một bên lớn hơn cả giá trị hợp đồng đã bị vi phạm. Toàn bộ thiệt hại bao gồm: giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra, chi phí ngăn chặn hạn chế hậu quả của vi phạm, khoản lợi trực tiếp mà bên bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, cần lưu ý một số điểm sau đây: - Chỉ buộc bên vi phạm phải bồi thường các thiệt hại mà bên bị vi phạm yêu cầu khi bên bị vi phạm có đầy đủ các căn cứ để chứng minh cho các tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà mình đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng Điều 304, Luật Thương mại (2005) . - Phải xem xét bên bị vi phạm hợp đồng đã áp dụng các biện pháp hợp lý để ngăn chặn hạn chế tổn thất xảy ra hay không. Nếu bên bị vi phạm không áp dụng biện pháp hạn chế mà để mặc cho tổn thất xảy ra thì bên vi phạm có quyền yâu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được nếu bên bị vi phạm đã áp dụng biện pháp khắc phục. Điều 305, Luật Thương mại (2005) - Khi áp dụng chế tài bồi thường hại cũng cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thoả thuận về các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có quyền thoả thuận về việc bên vi phạm không phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà chỉ phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật Thương mại (2005), trong trường hợp các bên của hợp đồng không có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại Điều 307, Luật Thương mại (2005) . Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Điều 306, Luật Thương mại (2005) quy định: ”Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Tuy nhiên, hiểu quy định này như thế nào để vận dụng vào thực hiện vẫn còn là vấn đề chưa rõ ràng. Cụ thể, sẽ áp dụng mức lãi xuất nào khi các bên có thoả thuận trong hợp đồng về lãi xuất chậm thanh toán. Sự thoả thuận của các bên có thể thấp hơn hoặc cao hơn mức lãi xuất nợ quá hạn trung bình tại thời điểm thanh toán. Sẽ dễ dàng hơn trong trường hợp các bên có thoả thuận lức lãi xuất thấp hơn mức lãi xuất nợ quá hạn trung bình trên thị trường (vì khi đó sẽ áp dụng theo mức thoả thuận). Nhưng trường hợp mức các bên thoả thuận cao hơn lãi xuất nợ quá hạn trung bình thì sao? Có hai quan điểm: Thứ nhất, mức thoả thuận của các bên không được cao hơn mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường vì thoả thuận của các bên không được cao hơn mức pháp luật ấn định. Trong thực tiễn xét xử, cơ quan tài phán cũng thường không áp dụng mức cao hơn lãi xuất quá hạn do ngân hàng quy định. Thứ hai, quy định về mức lãi xuất nợ quá hạn trung bình chỉ áp dụng trong trường hợp các bên không có thoả thuận, còn nếu có thoả thuận thì sẽ áp dụng theo mức thoả thuận của các bên. Tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, bởi vì: - Điều 306, Luật Thương mại (2005) cho phép các bên được thoả thuận khác với mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán. - Pháp luật hợp đồng nói chung và pháp luật về hợp đồng thương mại nói riêng đều quy định theo hướng tôn trọng tối đa sự thoả thuận của các bên, pháp luật chỉ vào cuộc (can thiệp) khi các bên không đạt được sự thỏa thuận hoặc có thoả thuận nhưng vi phạm nội dung cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm có nhiều điểm giống nhau, nên người ta thường gọi phạt vi phạm là bồi thường thiệt hại được tính trước. Song cũng có điểm khác nhau giữa hai chế tài này vì bồi thường thiệt hại là dựa trên việc chứng minh tổn thất thực tế xảy ra của bên bị vi phạm chứ không phải là dự đoán của các bên. Nếu như phạt vi phạm điều kiện bắt buộc phải có sự thoả thuận trước của các bên trong hợp đồng thì bồi thường thiệt hại không bắt buộc phải có sự thoả thuận trước trong hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền đòi bồi thường thiệt hại cả khi hợp đồng có quy định phạt vi phạm (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Người ta chia bồi thường thiệt hại làm hai dạng: * Bồi thường thiệt hại có tính chất đền bù: Bên vi phạm phải đền bù lại số thiệt hại mà bên bị vi phạm đã gánh chịu. Loại bồi thường thiệt hại này được áp dụng khi thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng như giao hàng kém phẩm chất, giao sai địa điểm... Trong tình hình cạnh tranh gay gắt hiện nay, người ta càng đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, thoả mãn tốt hơn nhu cầu biến động của con người – xã hội, sản xuất và thị trường. Do vậy, yếu tố phẩm chất hàng hoá, chất lượng công việc được chú ý nhiều trong các hợp đồng thương mại. Chính vì vậy mà vi phạm về chất lượng, phẩm chất cũng bị xử lý nặng hơn. *Bồi thường thiệt hại không có tính chất đền bù (bồi thường thiệt hại tính theo thời gian): Bên vi phạm hợp đồng bồi thường tiền tỷ lệ với thời gian vi phạm hợp đồng, loại bồi thường này được áp dụng trong các trường hợp chậm thực hiện các nghĩa vụ, chậm trả tiền. Khi ký kết hợp đồng, nếu người mua nhằm vào hàng hoá thì ngược lại người bán nhằm thu được tiền về. Vì trong kinh doanh, tốc độ luân chuyển của đồng vốn càng thu hồi nhanh thì tỷ lệ lợi nhuận càng cao, nên cũng dễ hiểu khi người bán mong muốn thu hồi thật nhanh tiền hàng của mình để tiếp tục sử dụng vào việc khác, còn người mua lại mong muốn việc trả tiền càng chậm càng tốt. Tuy nhiên, khi đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng thì thời hạn thanh toán trở nên bắt buộc đối với người mua. Người bán phải tuân thủ thời gian giao hàng, vì người bán có tiến hành giao hàng thì người mua mới tiến hành thanh toán hoặc hai bên cùng thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc. Đó là đặc điểm của hợp đồng song vụ. Việc chậm trả tiền của người mua dưới hình thức nào cũng là vi phạm hợp đồng và làm tổn hại đến quyền lợi của người bán, do vậy họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hịa phát sinh. Thông thường người bán đòi bồi thường thiệt hại và ngừng thực hiện nghĩa vụ của mình. Người bán không nhận được tiền đúng kỳ hạn sẽ phải chịu nhiều thiệt hại: nợ vay tín dụng, phải giữ hàng lại và chịu những chi phí bảo quản lưu giữ. Vì vậy, người mua phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó. Muốn được bồi thường thiệt hại thì bên bị vi phạm phải chứng minh được phía bên kia đã vi phạm hợp đồng, sự vi phạm hợp đồng đó đã trực tiếp gây thiệt hại cho mình và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra. 2.4. TẠM NGỪNG, ĐÌNH CHỈ VÀ HUỶ BỎ HỢP ĐỒNG 2.4.1. Khái niệm Chế tài tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng thể hiện sự tự vệ và thái độ phản ứng trực tiếp của bên bị vi phạm đối với bên vi vi phạm hợp đồng. - Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng thương mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. - Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng thương mại bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. - Huỷ bỏ hợp đồng là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho nội dung hợp đồng bị huỷ bỏ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Huỷ bỏ hợp đồng có thể là huỷ bỏ một phần hợp đồng hoặc huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng. Huỷ bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Huỷ bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ của hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng trong thương mại bị huỷ bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Các bên không không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thoả thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên thoả thuận tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng thì không được coi là chế tài trong thương mại, chỉ được coi là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại khi một bên vi phạm và một bên tuyên bố đơn phương tạm ngừng, đình chỉ, hoặc huỷ bỏ hợp đồng. 2.4.2. Điểm gống nhau giữa các hình thức chế tài tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng Các hình thức chế tài: tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng được áp dụng không giống nhau song chúng cũng có những nét tương đồng cơ bản, thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, về căn cứ áp dụng: Trừ các trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng như đã nêu trên, các chế tài tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng được áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ, huỷ bỏ hợp đồng. - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Các căn cứ này cũng phù hợp với quy định của Điều 293, Luật Thương mại (2005). Điều 293, Luật Thương mại (2005) quy định, trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản. Thứ hai, trong lĩnh vực thương mại, việc tạm ngừng, đình chỉ và huỷ bỏ hợp đồng có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các bên, đặc biệt là bên vi phạm hợp đồng. Vì vậy, bên bị vi phạm không đương nhiên có quyền đơn phương tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ khi pháp luật có quy định khác. Ví dụ: bên mua hàng có quyền ngừng thanh toán tiền hàng trong các trường hợp: - Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa đối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; - Bên mua có bằng chứng về việc có hàng hoá đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền yêu cầu tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; - Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó; Điều 51, Luật Thương mại (2005) Bên bị vi phạm chỉ có quyền đơn phương tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng, nếu trong hợp đồng đã có thoả thuận vi phạm của bên kia là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Mặt khác, để đảm bảo quyền lợi của bên vi phạm hợp đồng, Luật Thương mại (2005) còn quy định hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng của một bên cũng là căn cứ để bên kia có quyền tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng khoản 13, Điều 3, Luật Thương mại (2005) . 2.4.3.Về nội dung áp dụng và hậu quả pháp lý của chế tài *Đối với chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Chế tài sẽ được áp dụng thông qua việc bên bị vi phạm tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực pháp lý. Bên bị vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài bồi thường thiệt hại. *Đối với chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng: Bên bị vi phạm áp dụng chế tài bằng việc chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm đồng thời có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. *Đối với chế tài huỷ bỏ hợp đồng: Một bên có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng khi xẩy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Kể từ thời điểm đó, các bên chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo hợp đồng và trở về trạng thái ban đầu như trước khi ký hợp đồng. Đồng thời bên vi phạm nếu gây ra thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Huỷ hợp đồng phát sinh những hậu quả pháp lý sau: - Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thoả thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. - Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. - Bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, Điều 313, Luật Thương mại (2005) còn quy định: “1. Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại.doc
Tài liệu liên quan