Khóa luận Các tiếng chứa âm đệm trong tiếng Việt - Nguồn gốc và hướng giải quyết

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu 2

4. Bố cục đề tài 2

NỘI DUNG 3

I. THỐNG KÊ VÀ XỬ LÝ TƯ LIỆU 3

1.Tổng số tiếng 3

2. Phân loại tiếng 4

3. Phân loại theo phạm vi sử dụng 5

4. Nhận xét 5

II. CÁC QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ VỊ TRÍ ÂM ĐỆM TRONG CẤU TRÚC ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT. NGUỒN GỐC CỦA ÂM ĐỆM 7

1. Những quan niệm khác nhau về vị trí âm đệm trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt 7

1.1. Quan điểm cho rằng âm đệm là một đơn vị chiết đoạn 8

1.2. Quan điểm cho rằng âm đệm là một đơn vị siêu đoạn 9

1.3. Tiểu kết 10

2. Nguồn gốc của âm đệm 12

III. KIẾN GIẢI VỀ KHẢ NĂNG TỒN TẠI CỦA ÂM ĐỆM TRONG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI 20

1. Cơ sở cho kiến giải 20

1.1. Hiện trạng âm đệm của 3 vùng phương ngữ tiếng Việt 20

1.2. Ảnh hưởng của âm đệm đến sự tồn tại song song nhiều cách viết tương tự trong hiện trạng chính tả tiếng Việt 25

đuểnh đoảng------------đểnh đoảng 27

1.3. Khó khăn trong việc dạy phát âm ở bậc tiểu học 28

1.4. Tính không quan yếu của âm đệm trong việc gieo vần ở thơ lục bát và sự hoà phối ngữ âm trong từ láy tiếng Việt 31

1.5. Âm đệm và xu hướng tiết kiệm, đơn giản, tự nhiên về cấu trúc âm tiết tiếng Việt 35

2. Kiến giải về khả năng tồn tại của âm đệm trong tiếng Việt hiện đại 36

KẾT LUẬN 39

PHỤ LỤC 40

NHỮNG TIẾNG CHỨA ÂM ĐỆM TRONG TIẾNG VIỆT 40

Phiên âm 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

 

 

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3487 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các tiếng chứa âm đệm trong tiếng Việt - Nguồn gốc và hướng giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o lưu bằng ấn phẩm quá ít ỏi trong một thời gian dài. Và kết quả đưa tới của lối sản xuất nhỏ, tự túc, tự cấp, khép kín trong làng xã là tình trạng giao thông không thực hiện được. - Việc chia cắt đất nước gây nên bởi sự cát cứ trong hai họ phong kiến phản động Trịnh - Nguyễn và tiếp theo là sự đa tạp hóa của thành phần cư dân ở Đàng Trong. - Tâm lý bảo thủ, ngại thay đổi phát âm và không muốn người trong nhà, trong họ hàng, trong làng mạc mình thay đổi phát âm dù rằng thay đổi theo cách phát âm của thủ đô hoặc của thành thị nói chung. Từ những nguyên nhân này khiến cho việc giao lưu về văn hóa nói chung và ngôn ngữ nói riêng giữa các địa phương còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về ngôn ngữ. Điều này đã dẫn đến tình trạng khác nhau giữa các vùng phương ngữ về mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Trong tiểu luận này, chúng tôi chỉ xét mặt ngữ âm mà cụ thể là xét yếu tố được các tác giả coi là âm đệm ở các vùng phương ngữ khác nhau. Việc chia TIếng Việt ra thành các vùng phương ngữ khác nhau cũng có những quan điểm khác nhau, dựa trên những phương diện, những điểm nhìn khác nhau giữa các tác giả. Theo tác giả Hoàng Thị Châu [5] thì Tiếng Việt được chia làm 3 vùng phương ngữ là: Phương ngữ Bắc (PNB) Phương ngữ Trung (PNT) Phương ngữ Nam (PNN) Sự phân chia thành 3 vùng phương ngữ này dựa trên cơ sở khác nhau cả về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp giữa các vùng. Nhưng ở đây chúng tôi chỉ xem xét đặc điểm sử dụng âm đệm trong cấu trúc âm tiết. Nếu theo quan điểm của Hoàng Thị Châu, trong PNB và PNT âm đệm [w] có thể kết hợp với hầu hết các phụ âm đầu, trừ một số phụ âm môi. (Cách phiên âm của các tác giả này, chúng tôi giữ nguyên) Ví dụ : hoa xuân [hwa swân] lòe loẹt [lwe: lwe:t] đoàn [đwan] khuya khoắt [xwie xwăt] Ngoài ra, trong các phương ngữ trên còn có thể bắt gặp [-w-] trong các âm tiết vắng phụ âm đầu. Ví dụ : oan, uyển, uỳnh uỵch...những từ mà thường bắt đầu bằng những âm tắc họng.Trường hợp này càng nêu bật được tính chất độc lập của âm đệm [w]. Nó không đóng vai trò phụ âm đầu bởi vì người ta có thể thêm vào trước nó một phụ âm. Và nó cũng không đóng vai trò là nguyên âm bởi vì sau nó phải có nguyên âm. Tình hình âm đệm của các âm tiết có ở PNN lại không giống như vậy. Trong PNN (từ đèo Hải Vân đến Cà Mau), âm đệm [-w-] tác động mạnh mẽ đến những phụ âm hầu và mạc đứng trước nó, nhưng lại triệt tiêu hoàn toàn sau những phụ âm còn lại. Điều đó có nghĩa là sau các âm tiết được mở đầu bằng các phụ âm không phải là phụ âm hầu và mạc thì không thấy sự xuất hiện của các âm đệm. Ví dụ: tuyên truyền [tiêng tiềng] xuân xanh [sưng săn] lý luận [lí :lựng] nhuần nhuyễn [nhừng nhiễng]... Âm đệm [w] tác động đến những phụ âm mạc và phụ âm hầu theo lối đồng hóa ngược tạo nên 2 kiểu biến đổi: - Thứ nhất, đó là kiểu đồng hóa hoàn toàn phụ âm đầu. Kết quả là dẫn tới sự biến mất hẳn của các phụ âm đầu để xuất hiện một phụ âm mới là [w]. Hiện tượng này chỉ thấy ở PNN mà không hề thấy có ở các phương ngữ khác. Gọi là đồng hóa hoàn toàn vì dù nó là phụ âm hầu hay âm mạc, vô thanh hay hữu thanh, tắc hay xát đều không để lai dấu hiệu khu biệt nào. Ngay cả trường hợp chính tả không ghi lại phụ âm đầu thì sự biến đổi đó vẫn xảy ra. Ví dụ từ “oan” trong PNB phát âm là [qwan] khác với [wan] trong cách phát âm miền Nam. Điều này chứng tỏ yếu tố tắc họng đứng đầu âm tiết là một âm vị có thực. w---------w: oan [wang] uyên [wiêng] uỳnh uỵch [ wừn wựt] hw-------w: hoa huệ [wa wuệ] huy hoàng [wi: wàng] huyêng hoang [wân wang] ngw-----w: nguyễn [wiễng] ngoài [waj] nguy [wi:] kw -----w: qua [wa] quên [wên] quần [wừng] - Thứ hai là kiểu đồng hóa bộ phận, tức là phụ âm chỉ bị môi hóa còn hnữug tính chất khác được giữ lại. Ví dụ: xw------f: khoai lang [fai lang] khuya khoắt [fia fắk]... w----v-- f: bà góa [bà já] Trong Tiếng Việt chỉ có mỗi một từ có kết hợp [Gw] là từ góa [Gw] biến thành một phụ âm mới, tuy vẫn giữ phương thức cấu âm xát hữu thanh là [v], nhưng rồi nó lại biến đổi thành một lần nữa thành [j] như tất cả các từ bắt đầu bằng [v] trong PNN. Như vậy có thể tổng kết lại rằng, trong PNB có lẽ do xu hướng dị hóa mạnh nên âm đệm [w] cũng không kết hợp với nguyên âm [ư] và [ươ]. Vần [ưu] được phát âm thành [iư] và vần [ươu] được phát âm thành [iêw]. Còn kết hợp [-wâ-] ở Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên được thay thế bằng [-wư]. Ngoài ra ở một số thổ ngữ vùng Bắc Bình Trị Thiên còn có hiện tượng âm đệm đồng hóa nguyên âm: “mùa xuân” nói thành “mùa xun”, “áo quần ” nói thành “áo cùn”. Còn ở PNN không có âm đệm [w]. Điều này khẳng định thêm vai trò của nó trong âm tiét Tiếng Việt. Việc mất âm đệm [w] đã làm cho PNN giảm mất một số kiểu âm tiết. Nếu như tác giả Hoàng Thị Châu chia Tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ khác nhau là : Phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam thì các tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu [16] lại chia Tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ với tên gọi : Phương ngữ Bắc( PNB), phương ngữ Trung Bắc, phương ngữ Trung Nam và phương ngữ Nam. Các vùng phương ngữ này có những đặc điểm khác nhau về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tuy nhiên xét về mặt ngữ âm mà cụ thể là đặc điểm sử dụng âm đệm, các tác giả có đưa ra một số điểm đáng chú ý sau: - Ở phương ngữ Trung Nam ,bên cạnh những đặc điểm về từ vựng và ngữ âm, ngữ pháp còn có một vài đặc điểm về tình hình sử dụng âm đệm: + Thứ nhất là hiện tượng những tiếng có chứa âm đệm mà ở đầu là [x] bị biến thành âm đầu [f] và không còn âm đệm như: khuya khoắt----------phia phắt khoe khoang----------phe phang chìa khóa--------------chìa phá khỏe khoắn------------phẻ phắn + Thứ hai, trong một số âm tiết mở và cả ở những loại hình âm tiết khác có hiện tượng thêm âm đệm [w] vào trước âm chính [a], tức là [a] à[wa]: bà ta------------bòa ta cá ---------------kóa chán nản--------choáng noảng bát ngát---------boác ngoác + Thứ ba, trong một số âm tiết có kết thúc bằng âm cuối[ j] mà trước nó là âm chính [a] hoặc [o] có hiện tượng có hiện tượng thêm âm đệm [ w] và các âm chính [a] và [ o] thành [e], tức là: [aj] --> [we] cái tai -------- kóe toe trai gái -----------troe góe trái xoài ---------tróe xòe [Ɔ] -->[we] coi bói ------ koe loe chói lọi-------chóe lóe ở PNN, cũng có một số đặc điểm về tình hình âm đệm đáng chú ý: + ở vị trí đầu âm tiết, các âm cuối lưỡi [k, n] và âm họng [ ʔ, h] khi đứng trước âm đệm [w] đều biến thành [ɣ] qua quýt--------goa guyc hòa bình--------gòa bìn huy hoàng------guy goàng ngoay ngoay---goay goay oán thán---------goáng tháng + Bên cạnh đó trong phương ngữ này cũng xuất hiện hiện tượng rụng âm đệm [w] thuyền--------- thiềng thuế-------------thế đời thủo--------đời thở xoáy------------ xáy lòe loẹt----------lè lẹt Nói tóm lại, nếu xét về phương diện đặc điểm tình hình sử dụng âm đệm ở các vùng phương ngữ còn nhiều điều cần lưu ý. Mỗi phương ngữ lại có những đặc điểm riêng về cách sử dụng âm đệm. Do đó, nếu ta chung ta thống nhất được vấn đề có hoặc không có âm đệm ở các vùng phương thì về một mặt nào đó chúng ta đã góp phần vào việc đưa các phương ngữ xích lại gần nhau hơn. Hay nói cách khác là giúp cho việc thống nhất các vùng phương ngữ của Tiếng Việt. 1.2. Ảnh hưởng của âm đệm đến sự tồn tại song song nhiều cách viết tương tự trong hiện trạng chính tả tiếng Việt Tình hình sử dụng âm đệm ở các vùng phương ngữ trong Tiếng Việt đã phần nào cho chúng ta thấy được sự thiếu thống nhất về cả mặt chữ viết lẫn phát âm các tiếng có chứa âm đệm các vùng phương ngữ. Một phần nào đó điều này đã thể hiện hiện trạng thiếu thống nhất về mặt chính tả nói chung và chính tả của các tiếng chứa âm đệm nói riêng. Hiện nay, chúng tôi thấy có sự tồn tại song song 2 cách viết của một số lượng không nhỏ các tiếng có chứa âm đệm. Hiện tượng này không phải là mới bắt đầu gần đây mà từ những năm trước đã có hiện tượng này rồi. Theo các tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Trọng Báu “hiện tượng rụng âm đệm [w] còn đang tiếp diễn ở cả hình thái nói cũng như ở hình thái viết”[16,tr 49]. Và họ đưa ra một loạt các tiếng có hiện tượng rụng âm đệm : khoeo------------kheo khuỷu------------khỉu khuỵu------------khịu luẩn quẩn -------lẩn quẩn loăng quăng-----lăng quăng ngoảnh -----------ngảnh ngoẹo-------------nghẹo ngoao-------------ngáo nhụy --------------nhị nhuyễn -----------nhiễn quào---------------cào quắp ---------------cắp quàu quạu---------cau cạu Như vậy, xét về mặt thời gian hiện tượng rụgn âm đệm này không phải là mới mà nó đã diễn ra từ rất lâu. Nhưng trên thực tế, các tiếng chứa âm đệm mà bị rụng mất âm đệm không phải hoàn toàn đã biến mất. Chúng ta có thể tìm thấy trên các văn bản khác nhau sự tồn tại của 2 tiếng (chứa âm đệm và không chứa âm đệm) . Nói cách khác cả 2 cách viết này cùng tồn tại đồng thời với nhau. Điều này thể hiện tình không nhất quán về mặt chính tả. Hiện nay, hiện tượng rụng âm đệm vẫn đang tiếp tục diễn ra. Chẳng hạn như tồn tại song song các từ sau: chuệch choạc----------chệch choạc chuệch choạng---------chệch chạng chuếnh choáng---------chếnh choáng choạng vạng------------chạng vạng bầu đoàn----------------bầu đàn thỏa thuê----------------thỏa thê đuểnh đoảng------------đểnh đoảng phá hoại------------------phá hại sáng loáng---------------sáng láng chua loét-----------------chua lét hoạnh họe----------------hạnh họe loay hoay-----------------lay hoay loanh quanh--------------lanh quanh ngoắt ngoeo---------------ngoắt nghéo ngoắc ngoải---------------ngắc ngoải xúy xóa--------------------xí xóa xuề xòa--------------------xề xòa xuệch xoạc----------------xệch xạc Hiện tượng rụng âm đệm này là một hiện tượng rất phổ biến trong lớp từ vựng hiện nay. Cái bất cập là sự tồn tại cả 2 cách viết chính tả như vậy. Nhưng ngoài hiện tượng rụng âm đệm theo các tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu, trong Tiếng Việt còn “có hiện tượng thêm âm đệm vào lời nói do quy luật đồng hóa chi phối”[16, tr 49]. Ví dụ: đàng hoàng à đoàng hoàng Tuy nhiên hiện tượng thêm âm đệm không nhiều, chúng ta rất ít gặp. Bởi vì theo các tác giả này “hiện tượng rụng âm đệm thì được coi là vẫn phù hợp với chuẩn mực phat âm, còn hiện tượng thêm âm đệm ấy vào thì không được coi là chuẩn mực”[16, tr50]. Điều này có nghĩa là hiện tượng rụng âm đệm là một hiện tượng bình thường nhưng hiện tượng thêm âm đệm lại là một hiện tượng bất bình thường của ngôn ngữ. Đây là một điều hiển nhiên và dễ thấy. Các tiếng rụng âm đệm nếu xét về chính tả, nhờ không có âm đệm nên giảm đi một số lượng các vần đáng kể. Còn xét về mặt phát âm, các tiếng này phát âm dễ dàng hơn nhiều so với các tiếng có chứa âm đệm. Sự biến đổi này đi theo hướng: từ phức tạp đến đơn giản. Ngược lại với hiện tượng này, hiện tượng thêm âm đệm là một sự biến đổi nghịch hướng: Từ đơn giản đến phức tạp. Đây là một sự đi ngược đối với quy luật tự nhiên nói chung và quy luật ngôn ngữ nói riêng. Qua sự phân tích trên đây có thể thấy được rằng: Vấn đề chính tả hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Đặc biệt là sự tồn tại song song của 2 cách viết của cùng một từ. Điều này sẽ dẫn đến tính không nhất quán giữa các văn bản. Một vấn đề được đặt ra cho những nhà nghiên cứu nói chung và cho những nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói riêng là phải làm thế nào cho Tiếng Việt có một hệ thống chính tả chuẩn. Mà trước hết xét trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu cần phải thống nhất được với nhau cách viết nào đúng và cách viết nào sai. Có nghĩa là cách viết có âm đệm là chuẩn hay cách viết không có âm đệm là chuẩn. Vấn đề này hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Mặc dù hiện tượng rụng âm đệm và cuộc tranh luận về 2 cách viết này đã diễn ra từ lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa thống nhất được. 1.3. Khó khăn trong việc dạy phát âm ở bậc tiểu học Xét về phương diện chính tả, còn nhiều các kiến giải khác nhau về vấn đề có hay không có âm đệm. Hoặc nói chính xác hơn là việc giữ ngưyên hoặc bỏ đi âm đệm xét trên bề mặt chữ viết. Về phương diện ngữ âm, một thực tế được đặt ra là việc dạy phát âm các tiếng chứa yếu tố được gọi âm đệm cho học sinh tiểu học đang gặp nhiều khó khăn và bất cập. Căn cứ trên tư liệu mà chúng tôi thu thập được về các tiếng chứa âm đệm trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học năm 2002, chúng tôi thấy : Có rất nhiều tiếng nếu trong trường hợp dạy phát âm cụ thể, chúng ta cũng rất khó đánh vần, nói gì đến việc dạy cho các cháu học sinh tiểu học. Chẳng hạn như một số từ sau: chuếnh, chuệnh duềnh, doành hoắc, hoặc, hoắm, huếch, huênh... khoăm, khoằm, khoặm, khuếch, khuơ, khuýp... loắt, lúych, luýnh... ngoai, ngoay, ngoắc, ngoăn, ngoao, ngoap, ngoeo... quặm, quạu, quẹo, quơ, quỷnh, quỵp, quýu... tuếch, tuềnh, tuýp... Việc học đã khó, dạy cho học sinh tiểu học càng khó hơn. Ngay bản thân người giáo viên nếu không có kiến thức về ngôn ngữ học nói chung và ngữ âm nói riêng, cũng rất khó phát âm các tiếng nêu trên. Nhưng ngay cả khi người giáo viên biết cách phát âm cũng rất khó mà truyền đạt được lại cho những học sinh (người không có chút ít kiến thức ngôn ngữ học nào) mà đặc biệt là hoc sinh tiểu học. Người giáo viên không thể giảng giải cho hoc sinh rằng những chữ cái [o] trong “hoắc, hoắm, ngoao, ngoap” hay [u] trong “chuếnh, chuệnh, quặm,...”là những chữ biểu thị yếu tố trong ngôn ngữ học được gọi là “âm đệm”. Với vốn hiểu biết ít ỏi của học sinh tiểu học, chắc chắn các em sẽ không thể nắm bắt được lời giảng của giáo viên. Do đó các giáo viên tiểu học đã gán cho “u” và “o” một chức năng tương đương vỡi chữ cái khác có trong từ và cùng với các nguyên âm khác tạo nên các vần. Đặc biệt là chữ cái “u” khi đi với “q”đã kết hợp với nó để tạo nên một âm “qu” được đọc là /kw/. Mặc dù các giáo viên tiểu học đã gán cho “o”và “u” một chức năng mới nhưng việc dạy cho học sinh phát âm những tiếng này vẫn gặp nhiều khó khăn. Thông thường các em không biểu hiện được sự tròn môi của các yếu tố “o” và “u”chẳng hạn khi phát âm các tiếng: chuếch, duềnh các em thường chỉ phát âm được: chếnh, dềnh còn yếu tố “u” biểu thị sự tròn môi (theo quan niệm của Hoàng Cao Cương, Phan Ngọc...) thì không được phát âm kèm theo. Đặc biệt là có một số từ rất khó phát âm thì các em đã phát âm lẫn sang các âm khác. Ví dụ: quạu-----------cạu quọ-------------cọ quyp------------kịp Từ những nhận xét ban đầu, chúng tôi đã tiến hành điều tra 15 học sinh ở lớp 5B trường Tiểu học Trung Văn, kết quả thu được như sau: STT Tiếng chứa âm đệm Số học sinh điều tra Phát âm Ghi chú Đúng Sai 1 Choắt 15 15 0 2 Chuệch 15 12 3 Chệch 3 Duềnh 15 15 0 4 Đoạt 15 15 0 5 Góa 15 15 0 6 Hoạnh 15 13 2 Hạnh 7 Khuỵu 15 9 6 Khịu 8 Luýnh 15 10 5 Lính 9 Ngoáo 15 8 7 ngáo 10 Ngoáp 15 11 4 Ngáp 11 Nguậy 15 15 0 12 Nhoẻn 15 15 0 13 Oăm 15 15 0 14 Quạu 15 12 3 Cạu 15 Quọ 15 9 5 Cọ Không biết đọc (1) 16 Quỵp 15 13 2 Kịp 17 Quýu 15 12 3 Kíu 18 Soát 15 15 0 19 Suỵt 15 15 0 20 Toèn 15 15 0 21 Tuýp 15 9 6 Típ 22 Truyền 15 15 0 23 Quơ 15 13 2 Cơ 24 Xúy 15 11 4 Xí 25 Xuề 15 10 5 Xề Từ bảng số liệu thu được chúng tôi thấy rằng hiện tượng học sinh phát âm không có âm đệm không phải là không có. Khi được hỏi nguyên nhân tại sao lại phát âm như vậy thì các em trả lời rằng: các em biết phát âm như vậy là sai nhưng do phát âm như vậy thì dễ hơn là phát âm những tiếng mà chúng ta gọi là tiếng có chứ yếu tố tròn môi. Hơn nữa thấy nhiều người xung quanh phát âm như vậy nên các em cũng phát âm theo. Theo chúng tôi, điều đó là không phải là không có lí. Tâm lí chung của các em là thấy người xung quanh phát âm thế nào thì bắt chước như vậy. Hơn nữa trong những tiếng đưa ra, không phải tiếng nào cũng dễ đánh vần để có thể phát âm đúng được. Thậm chí trong tiếng Việt có những tiếng có chứa âm đệm rất khó đánh vần như ngoeo, quào... Như vậy, nhìn từ thực tế dạy và học phát âm, chúng tôi thấy rằng các tiếng chứa âm đệm đã gây nhiều khó khăn cho học sinh tiểu học. Thông thường, các em phát âm những tiếng này không có yếu tố mà được các nhà nghiên cứu gọi là âm đệm. Vấn đề được đặt ra là có nên giữ lại những yếu tố âm đệm này không? 1.4. Tính không quan yếu của âm đệm trong việc gieo vần ở thơ lục bát và sự hoà phối ngữ âm trong từ láy tiếng Việt Trước hết là hiện tượng gieo vần trong thơ lục bát. Quy luật gieo vần trong thơ lục bát quy định: tiếng thứ 6 của câu sáu phải vần với tiếng thứ 6 của câu tám tiếp theo sau nó và tiếng thứ 8 của câu tám ấy lại phải vần với tiếng thứ 6 của câu sáu tiếp theo. Cứ như vậy tạo nên một sự hiệp vần liên tiếp trong cả bài thơ. Quy luật này quy định rằng những vần nằm trong những vị trí hiệp vần như vậy sẽ phải giống nhau. Nhưng trên thực tế của việc gieo vần thì không như vậy. Chúng ta sẽ thấy đặc điểm này khi khảo sát những câu thơ sau: (1) Huế mình, đẹp nhất lòng dân Mùa thu khởi nghĩa, mùa xuân dậy thành (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu) (2) Nửa đời tóc ngả màu sương Nhớ quê, anh lại tìm đường thăm quê Đường vào như tỉnh như mê Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân Đã đi muôn dặm xa gần Nay về Nam cũng bước chân bồi hồi (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu) (3) Xe bay, nghiêng gió dạt cành Đã quen lối tắt đường quanh hiểm nghèo (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu) (4) Diệt trừ phát xít dã man Việt Nam độc lập hoàn toàn tự do (Đói! Đói - Tố Hữu) (5) Giặc lùng giặc đốt xóm làng Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà (Vỡ bờ - Tố Hữu) Nhìn vào những vần được gạch chân trong các ví dụ trên, chúng ta có thể nhận thấy một số điều sau: - Các tiếng được gạch chân được coi là hiệp vần với nhau nhưng các vần của chúng lại không hoàn thoàn đồng nhất, lí do là có sự tham gia của yếu tố được gọi là âm đệm. - Người đọc cũng như người viết vẫn đương nhiên công nhận đấy là những tiếng có sự hiệp vần với nhau. Nguyên nhân có thẻ là do cả người đọc và người viết đều không đề cao sự xuất hiện của yếu tố được gọi là âm đệm này. Điều này thể hiện tính không quan yếu của yếu tố được gọi là âm đệm trong cấu trúc âm tiết nói chung hay hiện tượng gieo vần nói riêng. Bên cạnh hiện tượng gieo vần trong thơ lục bát, tính không quan yếu của âm đệm tiếng Việt còn thể hiện ở sự hòa phối ngữ âm trong từ láy. Khảo sát các tư láy có chứa âm đệm trong “Từ điển từ láy tiếng Việt” (1995) của Viện Ngôn ngữ học, chúng tôi có một số nhận xét sau: _Các tiếng chứa âm đệm trong từ láy không nhiều. _Có hiện tượng tồn tại song song hai cách viết của cùng một từ láy. Điều này có nghĩa là trong một từ láy đôI có chứa các tiếng có âm đệm, chúng tôI thấy có hiện tượng song song tồn tại hai cách viết từ này: một cáchviết có âm đệm và một cách không có âm đệm trong các tiếng đó. Cụ thể như sau: STT Cách viết có âm đệm Cách viết không có âm đệm 1 Chuếnh choáng Chếnh choáng 2 Chuệnh choạng Chệnh choạng 3 Đuểnh đoảng Đểnh đoảng 4 Ngúc ngoắc Ngúc ngắc 5 Nhuần nhụy Nhuần nhị 6 Ngoắc ngoải Ngắc ngoải 7 Choạng vạng Chạng vạng 8 Đoàng hoàng Đàng hoàng 9 Hoang toàng Hoang tàng 10 Khoác loác Khoác lác 11 Loay hoay Lay hoay 12 Luýnh quýnh Lính quýnh 13 Choảnh hoảnh Chảnh hoảnh 14 Choãnh chọe Chãnh chọe 15 Tiu nguỷu Tiu nghỉu Nhìn vào bảng trên chúng ta dễ dàng nhận thấy sự thiếu nhất quán trong cách viêt những từ láy này vì cách viết nào cũng đựoc coi là đúng. Diều này cho thấy rằng việc có hay không có âm đệm trong chúng đều không quan trọng. _Có những từ được coi là những từ láy vần nhưng phần vần của chúng không giống nhau.Trong một từ láy vần thì một tiếng có chứa âm đệm trong phần vần còn một tiếng không chứa. Dù vậy chúng vẫn được coi là những từ láy vần. Chẳng hạn như: STT Từ láy STT Từ láy 1 Bàng hoàng 11 Hoang mang 2 Bảng hoảng 12 Lăng quăng 3 Ba hoa 13 Lấn quấn 4 Bâng khuâng 14 Lơ quơ 5 Chành hoành 15 Líu quíu 6 Chàu quạu 16 Thoáng đãng 7 Chau quảu 17 Thoải mái 8 Chen hoẻn 18 Tán hoán 9 Chen ngoẻn 19 Tán loạn 10 Choáng váng 20 Tiu nguỷu Từ những cứ liệu này chúng tôi thấy rằng sự có mặt hay không của âm đệm trong cấu tạo của từ láy là điều không quan trọng, không cần thiết. Như vậy có thể thấy được rằng nó không phải là một yếu tố quan yếu trong cấu tạo từ láy noi chung và trong cấu tạo âm tiết nói riêng. 1.5. Âm đệm và xu hướng tiết kiệm, đơn giản, tự nhiên về cấu trúc âm tiết tiếng Việt Hơn nữa, các nhà Việt ngữ học từ trước đến nay luôn tranh luận với nhau về cương vị của âm đệm trong cấu trúc âm tiết của tiếng Việt. Có người cho nó là đơn vị đoạn tính, là một thành phần âm tiết như các thành phần khác như âm đầu, âm chính, âm cuối (Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Hữu Quỳnh, Mai Ngọc Chừ...). Thanh điệu Âm đầu Vần Âm đệm Âm chính Âm cuối Có người thì cho nó là một đơn vị siêu đoạn tính, tức là nó chỉ là một thuộc tính của âm tiết (Hoàng Cao Cương, Phạm Đức Dương-Phan Ngọc, Nguyễn Quang Hồng). Nhưng ngay cả tác giả Đoàn Thiện Thuật, đại diện tiêu biểu cho quan điểm coi âm đệm là một đơn vị đoạn tính, khi nói về bản chất của âm đệm cũng chỉ coi nó là một yếu tố tu chỉnh âm sắc của âm tiết mà thôi. Như vậy, nó cũng không phải là một yếu tố quan yếu cần có của âm tiết. Hơn nữa, cũng như các hiện tượng tự nhiên khác, ngôn ngữ cũng có xu hướng tiết kiệm và đơn giản về mặt cấu trúc. Âm tiết cũng là một đơn vị của ngôn ngữ. Do vậy mà nó cũng có xu hướng đơn giản hóa và tiết kiệm về mặt cấu trúc. Trong các thành phần của âm tiết thì âm đệm là thành phần ít quan yếu nhất. Do đó theo chúng tôi không nên coi âm đệm là một thành phần đoạn tính của âm tiết. Xét về lịch sử ngữ âm tiếng Việt, từ thời Việt- Mường chung trở về trước, tiếng Việt chưa có âm đệm. Nhưng vào thời Việt Mường chung, đặc biệt vào cuối thời kì này, do sự tiếp xúc với tiếng Hán cổ, tiếng Việt đã vay mượn yếu tố gọi là âm đệm này từ tiếng Hán cổ (trong tiếng Hán, âm đệm được gọi là giới âm). Như vậy, xét về mặt nguồn gốc, âm đệm là yếu tố gốc Hán và là một hiện tượng vay mượn có nguồn gốc xa xưa của tiếng Việt. Tiểu kết: Những phân tích trên đây đã cho chúng ta thấy được tính không quan yếu của yếu tố được gọi là âm đệm tiếng Việt. Sự tranh luận của các nhà Việt ngữ học về yếu tố này đã, đang và sẽ vẫn còn tiếp tục. Những phân tích trên đây sẽ là cơ sở cho chúng tôi đưa ra kiến giải sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. 2. Kiến giải về khả năng tồn tại của âm đệm trong tiếng Việt hiện đại Xuất phát từ những cơ sở đã nêu trên, chúng tôi tạm đề xuất một kiến giải về khả năng tồn tại của âm đệm trong tiếng Việt hiện đại như sau: - Âm đệm trong tiếng Việt phải được đối xử như là một yếu tố siêu đoạn, cũng như yếu tố căng/lơi hay hệ thanh vị và phân biệt với các yếu tố đoạn tính khác trong cấu trúc âm tiết như âm đầu, âm chính, âm cuối. Chúng ta cần phân biệt hai loại điệu vị tác động trực tiếp đến khuôn đoạn tính C1VC2. Nếu đIệu vị căng lơI chỉ tác động lên phần VC2 thì đIệu vị tròn môI lại tác động lên toàn âm tiết. - Âm đệm tiếng Việt là một yếu tố vay mượn cho nên nó thuộc hệ thống biên chứ không nằm trong hệ thống tâm của tiếng Việt. Qua thực tế, chúng tôI thấy thực tiễn phương ngữ Nam Bộ đã từ chối đIệu vị này từ thế kỷ XIX. Mặt khác, chúng tôi nhận thấy sự không quan yếu của âm đệm trong hệ thống âm tiết tiếng Việt thể hiện qua cách gieo vần và sự phối hợp ngữ âm trong từ láy cũng như những khó khăn mà người nói gặp phải khi phát âm chúng. Như vậy có thể giả định rằng âm đệm tiếng Việt sẽ tự tiêu biến trong tương lai. Tất nhiên, sự tiêu biến này phảI diễn ra trong một quãng thời gian rất dài và không phải sẽ biến mất mà không còn dấu vết gì. Cái mà chúng ta gọi là âm đệm hay đIệu vị tròn môi trong tiếng Việt hiện nay sẽ để lại dấu vết của mình trong các hiên tượng từ vựng học. Từ vựng tiếng Việt sẽ gia tăng một số lượng lớn các hiện tượng từ đồng âm có nguồn gốc từ các âm tiết có điệu vị tròn môi hiện nay. - Quá trình tiêu biến của âm đệm như chúng tôi đã giả định sẽ biểu hiện bằng sự biến mất của các chữ cái u, o (kí hiệu của âm đệm hiện nay trên bề mặt chính tả). Tuy nhiên, chữ viết có những quy luật biến đổi riêng. Lịch sử đã chứng minh tiếng Việt ngày nay có hệ thống văn tự rất khác hệ thống văn tự mà Alexandre Rhodes vào năm 1651 đã đề xướng. Điều đó có nghĩa là âm đệm tiếng Việt sẽ biểu hiện như thế nào, chúng tôi sẽ nghiên cứu ở một công trình khác về văn tự. Âm vị học mở rộng quan niệm: Một giải pháp âm vị học được gọi là tối ưu khi nó thoả mãn bốn điều kiện sau: - Nó phải có một cấu trúc lý thuyết giản dị (simplicity) - Các dẫn xuất của nó phải tự nhiên (naturalness) - Nó phải là một lý thuyết được hình thức hoá (formalness) - Nó phải có sức sản sinh cao (reproductivity) Giải pháp mà chúng tôi đề xuất ở đây thoả mãn những đIều kiện trên ở chố: Nó đưa đến cho tiếng Việt một khả năng tiết kiệm các âm vị theo hướng tự nhiên, trở lại với ngôn ngữ như những gì thuần chất, không lai tạp. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt sẽ được đơn giản hoá nhưng vẫn giữ nét tự nhiên vốn có của nó và đáp ứng các điều kiện quan trọng trên. KẾT LUẬN Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi rút ra được những kết luận sau: 1. Âm đệm là một yếu tố ngoại lai, có gốc Hán từ thời Việt Mường Chung. 2. Âm đệm có vai trò

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN20 (18).doc
Tài liệu liên quan