Khóa luận Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của luật việc làm ở Việt Nam

MỤC LỤC

A. LỜI NÓI ĐẦU

 

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM

1.1. Khái quát chung về việc làm

1.1.1. Khái niệm việc làm

1.1.1.1. Dưới góc độ kinh tế-xã hội học

1.1.1.2. Dưới góc độ Luật học

1.1.1.3. Việc làm trên quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)

1.1.2. Việc làm và thất nghiệp

1.1.3. Phân loại việc làm

1.1.4. Đặc điểm của việc làm

1.1.5. Mối quan hệ về việc làm với quan hệ pháp luật lao động

1.1.6. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm

1.2. Pháp luật về việc làm

1.2.1. Khái niệm pháp luật về việc làm

1.2.2. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật việc làm

1.2.2.1. Quan hệ việc làm giữa người lao động với người sử dụng lao động

1.2.2.2. Quan hệ việc làm giữa nhà nước với người lao động

1.2.2.3 Quan hệ việc làm giữa nhà nước với các trung tâm giới thiệu việc làm, các cơ sở dịch vụ việc làm với khách hàng

1.2.3. Nguyên tắc áp dụng của pháp luật việc làm

1.2.4. Vai trò của pháp luật việc làm

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM

2.1. Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm trước khi có BLLĐ năm 1994

2.1.1. Thời kỳ 1945-1954

2.1.2. Thời kỳ 1955-1985

2.1.3. Thời kỳ l986 đến trước khi có Bộ luật lao động 1994

2.2. Pháp luật về việc làm và giải quyết việc từ khi có BLLĐ năm 1994 và thực tiễn thực hiện

2.3. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm

2.3.1. Quy định của pháp luật việc làm về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước

2.3.2. Quy định về lập quỹ giải quyết việc làm

2.3.3. Quy định về các tổ chức giới thiệu việc làm và hoạt động của các tổ chức giới thiệu việc làm

2.3.4. Quy định về học nghề, dạy nghề gắn với việc làm

2.3.5. Những quy định về hợp đồng lao động

2.3.6. Những quy định về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

2.3.7. Quy định về giải quyết việc làm cho những người lao động đặc thù

2.3.8. Bảo hiểm thất nghiệp

2.4. Đánh giá chung

CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật việc làm Việt Nam

3.1.1. Xuất pháp từ thực trạng dân số và việc làm của nước ta hiện nay.

3.1.2. Xuất phát từ thực trạng của pháp luật về việc làm ở Việt Nam

3.2. Phương hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật việc làm

3.2.1. Hoàn thiện khung pháp luật về việc làm

3.2.2. Nghiên cứu xây dựng Luật việc làm

3.2.3. Hoàn thiện Bảo hiểm thất nghiệp

3.3. Một số giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả việc làm ở Việt Nam

3.3.1. Bám sát và thể chế hóa chủ trương, đường lối của đảng về việc làm, giải quyết việc làm

3.3.2. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động

3.3.3. Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm

 

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của luật việc làm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tiêu, nội dung dự án đầu tư, hiệu quả kinh tế, các điều kiện thực hiện; bổ sung và sửa đổi một số chính sách cụ thể khuyến khích các lĩnh vực, các doạnh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân tạo thêm chỗ làm việc mới, thu hút thêm lao động; mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm ở một số ngành, tổ chức xã hội và địa phương có yêu cầu lớn để dạy nghề, trước hết là cho thanh thiếu niên đến tuổi lao động. Nhà nước tạo điều kiện thông qua các cơ chế, chính sách cho vay vốn để người lao động tự giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho người lao động. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các chủ doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân, gia đình và mọi người làm giàu chính đáng, tạo việc làm và thu hút lao động. Nhận xét:pháp luật việc làm Việt Nam trong giai đoạn 1986 đến trước khi có Bộ luật lao động năm 1994 đã có sự đổi mới tương đối toàn diện, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường của đất nước. Các quy định của pháp luật về việc làm nhìn chung đã bao quát được hầu hết các vấn đề liên quan tới việc sử dụng lao động, giải quyết việc làm, hỗ trợ việc làm, thất nghiệp... Tuy nhiên nhiều quy định vẫn mang tính chất tạm thời xuất phát từ tính chất thí điểm của thời gian này. 2.2. Pháp luật về việc làm và giải quyết việc từ khi có BLLĐ năm 1994 và thực tiễn thực hiện: Ngày 23/6/1994, sau nhiều năm nghiên cứu, tiến hành xây dựng Bộ luật lao động đầu tiên của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 đã được thông qua, trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử pháp luật lao động nói chung và pháp luật về việc làm nói riêng ở Việt Nam. Đây là đạo luật về lao động có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay với quy mô tương đối đồ sộ gồm 17 chương và 198 điều, đề cập đến hầu hết các vấn đề cơ bản về lao động như: việc làm, học nghề, tiền lương, bảo hiểm xã hội,...Bộ luật lao động 1994 làm cơ sở cho các văn bản pháp lý khác về việc làm ra đời như: Nghị định 72/CP ngày 31/10/1995 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về việc làm; luật tố tụng lao động cũng pháp triển qua việc Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về thủ tục tranh chấp lao động năm 1996. Trong BLLĐ 1994, quan hệ làm công ăn lương được khuyến khích phát triển, các thành phần kinh tế bình đẳng trong lĩnh vực sử dụng lao động, quyền tự do lựa chọn việc làm trong khuân khổ pháp luật của người lao động, quyền đình công được ghi nhận, vấn đề việc làm, học nghề được quy định đồng bộ, các vấn đề về dịch vụ việc làm, quỹ bảo hiểm xã hội, trạnh chấp lao động cũng được quy định. Sau 7 năm thực hiện, những bất cập của các quy định trong Bộ luật đã bắt đầu bộc lộ, nhất là các nội dung liên quan đến vấn đề thị trường lao động, vế vấn đề giải quyết lao động dư thừa khi thực hiện chính sách đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước... Nguyên nhân dẫn đến những bất cập này là do quá trình nghiên cứu để xây dựng Bộ luật manh nha từ năm 1980, là thời gian còn nhiều những bất cập trong nền kinh tế - xã hội tập trung bao cấp, vẫn chưa thừa nhận về vấn đề thị trường lao động, những năm sau 1986, mặc dù đã có sự thay đổi trong quan niệm và phương pháp phát triển nhưng đây mới chỉ là thời kỳ thí điểm cho công cuộc đổi mới, là thời gian đầu của cơ chế thị trường. Vì vậy, nhiều quan hệ lao động mới bắt đầu hình thành, ở nhiều địa phương, những quan hệ này còn chưa rõ nét vì vậy chưa được chú trọng trong pháp luật lao động. Với những bất cập trên, để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ mới, Bộ luật lao động cần phải được sửa đổi. Ngày 19/4/2002, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động. Sau khi sửa đổi, BLLĐ đã tăng cường quyền tự quyết của các bên trong quan hệ lao động thông qua việc thỏa thuận; giảm sự bảo trợ và quản lý chặt chẽ của nhà nước; một số quy định của Bộ luật được thay thế hợp lý và chi tiết hơn... Năm 2006, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ lần thứ 2, trong đó các quy định về giải quyết tranh chấp sẽ được sửa đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường, quy định hợp lý về vấn đề đình công và giải quyết đình công. Năm 2007, Quốc hội thông qua luật sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Bộ Luật lao động của Quốc hội số 84/2007/QH11 ngày 02/4/2007 Trên cơ sở Hiến pháp 1992 và BLLĐ 1994, hàng loạt các văn bản pháp luật về vấn đề việc làm đã được ban hành: - Nghị định số 195/CP của Chính phủ ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và Nghị định số 109/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/12/2002 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 195/CP. - Nghị định số 196/CP của Chính Phủ ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về thỏa ước lao động tập thể và nghị định số 93/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 196/CP. - Nghị định số 41/CP của Chính phủ ngày 6/7/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất và Nghị định số 33/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 2/4/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 41/CP. - Nghị định số 81/CP của Chính phủ ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về lao động là người tàn tật và Nghị định số 116/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/4/2004 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/CP. - Nghị định số 23/CP của Chính phủ ngày 18/4/1996 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về những quy định riêng đối với lao động nữ và Thông tư số 03/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động thương binh xã hội ngày 13/1/1997 về việc hướng dẫn một số điều của Nghị định số 23/CP. - Nghị định số 114/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2002 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về tiền lương; Thông tư số 28/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động thương binh và xã hội ngày 05/12/2007 sửa đổi Thông tư số 13/2003/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 14/2003/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 114/2002/NĐ-CP. - Nghị định số 39/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/4/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về việc làm. - Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về hợp đồng lao động và Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH ngày 22/9/2003 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 44/2003/NĐ-CP... Hiện nay, ngoài các quy định về tiền lương, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, chế độ với người lao động đặc thù thì pháp luật việc làm hiện nay còn rất chú trọng đến các tranh chấp về việc làm và vấn đề việc làm có yếu tố nước ngoài. Điều này được thể hiện qua việc Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật về vấn đề này để phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến việc làm ở nước ta: - Nghị định số 133/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/8/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ về giải quyết tranh chấp lao động. - Thông tư số 22/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động thương binh xã hội ngày 23/10/2007 hướng dẫn về tổ chức hoạt động của Hội đồng hòa giải lao động cơ sở và hòa giải viên lao động. - Nghị đính số 12/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/1/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 176 của BLLĐ về hoãn hoặc ngừng đình công và giải quyết quyền lợi của tập thể lao động. - Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2006 - Nghị định số 126/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/8/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. - Nghị định số 98/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2009 quy định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chưc nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam. - Nghị định số 141/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/11/2005 về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Nhận xét: pháp luật việc làm hiện nay nhìn chung đã điều chỉnh được phần lớn các vấn đề về việc làm, tạo cơ sở pháp lý cho nhà nước quản lý, kiểm tra, đánh giá, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động phát huy khả năng làm việc của bản thân, là một trong những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế thị trường và hợp tác quốc tế phát triển. Tuy nhiên có thể thấy rằng, hệ thống pháp luật lao động nói chung và việc làm nói riêng còn nhiều phức tạp, có quá nhiều văn bản pháp luật do nhiều cơ quan ban hành với cấp độ hiệu lực khác nhau đã khiến cho các quy định về việc làm không tránh khỏi chồng chéo, tản mạn, cồng kềnh. Tất cả những điều này làm cho trong nhiều trường hợp, pháp luật về việc làm trở nên kém khả thi và gặp nhiều bất cập. 2.3. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm: Sau khi BLLĐ 1994 ra đời, thông qua các lần sửa đổi, bổ sung, cùng với các văn bản pháp lý khác, pháp luật về việc làm đã phát huy tính khả thi, tạo ra cơ chế chính sách thông thoáng, hành lang pháp luật an toàn là cơ sở để người lao động tự do làm việc, đầu tư phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. 2.3.1. Quy định của pháp luật việc làm về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước: Điều 55 Hiến pháp quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Điều 13 BLLĐ quy định: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội”. Nhà nước có trách nhiệm trong việc xác định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong các kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm và năm năm, Điều 14 BLLĐ quy định: “1- Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho người lao động. 2- Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số. 3- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm cho người lao động.” Điều 15 BLLĐ quy định: “1- Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm. 2- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. 3- Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải quyết việc làm.” Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo việc làm ổn định, bền vững thông qua hoạch định, xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với chính sách việc làm và lao động. Chính phủ có trách nhiệm lập chương trình quốc gia về việc làm trình Quốc hội quyết định; UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập chương trình giải quyết việc làm ở địa phương trình HĐND cùng cấp quyết định( Nghị định số 39/2003/NĐ-CP của Chính phủ). Mục tiêu của các trương trình định ra là tạo chỗ làm việc mới hàng năm, đưa ra chỉ tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nâng tỉ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Chương trình việc làm được thực hiện theo hai hướng: tạo việc làm mới thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm; duy trì và bảo đảm việc làm cho người lao động, chống sa thải nhân công hàng loạt, từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp. 2.3.2. Quy định về lập quỹ giải quyết việc làm: Quỹ giải quyết việc làm ở Việt Nam gồm có quỹ quốc gia về việc làm, quỹ địa phương về việc làm, quỹ việc làm cho người tàn tật. Quỹ việc làm là một trong các loại quỹ xã hội được dùng để tạo thêm chỗ làm việc mới hoặc tạo đủ việc làm, tăng thu nhập cho người lao động với lãi suất đầu tư thấp, bội số việc làm cao và đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Quỹ việc làm mang tính chất trợ giúp ban đầu cho người lao động có việc làm trong các thành phần kinh tế. Quỹ là nguồn vật chất đảm bảo mục tiêu tạo việc làm cho người lao động, Điều 15 BLLĐ quy định: “1- Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm. 2- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. 3- Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải quyết việc làm.” Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày 05/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm và Quyết định số 15/2008/QĐ-TTg ngày 23/1/2008 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày 05/4/2005 (sau đây gọi chung là Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg đã sửa đổi, bổ sung) quy định quỹ việc làm được sử dụng nhằm những mục đích sau: hỗ trợ các tổ chức dịch vụ việc làm; hỗ trợ các đơn vị gặp khó khăn tạm thời để tránh cho người lao động không bị mất việc làm; hỗ trợ các đơn vị nhận người lao động đang bị mất việc làm theo đề nghị của cơ quan Lao động thương binh xã hội địa phương; cho vay với lãi suất thấp để hỗ trợ giải quyết việc làm cho một số đối tượng thuộc diện chính sách xã hội do Bộ lao động thương binh xã hội quy định; hỗ trợ quỹ việc làm cho người tàn tật. Hàng năm, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và nguồn quỹ quốc gia về việc là. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải trình Hội đồng nhân dân cùng cấp chương trình và quỹ địa phương về giải quyết việc làm trong phạm vi địa phương mình. Quỹ địa việc làm địa phương được hình thành từ các nguồn ngân sách địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định, các nguồn hỗ trợ của các câ nhân tổ chức trong và ngoài nước và các nguồn hỗ trợ khác (Thông tư của Bộ tài chính số 73/2008/TT-BTC ngày 01/8/2008 hướng dẫn, quản lý, sử dụng quỹ giải quyết việc làm địa phương và kinh phí quỹ quốc gia về việc làm). Ngoài quỹ quốc gia và quỹ địa phương về giải quyết việc làm còn có quỹ việc làm cho người tàn tật. Quỹ này được hình thành từ các nguồn ngân sách địa phương, quỹ quốc gia về việc làm, khoản thu từ các doanh nghiệp hàng tháng do không nhận đủ số lao động tàn tật theo quy định. 2.3.3. Quy định về các tổ chức giới thiệu việc làm và hoạt động của các tổ chức giới thiệu việc làm: Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì thị trường lao động cũng ngày càng mở rộng hơn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường thì các tổ chức dịch vụ về việc làm đã phát triển rộng khắp, đặc biệt là các trung tâm kinh tế lớn, các thành phố lớn. Nhà nước đã có những quy định riêng biệt để điều chỉnh loại hình dịch vụ này: Điều 18 BLLĐ quy định: “1- Tổ chức dịch vụ việc có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung ứng thông tin về thị trường lao động và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm. 2- Tổ chức giới thiệu việc làm được thu phí, được nhà nước xét miễn giảm thuế và được tổ chức dạy nghề theo các quy định tại Chương III Bộ luật này. 3- Bộ lao động Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức giới thiệu việc làm.” Theo quy định của BLLĐ và Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 thì tổ chức giới thiệu việc làm bao gồm trung tâm giới thiệu việc làm và doanh nghiệp hoạt động giới thiệu việc làm. Tổ chức giới thiệu việc làm là những tổ chức kinh tế - đào tạo vừa có quyền đào tạo nghề vừa có tính chất cung ứng lao động cho các cơ sở sản xuất có nhu cầu lao động. Điều 7 Nghị đinh số 19/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/2/2005 về điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm quy định về nhiệm vụ của trung tâm giới thiệu việc làm như sau: “1- Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách có liên quan đến quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động. 2- Giới thiệu việc làm cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động. 3- Thu thập, phân tích và cung ứng thông tin về thị trường lao độn, bao gồm: nhu cầu tuyển lao động, nhu cầu cần việc làm, tiêu chuẩn lao động, tiền lương, tiên công trên địa bàn hoạt động của vùng và cả nước. 4- Được tổ chức dạy nghề theo quy định của pháp luật.” Việc thành lập các tổ chức giới thiệu việc làm được coi là một trong những biện pháp nhằm hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho quan hệ lao động có thể được xác lập, là "kênh trung gian" góp phần phân phối lại nguồn lao động trong các khu vực, các ngành nghề. 2.3.4. Quy định về học nghề, dạy nghề gắn với việc làm: Học nghề là một chế định được pháp luật về việc làm rất chú trọng, được hình thành và phát triển rất sớm. Giai đoạn từ 1945 đến 1994, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật về đào tạo nghề như: Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 13/TTg ngày 6/1/1958 về việc bổ túc nghề nghiệp cho công nhân và đạo tạo thợ mới; Thông tư của Bộ lao động số 29/LĐ-TT ngày 20/11/1958 quy định tạm thời về chế độ học nghề; Pháp lệnh về hợp đồng lao động năm 1990 và các văn bản hướng dẫn thi hành; quy định trách nhiệm của tổ chức Công đoàn với vấn đề học nghề của người lao động trong Luật Công đoàn 1990... Trong giai đoạn hiện nay chế định học nghề càng được xác định đầy đủ và hoàn thiện hơn. Vấn đề học nghề được quy định từ Điều 20 đến Điều 25 BLLĐ và ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật dạy nghề năm 2006; Nghị định số 139/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật giáo dục và luật dạy nghề.... Học nghề bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa học nghề và dạy nghề, tuổi nghề, hợp đồng dạy nghề...Điều 20 BLLĐ quy định: "1- Mọi người có quyền tự do lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình. 2- Doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được mở cơ sở dạy nghề. Chính phủ ban hành quy định về việc mở các cơ sở dạy nghề." Điều 21 BLLĐ quy định: "1- Cơ sở dạy nghề phải đăng ký, hoạt động theo quy định về dạy nghề, được thu học phí và phải nộp thuế theo quy định của pháp luật. 2- Cơ sở dạy nghề cho thương binh, bệnh binh, người tàn tật, người dân tộc thiểu số hoặc ở những nơi có nhiều người thiếu việc làm, mất việc làm, các cơ sở dạy nghề truyền thống, kèm cặp tại xưởng, tại nhà được xét giảm, miễn thuế" Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kĩ thuật sản xuất, dịch vụ, có năng lực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, có lương tâm nghề nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm, hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong cơ chế thị trường. 2.3.5. Những quy định về hợp đồng lao động: Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động, Nhà nước khuyến khích người lao động và người sử dụng lao động nên kí kết hợp đồng lao động bằng văn bản và trong một số trường hợp phải bằng văn bản. Bởi lẽ, hợp đồng lao động là hình thức pháp lý, là cơ sở pháp lý để xác lập, duy trì quan hệ một cách thuận lợi và an toàn trên thị trường lao động. Điều 26 BLLĐ quy định: "Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động". Vấn đề hợp đồng lao động được quy định tại chương IV BLLĐ từ Điều 26 đến Điều 43 với nhiều nội dung khác nhau về: hình thức hợp đồng, nội dung hợp đồng, hiệu lực hợp đồng, sự thay đổi, chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng lao động là cơ sở để người lao động có việc làm, là bước đầu tiên để người lao động có việc làm và thể hiện ý trí của cả hai bên trong việc tạo lập hợp đồng. Người lao động được tự do thỏa thuận ký kết hợp đồng trên nguyên tắc bình đẳng tự do, không có sự cưỡng bức, lừa dối, mọi vi phạm đều có thể bị sửa đổi, thay thế, bổ sung hoặc hủy bỏ, bồi thường. Pháp luật quy định hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên phải ký kết bằng văn bản và phải được lập thàng hai bản, mỗi bên giữ một bản (Điều 28 BLLĐ). 2.3.6. Những quy định về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài: Đưa người lao động Việt Nam đi làm viêc ở nước ngoài hay gọi là xuất khẩu lao động là là một phương pháp để giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao tay nghề, trình độ, kiến thức. Nước ta bắt đầu xuất khẩu lao động từ những năm 1980 và đến nay đã được pháp luật rất quan tâm, chú trọng, nhiều văn bản pháp lý đã được ban hành nhằm tạo ra hành lang pháp lý để đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài như: Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1995, Nghị định của Chính phủ số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999, Nghị định của Chính phủ số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003... Đặt biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã tạo điều kiện pháp lý cho người lao động có việc làm, tạo thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề, góp phần phát triển nguồn nhân lực, tăng nguồn thu cho đất nước...Điều 184 BLLĐ quy định: "Việc đưa công dân Việt Nam ra nước ngoài làm việc phải có giấy phép của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc đưa người ra nước ngoài làm việc trái pháp luật". Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các tổ chức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cũng được pháp luật quy định rất rõ tại Điều 134, 135 BLLĐ. Có thể nói, hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện theo cơ chế mở cửa thị trường có sự quản lý của Nhà nước ngày càng phù hợp với xu thế của thời đại, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia vào nhiều điễn đàn kinh tế lớn. Tuy nhiên, kết quả xuất khẩu đi lao động của nước ta còn thấp, đặc biệt thời gian gần đi do ảnh hưởng của việc khủng khoảng nền kinh tế toàn cầu đã tác động không nhỏ đến nhu cầu cần người lao động của các quốc gia. Ngoài ra, do chính sách, cơ chế điều chỉnh và quản lý xuất khẩu lao động, chất lượng đội ngũ người lao động chưa cao,.. cũng làm ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu lao động. 2.3.7. Quy định về giải quyết việc làm cho những người lao động đặc thù: Người lao động đặc thù có thể kể đến là: người lao động nữ, người lao động chưa thành niên, người lao động tàn tật, người lao động là người cao tuổi. Với từng đối tượng lao động đặc thù khác nhau, Nhà nước có những quy định về pháp luật khác nhau để họ có thể phát huy tối đa khả năng của bản thân. Thứ nhất, đối với người lao động nữ. Đây là một đối tượng lao động đặc thù rất đặc biệt bởi số lượng lao động nữ trong nền kinh tế chiếm đa số nhưng do những đặc điểm thiên bẩm của họ và do những dấu tích định kiến từ thời kỳ phong kiến vẫn còn nên bản thân họ gặp nhiều khó khăn và bất lợi trên thị trường tìm kiếm việc làm. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến đối tượng lao động này. Trong BLLĐ đã dành ra chương X để quy định về lao động nữ, Điều 109 BLLĐ quy định: "1- Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà. 2- Nhà nước có chính sách và biện pháp từng bước mở mang việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình". Như vậy, pháp luật đã tạo điều kiện để lao động nữ vừa có thể làm việc, vừa có thể đảm bảo đảm công việc gia đình. Mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ về việc làm, về hưởng thụ đều bị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở xây dựng và nội dung cơ bản của luật việc làm ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan