Khóa luận Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẨU 1

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU 2008-2009, THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN THẾ GIỚI VÀ TỔNG QUAN VỀ THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 5

1.1 Khái quát về tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu thời gian qua 5

1.1.1 Tổng quan về suy giảm kinh tế trên thế giới 2008-2009 5

1.1.2 Tác động của suy thoái tới kinh tế toàn cầu 7

1.1.2.1 Tác động tiêu cực 7

1.1.2.2 Tác động tích cực 15

1.2 Sơ lược về thị trường thủy sản thế giới trong năm 2008-2009 16

1.2.1 Kim ngạch thương mại thủy sản trên thế giới 16

1.2.2 Tình hình khai thác, nuôi trồng thủy sản 17

1.2.3 Cơ cấu sản phẩm 19

1.2.4 Giá cả trên thị trường thủy sản thế giới 22

1.3 Thực trạng phát triển ngành thủy sản Việt Nam 23

1.3.1. Tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản 23

1.3.1.1 Hệ sinh thái biển Việt Nam 23

1.3.1.2 Tiềm năng nguồn lợi thủy sản 24

1.3.1.3 Nguồn nhân lực 25

1.3.2 Thành tựu của ngành thủy sản và nguyên nhân đạt được 25

1.3.2.1 Những thành tựu 25

1.3.2.2. Những nguyên nhân đạt được các thành tựu 31

1.3.3 Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển 35

1.3.3.1. Tồn tại, hạn chế 35

1.3.3.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế 36

CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM 41

2.1 Những yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua 41

2.1.1 Những yếu tố khách quan 41

2.1.1.1 Môi trường kinh doanh quốc tế 41

2.1.1.2 Môi trường kinh tế trong nước 42

2.1.1.3 Tỉ giá hối đoái 43

2.1.1.4 Nguồn nguyên liệu trong nước 44

2.1.2 Những yếu tố chủ quan 44

2.1.2.1 Yếu tố từ ngành thủy sản: 44

2.1.2.2 Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp: 44

2.1.2.3 Các yếu tố thuộc về sản phẩm: 44

2.2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua 45

2.2.1 Nguồn hàng xuất khẩu 45

2.2.1.1 Nguồn nguyên liệu 45

2.2.1.1.1 Khai thác hải sản 45

2.2.1.1.2 Nuôi trồng thủy sản 46

2.2.1.1.3. Chế biến xuất khẩu thủy sản 47

2.2.2 Kim ngạch, khối lượng thủy sản xuất khẩu 48

2.2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 48

2.2.4 Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu 51

2.2.5 Chất lượng và giá hàng thủy sản xuất khẩu 56

2.2.5.1 Chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam 56

2.2.5.2 Giá xuất khẩu 57

2.3 Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam 58

2.3.1 Ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu thủy sản 59

2.3.2 Ảnh hưởng đến khối lượng thủy sản xuất khẩu 60

2.3.3 Ảnh hưởng đến giá hàng xuất khẩu 62

2.3.3 Chính sách bảo hộ và rào cản thương mại 65

2.3.4 Ảnh hưởng tới kết quả xuất khẩu thủy sản Việt Nam 66

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU 70

3.1 Thời cơ và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu thủy sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 70

3.1.1 Thách thức và khó khăn 70

3.1.1.1 Môi trường kinh doanh quốc tế 70

3.1.1.2 Môi trường kinh doanh trong nước 71

3.1.1.3 Thách thức và khó khăn xuất phát từ bản thân ngành thủy sản 72

3.1.2 Cơ hội 74

3.2 Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 76

3.2.1 Các giải pháp từ phía Nhà nước 76

3.2.1.1 Giải pháp về tài chính: 76

3.2.1.2 Giải pháp về chính sách tài khóa 78

3.2.1.3 Giải pháp về thị trường 79

3.2.1.4 Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước và cơ sở hạ tầng 81

3.2.2 Giải pháp từ phía ngành thủy sản 82

3.2.2.1 Đầu tư khoa học công nghệ vào nuôi trồng, chế biến thủy sản 82

3.2.2.2 Đẩy mạnh đầu tư, kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động sản xuất từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra 82

3.2.2.3 Tạo điều kiện ngành thủy sản thu hút vốn đầu tư: 83

3.2.2.4 Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành thủy sản 83

3.2.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 84

3.2.3.1 Doanh nghiệp cần nghiên cứu và định hướng lại sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với bối cảnh thị trường thế giới, từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp. 84

3.2.3.2 Giải pháp về xâm nhập và phát triển thị trường 87

3.2.3.3 Tăng cường liên kết hợp tác, mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh 90

KẾT LUẬN 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

 

 

doc98 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c động không nhỏ tới xuất khẩu của các nước vốn coi thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất. Đối với Việt Nam, nền kinh tế vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của đồng đô la Mỹ, xuất khẩu chiếm tới 70% GDP và hơn 80% hợp đồng thương mại quốc tế được thực hiện thông qua đồng tiền này thì việc mất giá của đồng đôla gây cản trở cho xuất khẩu. Các nước trong khu vực đã phá giá đồng nội tệ như Hàn Quốc đến 50%, Thái Lan là 16,1%, Philippines là 17,2%[], nhờ động thái này mà doanh nghiệp tại các quốc gia dù giảm giá xuất khẩu để cạnh tranh nhưng vẫn không lỗ vốn, vẫn duy trì được sản xuất; tuy Việt Nam cũng có điều chỉnh tỷ giá nhưng chưa theo kịp biến động của thị trường, trong năm 2008 đã điều chỉnh khoảng 5%, đến tháng 12 thêm 3% trong khi tỉ lệ lạm phát cả năm 2008 lên đến trên 20%. Chỉ trong 4 tháng, từ tháng 12/2008 đến tháng 4/2009, giá USD đã tăng 3,88%[18]. Hơn nữa, đồng Việt Nam lên giá cũng khiến chi phí doanh nghiệp thủy sản bỏ ra mua nguyên liệu trong nước tăng cao, bị lỗ khi xuất khẩu hàng sang thị trường các nước khác. Tỉ giá VND/USD giảm khiến khả năng cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản Việt Nam bị giảm rất nhiều so với hàng thủy sản các nước khác. 2.1.1.4 Nguồn nguyên liệu trong nước Nguyên liệu là yếu tố nòng cốt để tạo ra sản phẩm, không có nguyên liệu không thể có sản phẩm. Đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu, nguồn nguyên liệu vô cùng quan trọng. Nguồn nguyên liệu được duy trì ổn định, chất lượng tốt thì sản phẩm xuất khẩu sẽ có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù thủy sản đóng góp hơn 4 tỉ đô la Mỹ trong hai năm 2008, 2009 nhưng Việt Nam vẫn không chủ động được nguồn giống. Trong năm 2009, nguồn nguyên liệu phục vụ hoạt động chế biến gặp khó khăn do giá con giống cao, giá thức ăn cao trong khi giá bán đầu ra thấp nên nông dân đã thu hẹp sản xuất, thêm vào đó tình hình dịch bệnh lan tràn lại càng khiến nông dân trong cảnh hoang mang, họ đã thu hẹp sản xuất, điều này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu khan hiếm nguồn nguyên liệu. 2.1.2 Những yếu tố chủ quan 2.1.2.1 Yếu tố từ ngành thủy sản: Đó là công tác điều hành hoạt động thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng bao gồm cơ chế chính sách trong ngành, công tác quản lí hoạt động, công tác đào tạo cán bộ, lao động trong ngành thủy sản,… Hiện nay, mặc dù ngành thủy sản đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong công tác quản lí, điều hành, cơ chế chính sách còn chậm, chưa nhạy bén với sự thay đổi chính sách quốc tế, đặc biệt là khâu dự báo thị trường, cập nhập thông tin nhanh nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Thêm vào đó, nguồn nhân lực trong ngành thủy sản mặc dù không bị thiếu hụt nhưng chất lượng lao động còn thấp, ngư dân chưa được đào tạo mà chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tế đúc rút được, còn đội ngũ cán bộ ngành thủy sản vẫn còn rất ít nhân tài. 2.1.2.2 Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hầu hết hoạt động đơn lẻ, không có tính liên kết. Những doanh nghiệp này tiềm lực còn bị hạn chế ở mọi khía cạnh, như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí, điều hành, nguồn nhân lực,...So với những doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong khu vực, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam còn rất lạc hậu, kém xa về nhiều mặt. Đặc biệt trong giai đoạn suy giảm kinh tế vừa qua, các doanh nghiệp đã bộc lộ nhiều yếu kém trong hoạt động, kém nhạy bén với thị trường. 2.1.2.3 Các yếu tố thuộc về sản phẩm: Bao gồm hai khía cạnh: chất lượng sản phẩm và đặc tính sản phẩm. Sản phẩm chính là năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp vì sản phẩm là thành phẩm cuối cùng của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, sản phẩm thủy sản xuất khẩu Việt Nam đã có mặt ở thị trường khắp các châu lục, từng bước tạo dựng vị thế tại những thị trường đó. Ở nhiều thị trường lớn, các mặt hàng thủy sản Việt Nam nằm trong tốp đầu như : Tôm ở thị trường Nhật; Cá tra, basa ở thị trường EU,… Tuy nhiên giá các mặt hàng thủy sản Việt Nam vẫn thấp hơn những đối thủ từ các nước khác, một phẩn nguyên nhân do chất lượng các mặt hàng thủy sản Việt Nam được người tiêu dùng nước ngoài đánh giá thấp. Điều này làm giảm giá trị xuât khẩu thủy sản Việt Nam. 2.2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua Trong những năm qua, xuất khẩu thủy sản là một trong những ngành đóng góp quan trọng trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam luôn ở mức tăng trưởng cao, ổn định. Tuy nhiên, nếu như năm 2008 được đánh giá là một năm khá thành công đối với thủy sản xuất khẩu Việt Nam thì năm 2009 lại là năm “thăng trẩm” của nhóm mặt hàng này. Năm 2009, lần đầu tiên tăng trưởng xuât khẩu thủy sản âm sau 13 năm tăng trưởng dương liên tục; trong đó liên tiếp trong 10 tháng đầu, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng giảm hầu hết ở các thị trường, đặc biệt là những thị trường lớn. 2.2.1 Nguồn hàng xuất khẩu 2.2.1.1 Nguồn nguyên liệu Nguồn nguyên liệu được cung cấp từ hai nguồn chính là khai thác và nuôi trồng thủy sản. Do nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, lại được thiên nhiên ban tặng cho nguồn tài nguyên phong phú về thủy sản, môi trường phần lớn chưa bị ô nhiễm, nguồn cung cấp cho chế biến và thủy sản nhìn chung có chất lượng tốt, ngày càng ổn định với giá cạnh tranh so với nguyên liệu của các nước trong khu vực 2.2.1.1.1 Khai thác hải sản Khai thác hải sản giữ vai trò quan trọng trong phát triển ngành thủy sản. Khai thác hải sản bao gồm khai thác hải sản và khai thác thủy sản nội địa. Tổng sản lượng khai thác thủy sản gần như tăng liên tục trong 20 năm qua. Nếu như năm 1989 sản lượng đánh bắt mới chỉ đạt 705,5 nghìn tấn, thì đến năm 1999, sản lượng đã tăng lên 1274,5 nghìn tấn và đến năm 2009, con số này là 2136,4 nghìn tấn, gấp xấp xỉ ba lần so với năm 1989. Như vậy trong vòng 20 năm, sản lượng khai thác thủy sản Việt Nam đã có bước tiến ngoạn mục. Bảng 2.1: Sản lượng thủy sản khai thác từ 2006 đến 2009 Đơn vị: nghìn tấn 2006 2007 2008 2009 Sản lượng Cơ cấu (%) Sản lượng Cơ cấu (%) Sản lượng Cơ cấu (%) Sản lượng Cơ cấu (%) Cá 1487,5 73,39 1504,7 72,53 1554,3 72,75 1550,4 72,76 Tôm 127,8 6,3 130,4 6,28 136,2 6,37 134,7 6,32 Thủy sản khác 411,3 20.31 439,4 21,19 445,9 20,88 445,7 20,92 Tổng cộng 2026,6 100 2074,5 100 2136,4 100 2130,8 100 (Nguồn: Trung tâm tin học thống kê- Bộ NN &PTNT) Từ bảng 2.1 ta thấy, trong tổng sản lượng khai thác được thì sản lượng cá chiếm phần đa số( trên 70%), tiếp theo là sản lượng tôm( trên 5%). Từ năm 2006 đến 2008, sản lượng khai thác thủy sản liên tục tăng, tuy nhiên con số này giảm trong năm 2009. Sở dĩ điều đó là do suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến ngành thủy sản trong năm 2009, do đó sản lượng khai thác trong năm này giảm nhẹ. Mặc dù trong cơ cấu sản lượng khai thác, tỉ trọng các loài biến đổi không nhiều qua các năm, tuy nhiên có thể thấy tỉ trọng cá có xu hướng giảm trong khi tỉ trọng tôm và thủy sản khác lại tăng. Điều này chứng tỏ bằng việc hướng dẫn và phối hợp giữa chế biến xuất khẩu và khai thác hải sản cho ngư dân, họ đã biết khai thác những đối tượng xuất khẩu có giá trị , phù hợp với thị trường tiêu thụ. 2.2.1.1.2 Nuôi trồng thủy sản Sản lượng khai thác không thể tăng với tốc độ phát triển của nhu cầu tiêu dùng do khai thác thủy sản bị hạn chế bởi mức độ cạn kiệt và yêu cầu bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Vì vậy để góp phẩn giải quyết nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao cho hoạt động xuất khẩu thủy sản, bên cạnh phát triển khai thác ngoài khơi phải kết hợp nuôi trồng thủy sản. Mặc dù bị thiên tai tàn phá, dịch bệnh hoành hành nhưng diện tích mặt nước nuôi trồng vẫn nâng cao, không ngừng tăng qua các năm . Bảng 2.2: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản Đơn vị: Nghìn ha 2005 2006 2007 2008 2009 Diện tích mặn, lợ 642,3 291,6 293,5 307,4 338,8 Diện tích nước ngọt 277,8 683 711,4 711,4 713,8 Tổng 920,1 976,5 1018,8 1018,8 1052,6 ( Nguồn: Niêm giám thống kê 2009) Nhìn chung trong những năm qua, nhờ diện tích nuôi trồng thủy sản tăng, sản lượng thủy sản tăng lên đáng kể. Dưới đây là bảng số liệu về sản lượng nuôi trồng thủy sản Việt Nam qua từ năm 2005 đến 2009. Bảng 2.3: Sản lượng thủy sản nuôi trồng từ năm 2007 đến năm 2009 Đơn vị: Nghìn tấn 2007 2008 2009 Sản lượng Cơ cấu (%) Sản lượng Cơ cấu (%) Sản lượng Cơ cấu (%) Cá 1530,2 66,2 1863,3 67 1794,4 69,6 Tôm 384,5 16,6 388,3 14,6 375,6 14,6 Thủy sản khác 396,7 17,2 410,9 18,4 407,3 15,8 Tổng số 2311,4 100 2662,5 100 2577,3 100 (Nguồn:Trung tâm tin học thống kê-Bộ NN)&PTNT) Như vậy, so với khai thác thủy sản thì sản lượng nuôi trồng chiếm số lượng lớn hơn. Điều này chứng tỏ, ngày nay công tác nuôi trồng thủy sản đã được chú trọng phát triển. Từ bảng số liệu, trong cơ cấu sản lượng khai thác cá luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất so với tôm và thủy sản khác. Tuy nhiên, tôm và những thủy sản khác là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị, do đó trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng tôm và thủy sản khác để nâng cao giá trị xuất khẩu của thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.2.1.1.3. Chế biến xuất khẩu thủy sản Chế biến là khâu rất quan trọng trong chu trình sản xuất, nuôi trồng, chế biến và kinh doanh thủy sản. Hiện nước ta đã có một hệ thống các cơ sở chế biến rộng khắp đông lạnh với tổng công suất 1,457 tấn một ngày [14]. Các nhà máy này đều được nâng cấp, mở rộng sản xuất hoặc xây mới, được trang bị công nghệ hiện đại ở mức độ khu vực và trên thế giới, do đó thời gian gần đây đã chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị cao. Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang tiến dần đến đưa việc nuôi trồng, chế biến thàng một chu trình khép kín. 2.2.2 Kim ngạch, khối lượng thủy sản xuất khẩu Đối với nền kinh tế trong nước, xuất khẩu thủy sản đã và đang đóng vai trò đòn bẩy chủ yếu tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ. Ngành thủy sản của chúng ta đang chiếm vị trí xuất khẩu hàng đầu trong nền kinh tế, chỉ sau dầu thô và dệt may. Giá trị xuất khẩu thủy sản chiếm khoảng 10% trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Hiện nay, Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất trên thế giới, theo thống kê của Tổ chức Nông nghiệp và lương thực thế giới FAO, năm 2009 ,Việt Nam là nước xuất khẩu thủy sản đứng thứ 5 thế giới. Nếu năm 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam chỉ đạt 987,5 triệu USD, thì đến năm 2000, lần đầu tiên trong lịch sử xuất khẩu ngành thủy sản Việt Nam con số này đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD, đạt 1,470 tỷ USD; thì đến năm 2009 là 4,251 tỷ USD. Như vậy trong vòng 10 năm, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã tăng gần 5 lần, với mức tăng bình quân xấp xỉ 7%/năm. Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong năm 2009, lần đầu tiên sau 13 năm, xuất khẩu thủy sản Việt Nam có mức tăng trưởng âm. Bảng 2.4: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2007-2009 Đơn vị: Nghìn tấn, triệu USD 2007 2008 2009 Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị 1035 3560 1459 4521 1216 4251 (Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản số 47- Bản tin ngày15/1/2010) Từ bảng số liệu ta thấy thủy sản xuất khẩu Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ từ năm 2007 đến năm 2008, tuy nhiên sang năm 2009 khối lượng và giá trị xuất khẩu lại giảm. Tốc độ tăng trưởng của năm 2009 so với năm 2008 giảm 1,6% do chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và nguồn cung nguyên liệu trong nước cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị thiếu hụt. 2.2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu Thị trường xuất khẩu là một trong những đầu mối quan trọng dẫn tới sự gia tăng của kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Chính vì vậy, trong những thời gian qua công tác đa dạng hóa thị trường đã được chú trọng triển khai và thu được những thành tựu đáng khích lệ. Nếu thời gian đầu, thủy sản xuất khẩu Việt Nam chỉ hướng đến một số thị trường trung gian chủ yếu như Singapore, Hồng Kông thì đến năm 2005 con số này là 105 nước và khu vực; năm 2007 Việt Nam xuất sang 145 nước và vùng lãnh thổ, năm 2008 là 159 và đến năm 2009 các mặt hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt trên 120 quốc gia và khu vực trên khắp thế giới. EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ vẫn là những thị trường chính của thủy sản Việt Nam , chiếm tới hơn 70% thị phần.[] Nhìn chung trong những năm qua, về con số tuyệt đối, cả giá trị và khối lượng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang từng thị trường tăng hằng năm, song tỉ trọng thị phần của các thị trường có nhiều biến động. Nhờ các hoạt động phát triển thị trường và xúc tiến thương mại, thủy sản Việt Nam đã hình thành thế chủ động và cân đối về thị trường, không lệ thuộc vào những thị trường truyền thống như trước. Bên cạnh đó, sản phẩm thủy sản Việt Nam ngày càng giành được vị trí quan trọng trên các thị trường lớn có yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như thị trường Mỹ, EU; có khả năng điều chỉnh cơ cấu thị trường khi thị trường truyền thống có biến đổi bất lợi. Thời gian gần đây cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi theo hướng tích cực: Bảng 2.5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ năm 2005-2009 (Đơn vị: Giá trị: Triệu USD; Tỷ trọng: Phần trăm) 2005 2006 2007 2008 2009 Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) EU 614,7 21,4 745,6 22,8 978,3 26,6 1149,4 25,5 1096,3 24,1 Nhật Bản 635,4 22,1 723,1 22,2 743,5 20,2 830,6 18,4 757,9 17,8 Mỹ 605,1 21,1 635,5 19,4 679,7 18,5 754,6 16,7 713,5 16,8 Hàn Quốc 156,3 5,4 201,3 6,2 240,4 6,5 297,5 6,6 307,8 7,2 Các nước khác 858,5 30,0 967,4 29,6 1037,6 28,2 1473,5 32,8 1375,8 34,1 Tổng cộng 2870,0 100 3272,9 100 3679,5 100 4505,6 100 4251,3 100 (Nguồn: Trung tâm tin học thống kê- Bộ NN &PTNT) Từ bảng số liệu trên ta thấy qua các năm, trong số các thị trường nhập khẩu thủy sản chính của Việt Nam thì nổi lên vẫn là ba thị trường chính: EU, Nhật Bản, Mỹ. Từ năm 2005 đến năm 2008, kim ngạch và giá trị xuất khẩu thủy sản luôn tăng với mức tăng trưởng cao, ổn định, tuy nhiên con số này giảm trong năm 2009 ở hẩu hết các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam. EU- thị trường có tính đa dạng cao, với nhiều nhóm dân cư có yêu cầu khác nhau trong thói quen tiêu thụ các sản phẩm thủy sản. Thị trường này có thể tiêu thụ các loại hàng hóa cực kì đa dạng từ khắp nơi trên thế giới. EU cũng là một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới với khối lượng là 27,9 triệu tấn, tương ứng với giá trị 45,645 triệu EUR năm 2009 [15]. Mặc dù xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU thời gian đầu chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn, tuy nhiên những năm gần đây EU là luôn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với tỉ trọng chiếm trên 20% qua các năm. Các mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang EU có tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đó năm 2009 là: Cá tra, basa chiếm tới 40,1%; Mực, bạch tuộc 26,7%; tôm 16,8%; thủy sản khác 20,9% trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đó của cả nước (số liệu 2009) [16]. EU là thị trường đầy tiềm năng của thủy sản Việt Nam, tuy nhiên đây cũng là thị trường tương đối “khó tính” với hàng rào bảo hộ rất khắt khe, thêm vào đó thủy sản Việt Nam có rất nhiều đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc và nhiều nước Asean. Vì vậy, việc cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu sẽ đóng vai trò quyết định trong việc chiếm lĩnh thị trường EU. Nhật Bản- nền kinh tế phát triển nhất Châu Á. Người dân Nhật Bản có mức sống rất cao, và đặc biệt có thói quen sử dụng các loại thủy sản trong bữa ăn. Chính vì vậy trên thị trường luôn đòi hỏi nguồn cung mạnh mẽ và ổn định. Tuy nhiên các nước muốn xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản phải đáp ứng được những yêu cầu cao của hiệp hội quản lí chất lượng Nhật Bản. Theo thống kê của Nhật Bản, hàng năm Nhật Bản chi khoảng 2 tỷ yên (khoảng 20 tỷ USD) cho nhập khẩu thủy sản, chiếm khoảng 30% giá trị nhập khẩu thực phẩm nước này. Nhật Bản chiếm khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu thủy sản của thế giới, là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất thế giới. Nhật Bản là bạn hàng truyến thống và là một trong những nước nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam trong mấy thập kỉ qua. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật có tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đó trong năm 2009 là: Mực và bạch tuộc chiếm 33,1%; tôm 29,5%; hàng khô 8,2%; thủy sản khác 26,1% [16]. Tuy nhiên trong năm 2009, dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Nhật Bản là một trong những nước gánh chịu hậu quả nặng nề, điều này đã tác động đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật với khối lượng là 15,3 % và giá trị là 8,5% so với năm 2008. Nhật Bản là thị trường có nhu cầu lớn, khả năng thanh toán cao, tuy nhiên lượng hải sản nhập vào thị trường Nhật gần như đã bão hòa, cho nên điều quan trọng hơn cả là chúng ta giữ mối liên hệ với khách hàng, giữ uy tín hàng hải sản trên thị trường để duy trì và đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Mỹ- cường quốc kinh tế thế giới, đây cũng là nơi khởi nguồn cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất từ sau Đại chiến thế giới thứ hai. Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất thế giới; tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng thủy sản dùng làm thực phẩm năm 2008 đạt 28,5 tỉ USD, tăng 320,5 triệu USD so với năm 2007, mức tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người 16,0 pao năm 2008[]. Ngành thủy sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào thị trường Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ liên tục tăng qua các năm, nhất là từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết vào ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ tháng 12/2001. Trong những năm gần đây, Mỹ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba của Việt Nam sau EU và Nhật Bản. Năm 2009, xuất khẩu tôm sang Mỹ chiếm 23,6% trong tổng khối lượng xuất khẩu tôm cả nước; tỉ trọng cá tra, basa là 10%; mực, bạch tuộc là 3,3%, thủy sản khác là 12,3%. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ năm 2009 vẫn tăng 14,6% về khối lượng nhưng giá trị lại giảm 4,2% so với năm 2008. 2.2.4 Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu Trước đây, các sản phẩm thủy sản xuất khẩu đưa ra thị trường tiêu thụ chủ yếu ở dạng sơ chế, tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng còn thấp. Nhờ có nhiều cố gắng trong việc đa dạng hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu mà hiện nay cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu đã có sự chuyển dịch tương đối đáng kể. Bảng 2.7 Cơ cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2008 – 2009 Đơn vị: Khối lượng: Nghìn tấn; Giá trị: Triệu USD 2008 2009 Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị Tôm 192,3 1636,5 209,6 1675,1 Cá tra, ba sa 639,3 1436,9 607,7 1342,9 Cá ngừ 52,8 189,1 55,8 180,9 Cá khác 122,9 409,1 132,7 347,5 Mực và bạch tuộc 85,0 319,8 77,3 274,4 Hàng khô 32,7 147,1 42,9 160,3 Hải sản khác 81,1 367,1 90,1 270,2 Tổng cộng 1206,1 4505,6 1216,1 4251,3 (Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản số 122- Tháng 2/2010) Từ biểu đồ ta thấy trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tôm đông lạnh năm 2009 chiếm tỷ trọng cao nhất với mức 39,4%, tiếp đến là cá tra, basa 31.6%, những mặt hàng còn lại đều dưới 10%. Điều này cho thấy trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sản phẩm đông lạnh vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Bên cạnh đó, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như mực, bạch tuộc, hải sản khô chiếm tỉ trọng ngày càng cao. Điều này chứng tỏ chính sách của Nhà nước, Bộ Thủy sản và các cơ quan về đa dạng hóa sản phẩm đã phát huy tác dụng. Tôm- Mặc dù gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong năm 2009 với ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu song tôm vẫn là mặt hàng có giá trị cao và là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tôm luôn giữ vị trí hàng đầu, năm 2008 đạt 1636,6 triệu USD chiếm 36,3% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, năm 2009 con số này là 1675,1 triệu USD chiếm 39,4% tổng giá trị xuất khẩu []. Tôm cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu hiếm hoi đạt mức tăng trưởng dương trong năm 2009 với mức tăng trưởng 9,4% về khối lượng và 3% về giá trị so với năm 2008. Biểu đồ 2.2 Cơ cấu xuất khẩu tôm 2009 23,6% 13,8% 5,7% 6,4% 4,3% 16,8% 29,5% (Nguồn: Tạp chí Thương mại Thủy sản số 122 tháng 2/2010) Từ biểu đồ ta thấy Mỹ, Nhật Bản, EU là ba thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam trong năm 2009. Nếu như trước đây thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất là Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 2003 đạt gần 399 triệu USD, chiếm 42% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam thì hiện nay con số này đã giảm xuống còn 23,6%. Điều này cho thấy phần nào sự chuyển hướng của ngành xuất khẩu tôm Việt Nam sang các thị trường khác, đặc biệt là EU với sự gia tăng nhanh chóng tỉ trọng từ 11% năm 2005 đến 16,8% năm 2009. Nhật Bản- thị trường truyền thống của Việt Nam (nhất là đối với mặt hàng tôm) thì xuất khẩu tôm vẫn giữ được chỗ đứng trên thị trường Nhật Bản, những năm gần đây, Nhật Bản là nước nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam. Mặc dù thị trường tôm thế giới luôn là một thị trường nhạy cảm nhưng nhìn tổng thể xuất khẩu tôm Việt Nam trong nhiều năm qua vẫn giữ được một nhịp tăng trưởng ổn định. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi lẽ trong thương mại quốc tế, tính ổn định chứ không phải đột biến mới là sự đảm bảo bền vững. Cá tra, basa - Nhìn chung, từ năm 2008 trở về trước, xuất khẩu cá tra, basa luôn tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2008, giá trị xuất khẩu cá tra và cá basa đông lạnh đạt 1436,9 triệu USD, chiếm trên 70% giá trị xuất khẩu cá đông lạnh. Tuy nhiên năm 2009 dưới tác động của suy thoái kinh tế, khối lượng và giá trị xuất khẩu cá tra và cá basa đều tăng trưởng âm với mức giảm lần lượt là 5,2% và 7,6% so với năm 2008. Hình 2.1: Cơ cấu xuất khẩu cá tra, basa năm 2009 6,6% 4,6% 28,5% 4,8% 5,4% 10,0% 40,1% (Nguồn: Tạp chí Thương mại thủy sản số 122 tháng 2/2010) EU là thị trường nhập khẩu cá tra, basa lớn nhất của Việt Nam với tỉ trọng hơn 40% trong năm 2009, vượt hẳn những thị trường khác. Tuy nhiên tình trạng tập trung xuất khẩu vào một số ít thị trường lớn vẫn là một hiện tượng có tính đột xuất, chưa bền vững. Tình trạng này rất dễ gây ra biến động khó lường khi các thị trường này có sự thay đổi. Mực và bạch tuộc- Mực và bạch tuộc là mặt hàng đứng thứ ba có sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu cao. Tuy không phải là mặt hàng chủ lực nhưng xuất khẩu mặt hàng này trong thời gian qua vẫn giữ mức tăng trưởng ổn định. Hình 2.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu mực và bạch tuộc 2009 27,4% 5% 3,3% 2,4% 2,0% 26,7% 33,1% (Nguồn: Tạp chí Thương mại thủy sản số 122 tháng 2/2010) Năm 2008, khối lượng và giá trị xuất khẩu mực và bạch tuộc là 85 nghìn tấn và 319,8 triệu USD, tuy nhiên sang năm 2009, con số này đã giảm lần lượt là 10,8% và 13,8% so với năm 2008. Sở dĩ xuất khẩu giảm là do những thị trường chính của mực và bạch tuộc xuất khẩu Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc và EU với tỉ trọng lần lượt là 33,1%; 27,4%; 26,7% (năm 2009) chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế. Thủy sản khô- Nếu như trước đây thủy sản khô đứng thứ ba về xuất khẩu thì hiện nay lại xếp sau mực và bạch tuộc. Tuy nhiên, trong năm 2009, thủy sản khô là mặt hàng thủy sản tăng trưởng ấn tượng nhất mặc dù phải hứng chịu cơn bão khủng hoảng kinh tế. Hình 2.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản khô năm 2009 10,2% 4,2% 2,4% 23,3% 15,2% 8,2% 37,1% (Nguồn: Tạp chí Thương mại thủy sản số 122 tháng 2/2010) Từ biểu đồ ta thấy Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu thủy sản khô lớn nhất với tỉ trọng 37,1%, tiếp đến các nước Asean với mức 23,3%. Hiện nay thị trường nhập khẩu thủy sản khô Việt nam chủ yếu là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, đây đều là những nước Châu Á. Việt Nam cũng xuất khẩu thủy sản khô sang Mỹ và EU, tuy nhiên giá trị xuất khẩu sang các thị trường này vẫn ở mức khiêm tốn. Các doanh nghiệp chế biến sản phẩm thủy sản khô đang gặp phải khó khăn về nguyên liệu, vì vậy việc đáp ứng đủ nguyên liệu phục vụ chế biến sản phẩm thủy sản đang là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. 2.2.5 Chất lượng và giá hàng thủy sản xuất khẩu 2.2.5.1 Chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam Thủy sản là mặt hàng có giá trị dinh dưỡng cao và được ưa chuộng, song nguy cơ bị nhiễm độc hay nhiễm các vi sinh vật gây bệnh do tiêu thụ các sản phẩm thủy sản không đạt chất lượng khá dễ bởi chính các độc tố tự nhiên trong hải sản hoặc những độc tố sinh ra khi hải sản không còn tươi. Người tiêu dùng luôn lựa chọn hay nói cách khác là tự đánh giá chất lượng hàng thủy sản qua cảm quan về độ tươi, độ an toàn vệ sinh sản phẩm đã qua chế biến. Chất lượng là yếu tố quyết định hoạt động xuất khẩu thủy sản. Hiện nay, khi vấn đề an toàn thực phẩm được đặt lên hàng đầu, các nước nhập khẩu đều có những quy định rất khắt khe về chất lượng hàng thủy sản nhập khẩu, nhất là các tiêu chuẩn về tạp chất, dư lượng kháng sinh Chloramphenicol, bao gói,… Một số tiêu chuẩn này là bắt buộc đối với hàng thủy sản nhập khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU. Nhất là thị t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu.doc
Tài liệu liên quan