Khóa luận Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1

I- Khái quát chung về SME 1

1. Tiêu thức xác định SME ở một số nước trên thế giới 1

2. Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam 3

2.1 Định nghĩa SME ở Việt Nam 3

2.2 Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam 4

II- Đặc điểm của SME ở Việt Nam 5

1. Quá trình hình thành và phát triển SME ở Việt Nam 5

1.1. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995 5

1.2. Giai đoạn trong thời kỳ đổi mới 6

1.3. Trong giai đoạn hiện nay 7

2. Đặc điểm chung của các SME ở Việt Nam: 7

III- Thực trạng XNK của SME ở Việt Nam: 9

1. Khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh của SME ở Việt Nam hiện nay: 9

1.1. Về số lượng SME 9

1.2. Xét về ngành nghề kinh doanh 11

1.3. Xét về doanh thu của các SME 11

2. Thực trạng hoạt động XNK của SME ở Việt Nam hiện nay 13

2.1 Những đóng góp của SME vào kim ngạch XNK ở Việt Nam 13

2.2 Tình hình đầu tư của SME trong sản xuất kinh doanh 14

2.3. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu SME 16

3. Đánh giá hoạt động kinh doanh XNK của SME ở Việt Nam hiện nay 18

3.1. Ưu điểm 18

3.2. Các hạn chế 19

CHƯƠNG II: CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XNK CHO SME Ở VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC. 23

I- Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam và tính cấp thiết phải hỗ trợ cho SME 23

1. Vai trò của SME trong nền kinh tế quốc dân: 23

1.1 Mức độ đóng góp của SME Việt Nam trong nền kinh tế 23

1. 2 SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm 24

1. 3 SME làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn 24

1.4 SME góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK 24

1.5 Các SME dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh 25

1.6 Các SME có khả năng ứng biến nhanh nhạy 26

1.7 Các SME là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp 27

2. Tính cấp thiết phải hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam 27

II- Các chính sách hỗ trợ XNK cho SME ở Việt Nam hiện nay 29

1. Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các SME: 29

1.1 Về kim ngạch 29

1.2 Mối quan hệ giữa SME với Ngân hàng trong hoạt động hỗ trợ tín dụng. 31

1. 3 Đánh giá hoạt động tín dụng đối với SME: 32

2. Chính sách thuế trong việc hỗ trợ SME 33

2.1 Các chính sách thuế 33

2.2 Đánh giá việc thực hiện các chính sách thuế đối với SME 35

3. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ các SME 36

4. Các biện pháp hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu 38

5. Các quy chế thương mại trong việc hỗ trợ SME 40

III- Kinh nghiệm hỗ trợ xuất nhập khẩu cho SME của một số nước 43

1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan 43

1.1 Về chiến lược kinh doanh 44

1.2 Về chính sách thuế 44

1.3 Về ngoại thương 45

2. Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia. 46

2.1 Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với công nghiệp. 47

3. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc 49

3.1 Về chiến lược kinh doanh 49

3.2 Về chính sách tín dụng 49

3.3 Các chính biện pháp hỗ trợ khác 50

CHƯƠNG III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK CỦA SME Ở VIỆT NAM 52

I- Cơ hội và những thách thức của SME trong hoạt động kinh doanh XNK trong cơ chế thị trường hiện nay 52

1. Cơ hội của SME trong hoạt động kinh doanh XNK 52

2. Những thách thức mà SME Việt Nam gặp phải trong hoạt động kinh doanh XNK 54

2.1 Khó khăn về vốn hoạt động 54

2.2 Khó khăn về tìm kiếm thị trường xuất khẩu. 54

2.3 Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin 55

2.4 Sự cản trở của các quy chế thương mại 55

2.5 Các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với SME trong thời gian qua còn rất nhiều hạn chế 56

II- Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ hiệu quả hoạt động XNK cho SME ở Việt Nam 57

1. Kiến nghị đối với Nhà nước 57

1.1. Nâng cao và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước đối với SME 57

1.2. Đối sử công bằng giữa các khu vực kinh tế 61

1.3. Đổi mới hoạt động hỗ trợ tín dụng cho SME để có vốn tham gia vào XNK 61

1.4 Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME. 64

1.5 Thành lập các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh XNK: 65

2. Kiến nghị đối với các Bộ ngành 67

2.1 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với SME 67

2.2 Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu. 68

2.3 Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới. 69

2.4 Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới. 69

3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp 71

 

 

doc83 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đổi mới thì các SME đã được sự hỗ trợ về nhiều mặt của Nhà nước, của các tổ chức quốc tế, trong đó có sự hỗ trợ về vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng nếu so với nhu cầu phát triển của các SME thì sự hỗ trợ đó còn ít và chưa đem lại hiệu quả cao. Quan hệ giữa các ngân hàng thương mại với các SME thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, cá thể trong những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của SME. Các ngân hàng thương mại quốc doanh không muốn hoặc rất e ngại khi cho các SME thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vay vốn. Điều đó vừa tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng, vừa không hỗ trợ được các SME và gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của mình, các SME thường phải vay vốn chủ yếu từ thân nhân, bè bạn hoặc từ các tổ chức phi tài chính. Đôi khi các SME phải trả cho các chủ nợ phi chính thức khoản lãi suất cao hơn gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Một phần, đó là do các SME còn gặp khó khăn rất nhiều trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Mặt khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các SME. 2. Chính sách thuế trong việc hỗ trợ SME Trong hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn là một trong những vấn đề trung tâm. Một trong những đạo luật đầu tiên được ban hành và áp dụng khi chuyển sang cơ chế thị trường trong điều kiện mở cửa thương mại là luật thuế (năm 1990). Hệ thống thuế có sự cải cách cơ bản chuyển từ ba hệ thống thu sang một hệ thống thuế thống nhất cho tất cả những thành phần kinh tế, làm cho thuế trở thành một công cụ chính trong việc thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và SME nói riêng, làm công cụ khuyến khích các ngành nghề phát triển. Việc hỗ trợ các SME trong hoạt động xuất khẩu của chính sách thuế trong thời gian qua được thể hiện như sau: 2.1 Các chính sách thuế a. Chính sách thuế trong việc khuyến khích đầu tư trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 1998, đã sửa đổi theo hướng dành những ưu đãi cao cho sản xuất hàng xuất khẩu. Theo luật này, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện khuyến khích sẽ được hưởng ưu đãi về thuế xuất, thuế thu nhập doanh nghiệp (25% hoặc thấp hơn), được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu còn được hưởng thêm một trong các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: Được giảm 50% số thuế phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu của năm đầu tiên thực hiện xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu mặt hàng mới, xuất khẩu ra thị trường mới. Được giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập tăng thêm do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư có doanh thu xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Được giảm 20% thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập có được do xuất khẩu trong năm tài chính đối với trường hợp: có doanh thu xuất khẩu đạt tỷ trọng trên 50% tổng doanh thu và duy trì thị trường ổn định liên tục trong ba năm trước đó. b. Tuỳ từng trường hợp, từng ngành nghề mà trong thời gian qua Nhà nước đã hỗ trợ cho doanh nghiệp như hoàn thuế giá trị gia tăng, không thu thuế thu nhập doanh nghiệp, kéo dài thời hạn nộp thuế, miễn thuế, áp dụng mức thuế thấp nhất. Cụ thể trong trường hợp ngành dệt may, để tạo vốn đầu tư cho doanh nghiệp dệt may, Nhà nước hỗ trợ miễn giảm thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, cho vay vốn ưu đãi từ 12 đến 15 năm, ghi nợ thuế xuất nhập khẩu từ 3 đến 9 tháng; thoái thu thuế nhập khẩu nguyên liệu gia công. Đối với ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì chính sách thuế hỗ trợ thuế khấu trừ 5% đối với đầu vào nguyên liệu, không thu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp nếu xuất khẩu trên 50% sản phẩm hoặc có giá trị xuất khẩu chiếm 50% doanh thu. c. Hoàn thuế doanh thu cho doanh nghiệp sản xuất ra nguyên vật liệu, phụ liệu và bán thành phẩm cho các đơn vị khác để sản xuất ra hàng xuất khẩu. Đây là một biện pháp có tích cực nhất trong chính sách thuế hỗ trợ SME, bởi vì các SME do yếu kém về công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu, thị trường tiêu thụ, nên SME chủ yếu sản xuất phục vụ làm đầu vào cho các SME sản xuất ra hàng xuất khẩu. d. Kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (hiện nay thời hạn là 9 tháng). áp dụng thuế suất thấp nhất (0%) cho một số mặt hàng. 2.2 Đánh giá việc thực hiện các chính sách thuế đối với SME Tuy nhiên, chính sách thuế ưu đãi ở Việt Nam vẫn chủ yếu hướng vào vùng, sản phẩm và thành phần kinh tế (đặc biệt là nước ngoài và trong nước). Chính sách này không khuyến khích theo quy mô doanh nghiệp, và như vậy hoàn toàn chưa khuyến khích được SME. Thuế xuất nhập khẩu còn chiếm tỷ trọng tương đối cao đã làm cho tổng thu ngân sách lệ thuộc quá nhiều vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi thị trường thế giới biến động, nguồn thu ngân sách giảm, một mặt ảnh hưởng đến nguồn lực hỗ trợ SME đồng thời, mặt khác các cơ quan tài chính sẽ tìm cách để tăng thuế hoặc thêm các hình thức thu mới, làm cản trở các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là SME. Bên cạnh đó, theo Luật Thuế GTGT, mọi hàng hoá nhập khẩu đều phải nộp thuế GTGT trong vòng 30 ngày sau khi nhập cảng. Mặc dù, về nguyên tắc Thuế GTGT là loại thuế thu trước, song trong tình hình hiện nay, khi các doanh nghiệp, đặc biệt là các SME, đang khó khăn về vốn thì cùng một lúc phải thanh toán tiền mua hàng, thuế nhập khẩu và thuế GTGT là một trở ngại hết sức lớn cho công cuộc kinh doanh xuất nhập khẩu của các SME. Trong suốt thời gian thực hiện Luật Thuế GTGT vừa qua, một trong những khó khăn lớn nhất đối với các SME là công tác hoàn thuế. Trước hết, nhiều SME đã gặp khó khăn trong việc có được hoá đơn thuế GTGT khi nhập khẩu. Việc này đã được Bộ tài chính xử lý bằng cách khấu trừ 3% giá trị vật tư đầu vào Theo thông tư số 106/1999/TT-BTC . Tuy vậy, thời gian khấu trừ quá dài, gây khó khăn về vốn cho các SME. Một khó khăn nữa là, trong khi các doanh nghiệp khác, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu trang thiết bị thì các SME ngoài quốc doanh, vốn đã ít nhưng vẫn phải nộp thuế nhập khẩu trang thiết bị cho đổi mới công nghệ. Như vậy, chính sách thuế trong thời gian vừa qua vẫn chưa hỗ trợ các SME khuyến khích đổi mới công nghệ. Một điều dễ nhận thấy rằng trong thời gian vừa qua Chính phủ Việt Nam ưu đãi các DNNN hơn là SME ngoài quốc doanh. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để khuyến khích SME xuất khẩu thì một sự hỗ trợ về chính sách thuế là rất cần thiết. 3. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ các SME Do sự biến động chính trị của các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô (cũ), Việt Nam đã mất đi một thị trường lớn. Do vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp đã phải nỗ lực tìm kiếm các thị trường mới bằng các quan hệ ngoại giao và các chính sách kinh tế đối ngoại phù hợp. Để mở đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam đã ký rất nhiều hiệp định thương mại và hiện có quan hệ buôn bán với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nếu như trước kia thị trường xuất khẩu chủ yếu là thị trường thuộc khối Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước XHCN thì đến hết năm 2000 đã có quan hệ buôn bán với 165 quốc gia, trong đó đã có 76 nước ký hiệp định thương mại và thoả thuận về tối huệ quốc với 68 nước và vùng lãnh thổ. Đặc biệt đáng lưu ý là Hiệp định khung hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu ký ngày 17/7/1995, tham gia vào khu vực mậu do ASEAN (AFTA), bình thường hoá quan hệ buôn bán Việt Nam - Trung Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Để khuyến khích xuất khẩu, ngành thương mại phải tổ chức nhiều hội trợ triển lãm và hội thảo thương mại Việt Nam. Việt Nam phải có các đoàn cán bộ thương mại ra nhiều nước và đón các đoàn cán bộ nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Đến nay đã có khoảng 2.500 văn phòng đại diện của hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ đặt tại Việt Nam. Hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam đã đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở nước ngoài (chủ yếu là các DNNN). Sự hỗ trợ giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam trong việc phát triển thị trường đã giúp cho các SME mở rộng thị trường sản phẩm xuất khẩu của mình sang các thị trường đó. Thị trường chính của các SME là các thị trường Châu Âu, Đài Loan, Nhật Bản, thị trường Mỹ và các thị trường khác như Hồng kông, Trung quốc, Singapo.., cơ cấu thị trường xuất khẩu của các SME được thể hiện dưới sơ đồ sauTheo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW : Sơ đồ 5: cơ cấu thị trường xuất khẩu của DNV&N năm 1999. Nguồn CIEM Về kim ngạch xuất khẩu cũng tăng dần, cụ thể năm 1997 kim ngạch xuất khẩu của SME ngoài quốc doanh đạt 915 triệu USD thì đến năm 1999 tăng lên là 1.578 triệu USD tăng 72,5% trong hai năm. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường xuất khẩu trong thời gian vừa qua còn một số hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Các SME rất thiếu thông tin từ thị trường, khách hàng, công nghệ, đối thủ cạnh tranh...trên thị trường này. Một số doanh nghiệp chỉ có thông tin một cách chắp vá, không có điều kiện kiểm tra. Vì vậy các SME chịu thua thiệt về giá cả hoặc khó định hướng đầu tư. Chẳng hạn, do thiếu thông tin về thị trường, nên hầu hết các SME khi tiến hàng thương lượng về giá gia công hay xuất khẩu chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của các doanh nghiệp khác. Một ví dụ cụ thể đó là xuất khẩu cà phê, có lúc do thiếu thông tin diễn biến trên thị trường thế giới, một số doanh nghiệp đã phải bán mặt hàng cà phê của mình thấp hơn so với giá trung bình của chính mặt hàng cà phê cùng chất lượng. Tình huống tương tự cũng đã xảy ra đối với mặt hàng gạo xuất khẩu. Trong những năm vừa qua, có lúc giá gạo trên thị trường quốc tế đã tăng từ 15-20% nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lượng gạo xuất khẩu với giá thấp hơn trước đó. Cũng do thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thói quen lúc chào giá mức cao để khi khách hàng đàm phán giảm giá là vừa. Song một số khách hàng, khi nhận được giá chào hàng quá cao, họ không giao dịch tiếp vì sợ mất thời gian và chi phí giao dịch, trong khi họ đã có sẵn nhà cung cấp. Nhìn chung, trong mấy năm qua, chính sách phát triển thị trường sản phẩm hỗ trợ SME đã có tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thị trường nước ngoài, khai thông thị trường nội địa. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường sản phẩm trong thời gian qua còn một số hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Chính vì vậy, trong thời gian tới các SME mong muốn có sự hỗ trợ của nhà nước về công tác phát triển thị trường xuất nhập khẩu, đặc biệt là cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu một cách chính xác và nhanh chóng. 4. Các biện pháp hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu Để khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp chuyên trách quảng cáo của Bộ Thương mại đã tiến hành các cuộc hội trợ triển lãm ở Việt Nam và ở nước ngoài nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các SME nói riêng đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Có rất nhiều các đơn vị tổ chức hội trợ triển lãm, các tổ chức làm dịch vụ quảng cáo, các văn phòng quảng cáo của nước ngoài tại Việt nam và các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, các vụ hợp tác quốc tế...Thông qua các tổ chức này, doanh nghiệp đã tiếp nhận được các dịch vụ như triển lãm sản phẩm của mình, tham gia trao đổi thông tin tại các cuộc hội thảo, xúc tiến đầu tư, liên doanh, liên kết để tìm cơ hội xúc tiến xuất nhập khẩu giúp cho đối tác nước ngoài nắm bắt được thông tin về doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy hợp tác và mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, so với các nước ASEAN khác, Việt Nam vẫn còn yếu kém trong lĩnh vực này. Trong năm vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng đang cố gắng tham gia vào các đoàn xúc tiến thương mại và các hội trợ thương mại ở nước ngoài nhưng vẫn còn ở phạm vi hạn chế. Sự tham gia dưới các hình thức như vậy trong hầu hết các trường hợp chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, sự tham gia của các SME còn gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh khó khăn về tài chính và những thủ tục hành chính khác, những vướng mắc trong khâu xuất nhập cảnh cũng cản trở nhiều cho các SME ngoài quốc doanh. Nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu, các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện đang tích cực tìm kiếm thị trường mới và trao đổi thông tin với các tổ chức thương mại nước ngoài tại Việt Nam và bước đầu thu được những kết quả khá tốt. Hiện nay, có khoảng 10 tổ chức thương mại như vậy của nước ngoài, trong đó có Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Nhật Bản (JETRO), Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Hàn Quốc (KOTRA)và Tổ chức Xúc tiến Thương mại của Đài Loan (CETRA). Các tổ chức thương mại của nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra mối liên kết giữa các doanh nghiệp nói chung và SME nói riêng với các doanh nghiệp ở nước ngoài như Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, EU... Như vậy, một số tổ chức tham gia hỗ trợ cho việc mở rộng các mối quan hệ với bạn hàng cho các SME đang cung cấp các dịch vụ của mình. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho thấy công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp còn lúng túng và bị động, hệ thống thương vụ Việt Nam tại nước ngoài chưa làm tốt vai trò tìm kiếm, giới thiệu thị trường và bạn hàng để cung cấp thông tin kịp thời hỗ trợ cho SME kinh doanh xuất nhập khẩu. Do đó, các SME vẫn đang dựa vào chủ yếu mạng lưới các nhân viên của mình để tìm thị trường xuất khẩu. Vì vậy, nhiều SME tham gia vào các hoạt động xuất khẩu do không tự mở rộng quan hệ với các khách hàng nước ngoài nên họ phải bán sản phẩm của mình cho các công ty thương mại của nước ngoài và cũng chỉ có cách này họ mới có thể xuất khẩu sản phẩm của mình cho các thị trường trên thế giới. Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và SME ngoài quốc doanh nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế thì một trong những vấn đề cấp bách là phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện một hệ thống xúc tiến xuất khẩu toàn diện, các chính sách và biện pháp đồng bộ của nhiều ngành, nhiều cấp và của từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp các ngành và mỗi doanh nghiệp. Nhưng chắc chắn rằng trong xu hướng đổi mới kinh tế hiện nay ngoại thương thực sự là sức mạnh tổng hợp, thì hoạt động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp càng chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Các quy chế thương mại trong việc hỗ trợ SME Nhờ có những cải cách kinh tế, kể từ năm 1991 cho đến nay nhiều doanh nghiệp đã được phép xuất khẩu các sản phẩm của mình do chính họ sản xuất và được phép nhập khẩu đầu vào trung gian cần thiết cho quá trình sản xuất của mình. Việc thay đổi cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng năm do Bộ Thương mại ban hành đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích mọi thành phần doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đầu năm 1993 yêu cầu để có giấy phép kinh doanh xuất khẩu được nới lỏng đôi chút thì số doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu tăng lên (400 doanh nghiệp). Nhìn chung, trước năm 1998, ngoại thương nằm trong sự độc quyền của khu vực quốc doanh. Còn đối với các SME ngoài quốc doanh Nhà nước có thể thu hồi giấy phép kinh doanh bất cứ lúc nào. Cách thức này đã tạo nên môi trường kinh doanh không ổn định và thiếu bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu. Do những khó khăn đó, nhiều SME chỉ có thể xuất khẩu sản phẩm của mình dưới hình thức uỷ thác thông qua các công ty được phép chuyên doanh xuất nhập khẩu (chủ yếu là các DNNN). Tuỳ từng trường hợp cụ thể, các khoản phí xuất nhập khẩu uỷ thác mà các SME trên thực tế phải trả cho các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu này dao động từ 0,5 - 1%. Ngoài ra, các nhà xuất nhập khẩu còn gánh chịu những rủi ro do bị tiết lộ những thông tin mật về các hợp đồng thương mại của mình hoặc thậm chí bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu chiếm mất đối tác kinh doanh. Ngày 31/07/1998, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 57/NĐ-CP cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hoạt động xuất nhập khẩu mà không cần bất cứ điều kiện gì, chế độ phê duyệt hợp đồng và cấp giấy phép đối với hàng gia công cũng được bãi bỏ. Bên cạnh đó, Thông tư số 18/1998/TT-BTM ngày 28/08/1998 cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được gia công hàng hoá với các đối tác nước ngoài; được trực tiếp nhập khẩu, xuất khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ liệu...gia công theo hợp đồng gia công. Những thay đổi trên đã tạo điều kiện cho việc kinh doanh xuất nhập khẩu trở nên thông thoáng hơn, thuận lợi hơn nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu nói chung và xuất nhập khẩu cho các SME nói riêng. Thật vậy, theo thời báo Sài Gòn (số 16-99(433) ngày 15/4/1999, những thay đổi trên đã làm cho các SME ngoài quốc doanh tham gia đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên, hiện nay có 5.500 SME chiếm hơn 12% tổng số SME ngoài quốc doanh tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu các sản phẩm (mà trước đây phải xuất khẩu thông qua các DNNN. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, lệ phí phải trả cho các DNNN được uỷ thác xuất khẩu trên thực tế là từ 0,5 - 1%. Thêm vào đó, những nhà xuất khẩu SME phải gánh chịu những rủi ro do việc bị lộ thông tin mật về các hợp đồng thương mại của họ hoặc thậm chí bị mất đối tác kinh doanh bởi các DNNN được uỷ thác), điều đó được thể hiện là xuất khẩu FOB tăng từ 30% năm 1997 lên 50% năm 1999. Những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu cho phép SME của Việt Nam đã có tác dụng, kim ngạch xuất khẩu tăng lên 250 triệu USD năm 1998, xuất khẩu tăng 73% (1997-1999) và chiếm 39% trong tăng trưởng xuất khẩu và các SME. Bên cạnh những cải cách trên, hạn ngạch cũng được thay đổi, nếu như giai đoạn trước năm 1991 áp dụng cho hơn 100 mặt hàng xuất khẩu thì sau này chỉ còn áp dụng cho mặt hàng gạo và cà phê. Trong năm 2000, Chính phủ thực hiện đấu thầu khoảng 25-30% hạn ngạch dệt may Quyết định số 242/1999/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ , việc thực hiện phương thức đấu thầu này sẽ giảm được nạn tham nhũng của các quan chức, tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước và tránh được nạn độc quyền của một số DNNN đồng thời khuyến khích các SME đang hoạt động có hiệu quả và có khả năng cạnh tranh nhưng vì một vài lý do nào đó mà họ chưa được tham gia vào kinh doanh quốc tế. Các đầu mối xuất khẩu cũng đang được giảm thiểu đáng kể. Chính phủ đã từng bước thu hẹp số lượng hàng hoá trong những loại danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu có điều kiện (năm 2000 chỉ còn có 6 hàng hoá bị cấm nhập khẩu, 10 loại hàng hóa bị cấm xuất khẩu, và 9 loại hàng hoá nhập khẩu có điều kiện8). Việc Ban hành danh mục hàng hoá tạm thời cấm xuất nhập khẩu cũng được hạn chế đã góp phần ổn định môi trường kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Mặc dù quy chế thương mại trong những năm vừa qua đã tạo điều kiện tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các SME nói riêng trong việc hỗ trợ thúc đẩy hoạt đông kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng sau khi áp dụng cho thực tế thì một điều dẽ nhận thấy là vẫn còn những hạn chế đối với các SME đã tạo ra sự không công bằng giữa các DNNN và SME, cụ thể như sau: Một là: Nghị định 57 đã nới lỏng phạm vi hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có giấy phép, tạo cho doanh nghiệp năng động hơn trong kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế điều này gặp phải trở ngại khác như chế độ cấp phép, bộ chủ quản...tức là sự can thiệp quá sâu của bộ máy quản lý nhà nước voà hoạt đông xuất khẩu. Hai là: Mã số quy định của Nhà nước áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau chưa công bằng. Chẳng hạn, các SME thường được phân bổ hạn ngạch rất ít so với DNNN có cùng quy mô kim ngạch xuất khẩu hoặc công nhân, các DNNN mặc dù hoạt động kém hiệu quả song được hưởng ưu đãi hơn các SME ngoài quốc doanh. Ba là: Chính sách của Nhà nước không ổn định, thay đổi thường xuyên, ảnh hưởng đến phương hướng đầu tư chiều sâu, làm ăn lâu dài của doanh nghiệp. Chẳng hạn chính sách về biểu thuế, về hạn chế xuất khẩu... Những hạn chế của chính sách thương mại nói chung , đối với SME nói riêng đã và đang đòi hỏi cần có điều kiện để thực hiện hỗ trợ một cách có hiệu quả thiết thực. Bốn là, hàng năm nhà nước còn quản lý xuất nhập khẩu thông qua việc ban hành danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu có điều kiện. Việ điều chỉnh các danh mục do Chính phủ quy định dựa trên đề nghị của Bộ thương mại. Những lý do để quản lý xuất nhập khẩu bằng các danh mục trên là để điều chỉnh cung và cầu hoặc cán cân thương mại hoặc để bảo vệ an ninh quốc gia, giá trị đạo đức, an toàn xã hội, nhân cách giáo dục và nguồn tài nguyên thiên nhiên môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý xuất nhập khẩu, có lúc Chính phủ ban hành danh mục hàng hoá tạm thời cấm xuất nhập khẩu. Việc điều chỉnh theo hình thức "cho phép - tạm ngừng - cấm - cho phép - .." đã gây khó khăn cho không ít các SME. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu thông qua các "đầu mối" trong thời gian qua là rào cản tiếp cận của các SME vào thị trường thế giới. III- Kinh nghiệm hỗ trợ xuất nhập khẩu cho SME của một số nước Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đặc biệt là SME ngoài quốc doanh nói riêng trong mọi lĩnh vực và quan trọng nhất là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Với những khó khăn đó SME ngoài quốc doanh sẽ phải quyết tâm rất lớn, bên cạnh đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoàn cảnh đó là một điều rất cần thiết đối với họ. Một trong những biện pháp có ý nghĩa lúc này là những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước đi trước có thành tựu lớn trong phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá nhanh, có điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá tương đồng với chúng ta. 1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan Đài Loan là một quốc gia điển hình có nhiều SME. Sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan cũng gắn với mức tăng trưởng cao và sự phồn vinh của các SME. Quá trình phát triển này cũng gắn liền với nỗ lực của các xí nghiệp nhỏ và vừa trong sản xuất, tiết kiệm nhằm tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu. 1.1 Về chiến lược kinh doanh Sự phát triển kinh tế Đài Loan luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương. Ngoại thương thực sự là động lực thúc đẩy các ngành sản xuất vươn lên, đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng. Do nhận thức được những giới hạn của thị trường nội địa, từ những năm 60 Đài Loan đã coi mở rộng xuất khẩu như một chính sách chỉ đạo, một phương châm chiến lược. Ngay trong những năm đầu thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu", ngành ngoại thương Đài Loan đã trở thành lực lượng nâng đỡ và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp Cuối những năm 50, công nghiệp tư nhân của Đài Loan đã phát triển khá mạnh, thị trường nội địa đã tới mức bão hoà, công nghiệp Đài Loan chuyển từ "thay thế nhập khẩu" sang "đẩy mạnh xuất khẩu". Lúc này khu vực tư nhân đã có cơ sở khá vững, chính quyền Đài Loan đã khuyến khích họ phát triển ngoại thương, xâm nhập thị trường quốc tế qua hàng loạt các biện pháp cải cách kinh tế như chuyển thống nhất tỷ giá hối đoái, nới lỏng những hạn chế nhập khẩu... Năm 1965 Đài Loan đã mở "khu chế biến xuất khẩu" với nhiều ưu đãi về ngoại thương. Đồng thời các biện pháp tăng cường thực lực kinh tế và khả năng cạnh tranh, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu dịch. 1.2 Về chính sách thuế Trong những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, Đài Loan đã áp dụng phương châm "hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế", liên tục ban hành các pháp lệnh "khuyến khích đầu tư", "đầu tư hoa kiều"...Với nhiều ưu đãi dành cho các SME thực hiện tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng hạn, Chính phủ miễn thuế 5 năm cho các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4 năm cho các xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Bên cạnh đó, Đài Loan còn thực hiện biện pháp "hạn chế lập xưởng", nghĩa là trên cơ sở đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế khắt khe đầu tư vào một số ngành nào đó để đảm bảo có thị trường cho các SME trọng điểm, tránh tình trạng sản xuất trùng lặp, gây lãng phí tiền lương, lao động và vốn. Trong thời gian 1970-1977 Đài Loan đã miễn giảm thuế, việc giảm thuế đã kích thích đầu tư. Do đó, số SME mới không ngừng tăng nên, các SME cũ không ngừng gia tăng tài sản, khiến cho mức thuế cơ bản tăng lên, và giá trị tuyệt đối của thuế cũng không ngừng tăng lên. Cho tới những năm 80, Chính quyền Đài Loan ban hành một hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ SME và ngay lập tức đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của khu vực này, tạo nên một nàn sóng phát triển các SME. Hệ thống chính sách hỗ trợ SME của Đài Loan hiện nay bao gồm: 1. Chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng 2. Chính sách hỗ trợ về công nghệ 3. Chính sách nghiên cứu và phát triển 4. Chính sách về kiểm soát chất lượng sản phẩm 5. Chính sách quản lý đào tạo 6. Chính sách an toàn công nghiệp 7. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa Luan Tot Nghiep.doc
Tài liệu liên quan