Khóa luận Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán

1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư

2. Khái niệm

3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán

3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn

3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư

3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ

3.4. Một số loại quỹ khác

4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán

4.1. Đối với nền kinh tế

4.2. Đối với thị trường chứng khoán

4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư

5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán

5.1. Mô hình công ty

5.2. Mô hình tín thác

5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác

6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán

6.1. Nguyên tắc huy động vốn

6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ

6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ

6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư

6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ

II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán

III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước

1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển

1.1. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ

1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh

1.3. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản

2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi

2.1. Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc

2.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan

Chương II. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

TẠI VIỆT NAM

I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam

III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

1. Vietnam Fund

2. Beta Vietnam Fund

3. Vietnam Frontier Fund

4. Vietnam Enterprise Investments Ltd

5. Mekong Enterprise Fund

6. Vietnam Opportunities Fund

7. VietFund

Chương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

2. Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán

1. Về phía Nhà nước

1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô

1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý

1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư

1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp

1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam

1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư.

1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu

1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư

2. Về phía các Quỹ đầu tư

2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp

2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng

2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp

KẾT LUẬN

 

doc97 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5837 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai trò của các nhà đầu tư có tổ chức như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư… là hết sức quan trọng đối với sự ổn định của thị trường. Trên thị trường sơ cấp, những người đầu tư có tổ chức đóng vai trò tích cực trong việc tham gia, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán, giúp các chủ thể phát hành huy động vốn một cách hiệu quả, tạo thêm hàng hoá cho thị trường. Trên thị trường thứ cấp, với kỹ năng phân tích đầu tư chuyên nghiệp và nguồn vốn lớn, dài hạn người đầu tư có tổ chức góp phần kiểm soát sự biến động giá chứng khoán do sự mất cân đối cung cầu, tạo sự ổn định cần thiết trên thị trường thứ cấp. - Quỹ đầu tư là một phương tiện đầu tư hiệu quả đối với những người không được trang bị những kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp. Trong khi đại bộ phận người đầu tư có kiến thức về đầu tư chứng khoán còn rất hạn chế thì vai trò của Quỹ đầu tư càng trở nên có ý nghĩa. Việc tiếp cận đối với những nguồn thông tin đa dạng cộng với những chiến lược đầu tư khoa học trong hoạt động của quỹ khiến cho nguồn vốn đầu tư gián tiếp qua quỹ trở nên an toàn hơn. Mặt khác, chức năng chuyển đổi nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội thành nguồn vốn đầu tư trên phạm vi rộng làm cho Quỹ đầu tư trở thành phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn nhàn rỗi rộng rãi trong công chúng, phát huy nội lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Đồng thời, kỹ năng nghiên cứu, phân tích đầu tư chuyên nghiệp của quỹ sẽ góp phần hướng dẫn thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng đầu tư chứng khoán của công chúng, giúp nâng cao tính xã hội hoá của hoạt động đầu tư. - Việc cho phép người nước ngoài đầu tư thông qua Quỹ đầu tư có thể giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực có thể phát sinh nếu mở cửa thị trường cho người nước ngoài đầu tư trực tiếp ngay trong giai đoạn đầu. Những ảnh hưởng tiêu cực này có thể là việc người nước ngoài thâu tóm quyền kiểm soát công ty, hay sự rối loạn trên thị trường chứng khoán do sự dịch chuyển đột biến của các luồng tài chính. Thêm vào đó, trước sự giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì việc cho phép đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua các Quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể được coi là một giải pháp hữu hiệu tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời là bước đi phù hợp của Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Quỹ đầu tư là phương tiện thuận tiện, đơn giản và linh hoạt cho phép người nước ngoài đóng góp và tham gia vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Tóm lại, trong điều kiện hiện nay sự ra đời và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán là một tất yếu khách quan quyết định đến sự ra đời và vận hành của thị trường chứng khoán, góp phần tạo lập thị trường vốn, mở ra một kênh huy động vốn trung - dài hạn phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển đất nước. II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam Sau khi có các cơ sở pháp lý về thị trường chứng khoán tại Việt Nam, cụ thể là sau khi Nghị định 48/1998/NĐ-CP, cùng với một số văn kiện quan trọng khác, Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam (SSC) đã ban hành quy định Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Mới đây, vào ngày 28/11/2003, Nghị định 144 về chứng khoán và thị trường chứng khoán ra đời, thay thế hoàn toàn cho Nghị định 48. Về cơ bản, những quy định về Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ trong Nghị định 144 vẫn chưa có gì thay đổi so với Nghị định 48. Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ định nghĩa Quỹ đầu tư chứng khoán như sau “Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư, được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ”. Theo định nghĩa trên thì quỹ phải đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của mình nhưng lại không có quy định tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán niêm yết hay không niêm yết. Mặt khác, trong Nghị định 144 thì thuật ngữ “chứng khoán” được hiểu là các chứng khoán niêm yết. Như vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán không thể đầu tư với tỷ lệ giới hạn 60% vào chứng khoán được vì hiện nay hàng hóa niêm yết trên thị trường chứng khoán còn quá ít, điều này làm cho các Quỹ đầu tư không thể dễ dàng tồn tại. Bên cạnh đó, định nghĩa về Quỹ đầu tư chứng khoán như trên là quá hẹp, không có lợi trong việc phát triển một thị trường chứng khoán năng động, hiệu quả. Cũng theo tinh thần của quy chế, chỉ có hai loại quỹ căn bản được đề cập, đó là Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Quỹ đóng) và Quỹ đầu tư chứng khoán mở (Quỹ mở). Như thế, các hình thái quỹ khác không hoặc chưa được thành lập, thiếu hẳn các loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán đa dạng khác. Theo định nghĩa của quy chế, một quỹ được gọi là đóng khi người đầu tư không thể bán lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ đó trong suốt thời gian tồn tại của quỹ. Tổng trị giá chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu tối thiểu đạt 5 tỷ VNĐ và số người sở hữu chứng chỉ tối thiểu là 100 người. Ngược lại, với Quỹ mở, người đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ mà họ đã mua và số lượng chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu đạt tối thiểu 15% tổng số chứng chỉ xin phép phát hành tối đa. Số lượng chứng chỉ phát hành được hạn chế theo một mức tối đa quy định trong điều lệ quỹ đã được phê duyệt. Như vậy, tổng vốn huy động của Quỹ mở bị giới hạn trước, không giống như cơ chế huy động và quản lý vốn của một Quỹ tương hỗ mà ta đã biết. Đối với Quỹ mở, công ty quản lý quỹ phải thường xuyên duy trì tỷ lệ tài sản lưu hoạt ghi trong điều lệ quỹ. Tài sản lưu hoạt là phần tài sản có của quỹ bao gồm tiền mặt và các tài sản khác có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt trong 15 ngày. Tỷ lệ này tối thiểu phải bằng 20% tổng giá trị tài sản của quỹ. Tham gia trong quá trình hoạt động của quỹ chủ yếu có công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát. Công ty quản lý quỹ đứng ra quản lý quỹ, phát hành chứng chỉ đầu tư, cử người điều hành, quản lý hoạt động và chịu trách nhiệm về hiệu quả và pháp lý của quỹ. Ngân hàng giám sát đảm nhận việc bảo quản, lưu ký các chứng khoán mà quỹ nắm giữ để kinh doanh, lưu giữ các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan tới tài sản của quỹ, đồng thời giám sát hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Thành viên hội đồng quản trị công ty quản lý quỹ, người điều hành công ty quản lý quỹ và những người điều hành quỹ không được là cổ đông của ngân hàng giám sát. Theo nội dung của quy chế, công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư là hai thực thể được cơ cấu và tổ chức khác nhau. Công ty quản lý quỹ cùng lúc có thể khai sinh và quản lý nhiều quỹ độc lập nhau, đồng thời có sự độc lập cả về tài sản, các nghĩa vụ tài chính giữa công ty quản lý quỹ và một Quỹ đầu tư nào đó. Người điều hành quỹ là người được công ty quản lý quỹ chỉ định để trực tiếp điều hành hoạt động của một quỹ. Trong khi công ty quản lý quỹ được tổ chức và hoạt động như một doanh nghiệp, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có hội đồng quản trị và hệ thống hành chính nhân sự… thì Quỹ đầu tư là một tập hợp có điều lệ và tài sản độc lập nhưng không có bộ máy điều hành riêng gắn trực tiếp với nó. Quỹ đầu tư không là pháp nhân mà chỉ có đại hội những người đầu tư do công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát triệu tập có điều kiện và tuỳ thuộc vào tình huống được nêu trong quy chế. Các Quỹ đầu tư khi được tổ chức theo SSC thì thực chất có thể xem là các sản phẩm của công ty quản lý quỹ đầu tư. Tuy nhiên, theo định nghĩa của quy chế, chúng lại được xem là tài sản uỷ thác cho công ty quản lý quỹ để quản lý. Đồng thời, quyền lợi và nghĩa vụ đối với một quỹ của công ty quản lý quỹ nào có thể được chuyển nhượng cho một công ty quản lý quỹ khác nếu được SSC chấp thuận. Một số quy định về cơ cấu vốn và điều kiện đầu tư của công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư được nêu trong quy chế như sau: Một Quỹ đầu tư chứng khoán, cả Quỹ đóng và Quỹ mở, phải đầu tư tối thiểu 60% tổng giá trị tài sản của chúng vào chứng khoán. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành và không được đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản của một quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của quỹ để cho vay và bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào, và không được phép vay để tài trợ cho hoạt động của quỹ trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải cho các chi phí cần thiết. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để đầu tư trực tiếp vào bất động sản quá 10% giá trị tài sản của quỹ. Một quỹ không được nắm giữ quá 10% tổng vốn cổ phần của một công ty không niêm yết, đồng thời không được sử dụng quá 5% tổng giá trị tài sản của quỹ để đầu tư vào riêng tại một công ty không niêm yết nào đó. Một quỹ không được nắm giữ quá 30% tổng giá trị tài sản của các công ty trong cùng một tập đoàn hay một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của các quỹ do mình quản lý để mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành (đã tham gia thị trường chứng khoán) hoặc một công ty không niêm yết. Nếu theo các điều kiện trên ta có thể thấy rằng nó sẽ gây khó khăn cho các Quỹ đầu tư trong quá trình hoạt động. Mục tiêu của các quỹ là hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà hầu hết các doanh nghiệp này đều có mức vốn dưới 10 tỷ VND. Điều này dẫn đến tỷ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp và cũng vì vậy mà quỹ đầu tư vào nhiều doanh nghiệp khác nhau. Kết quả là chi phí quản lý cao, dẫn đến các công ty sẽ thu được lãi thấp. Về việc giải thể của quỹ. Quỹ chỉ được giải thể trong trường hợp kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ quỹ, hoặc trong trường hợp phải giải thể quỹ nhằm bảo vệ lợi ích người đầu tư. Việc giải thể phải xin phép Uỷ ban chứng khoán nhà nước và chỉ được chấp thuận khi phương án giải thể quỹ phù hợp với quyền lợi người đầu tư. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ phá sản, tài sản thuộc quỹ là của người đầu tư và không được tính là tài sản của công ty quản lý quỹ. Không ai được sử dụng vốn hay tài sản của của quỹ để thanh toán những khoản nợ của công ty quản lý quỹ. Tóm lại, mặc dù quy chế công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư còn quy định nhiều điều bất cập nhưng sự ra đời của nó mang một ý nghĩa rất lớn, là một cột mốc quan trọng và là sự quyết tâm lớn của Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam. Ý nghĩa của nó thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy hoạt động đầu tư tài chính nước nhà vào buổi đầu còn bỡ ngỡ, nhất là quá trình cổ phần hoá, hợp nhất các định chế về mặt luật cho các loại công ty và đặc biệt là sự hình thành của thị trường chứng khoán. III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt là kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào tháng 2 năm 1998, hàng loạt công ty đầu tư nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Cùng với làn sóng đầu tư đó, trước năm 1993 khi có thông tin về sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam, một số Quỹ đầu tư cũng đã được thành lập. Đây là các quỹ đầu tư tư nhân thành lập ở nước ngoài nhưng được phép vào hoạt động có hạn chế ở Việt Nam. - Tháng 10 năm 1991 : Vietnam Fund - Tháng 06 năm 1992 : Vietnam Keppel Fund (The Vietnam Investment Fund Ltd.) - Tháng 08 năm 1993 : Beta Vietnam Fund - Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Frontier Fund - Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Enterprise Investment Fund - Tháng 09 năm 1994 : Templeton Vietnam Opportunities Fund - Tháng 10 năm 1994 : Lazard Vietnam Fund Tất cả các quỹ này đều được niêm yết ở Dublin, Ireland do lệnh cấm vận Việt Nam của Mỹ trước tháng 9 năm 1994. Sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận, Templeton Vietnam Opportunities Fund được thành lập và niêm yết ở New York Stock Exchange. Cuối năm 1994, mặc dù số vốn các quỹ huy động chưa được đầu tư hoàn toàn nhưng giá giao dịch của các quỹ trên tất cả các thị trường chứng khoán đều được giao dịch ở mức Premium. Đây là thời gian các quỹ phát triển rất mạnh mẽ do thực tế năm 1993, 1994 là những năm cao điểm của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận là một trong những lý do chính đem lại sự thành công vang dội này. Chính vì vậy, cổ phiếu của các quỹ đều được giao dịch ở mức Premium. Bảng 2.1 : Hoạt động của các quỹ vào tháng 11 năm 1994 Nguồn: Reports by Baring Securities, Merril Lynch Tên quỹ Vốn huy động (triệu USD) Giá cổ phiếu (USD) Mức Premium/ Discount TTCK Dạng quỹ Vietnam Fund 75 15 + 40.6% Dublin Đóng Vietnam Keppel Fund 12.5 - - - Đóng Beta Vietnam Fund 68.3 52.5 + 4.6% Dublin Đóng Vietnam Frontier Fund 27.5 5.5 +10.2% Dublin Đóng Vietnam Lazard Fund 58.8 - - - Đóng Templeton Vietnam Fund 117 - + 6.1% NYSE Đóng Tất cả các quỹ trên nhìn chung đều được gọi là các Quỹ nội địa vì tất cả vốn của chúng đều được đầu tư vào một quốc gia riêng lẻ. Phương pháp đầu tư thông thường của các quỹ là mua cổ phiếu của các công ty không được niêm yết, các công ty được cổ phần hoá hay tham gia vào sự hình thành của các công ty mới như là những cổ đông sáng lập. Do ở Việt Nam vào năm 1993, 1994 không có thị trường chứng khoán nên các Quỹ đầu tư không có sự lựa chọn nào hơn là đầu tư vào những công ty không niêm yết. Vì vậy, sự thành thạo chuyên môn của họ trong việc điều hành các danh mục đầu tư bị hạn chế và các quỹ buộc phải đầu tư vào những công ty không được niêm yết một cách hấp tấp. Phụ thuộc vào kỹ năng quản lý, khả năng tiếp cận, các quỹ sẽ đầu tư vào những lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, tới năm 1998 các quỹ đầu tư vào những lĩnh vực sau: Bất động sản: toà nhà văn phòng, khách sạn, tổ hợp giải trí… Vật liệu xây dựng Dệt may Dược Sản phẩm nông nghiệp, chế biến thực phẩm Vận tải công cộng Sản xuất than thép Ngân hàng, tài chính Dịch vụ y tế và giáo dục Xây dựng Thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông Tiêu chuẩn để quyết định đầu tư vào một dự án là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR (ít nhất là 20%), tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng cao, thời kỳ hoàn vốn ngắn (5 năm hoặc ít hơn, ngoại trừ các dự án đầu tư vào bất động sản) bởi vì thời gian hoạt động của các quỹ thông thường 10 năm là cao nhất. Dự án còn phải có triển vọng được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong thời gian này, khi chưa có thị trường chứng khoán Việt Nam thì cổ phiếu của một số dự án đã được niêm yết ở thị trường chứng khoán Hồng Kông hay Singapore. Quá trình để đưa ra quyết định đầu tư bằng cách chọn lựa và đánh giá mỗi dự án trước khi chúng được đưa ra hội đồng thẩm định đầu tư của mỗi quỹ là một sự chuẩn bị với sự thận trọng ở mức cao nhất và rất chuyên nghiệp. Những đánh giá đầu tư như vậy không chỉ liên quan tới bản thân quỹ mà còn phải cần đến dịch vụ của kiểm toán, công ty luật để giúp quỹ đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. Quá trình này thông thường phải mất 6 tháng để đưa ra quyết định. Trong thực tế, mỗi quỹ phải xem xét 300 tới 400 dự án để chọn ra khoảng 30 dự án làm thành một danh sách đầu tư tiềm năng. Từ danh sách này, hội đồng quản trị của quỹ sẽ lựa chọn ra khoảng 15 đến 20 dự án để đầu tư. Với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, một vài quỹ đã điều chỉnh cả những quy định của thể chế tài chính để có thể đầu tư vào các công ty tiềm năng trên thị trường Việt Nam. Khi chưa có những văn bản luật nào cho phép sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng địa phương, các quỹ đã táo bạo đầu tư vào những ngân hàng cổ phần tư nhân. Nhiều quỹ đã sử dụng thoả thuận khoản vay có thể chuyển đổi để có thể đầu tư sớm vào ngân hàng ACB, ngân hàng Maritime hay ngân hàng AP… Khi đầu tư vào Việt Nam, các quỹ phải đối mặt với nhiều rào cản làm hạn chế đầu tư. Với hành lang pháp lý còn nhiều bất cập, những hạn chế trong việc chuyển đổi tiền tệ, rủi ro tỷ giá đi liền với sự quan liêu và gánh nặng hành chính ở mọi cấp… đã làm giảm giá cổ phiếu của quỹ. Thêm vào đó, khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 và những hạn chế khác đã ảnh hưởng tới khuynh hướng đầu tư của nhiều nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam. Trong một thời gian dài hoạt động tại Việt Nam nhưng quỹ Templeton không thể nhận ra đâu được là những dự án đầu tư phù hợp. Họ nhận được 250 lời đề nghị đầu tư nhưng chỉ mới ký kết được mỗi 3 dự án. Không tìm được cơ hội đầu tư, Templeton Vietnam Opportunities Fund đã buộc phải cơ cấu lại vốn, phân nửa tài sản được trả lại cho các cổ đông và quyết định chuyển 90 triệu USD còn lại trong quỹ sang một quỹ khác, chuyển trọng tâm hoạt động sang các thị trường khác trong Đông Nam Á, trở thành quỹ khu vực. Thực tế, trong bảy quỹ trên thì chỉ còn năm quỹ hoạt động cầm chừng hoặc bán tài sản để kết thúc hoạt động. Tổng số vốn đầu tư của Lazard Vietnam Fund là 58,8 triệu USD nhưng quỹ mới chỉ đầu tư được 9,5 triệu USD tức 16% tổng vốn của mình, số còn lại vẫn ở dưới dạng tiền mặt. Do vậy, mặc dù, đến năm 2002 quỹ mới hết thời hạn hoạt động nhưng Lazard Vietnam Fund đã kết thúc sớm hoạt động của mình vào năm 1998 bằng cách bán 6,6 triệu USD giá trị cổ phần của nhà máy đường Nagarjuna cho người điều hành Ấn Độ. Nó cũng bán 6.6% vốn góp ở công ty cổ phần cơ điện lạnh REE trị giá 1 triệu USD cho Dragon Capital Ltd. Vietnam Keppel Fund thì chỉ đầu tư vào những dự án nào mà có sự tham gia của Keppel Corporation. Vào năm 1998, quỹ ngừng hoạt động tại Việt Nam. Tình hình đầu tư của các quỹ khác cũng không được khả quan. Vietnam Frontier mặc dù NAV tăng 18% nhưng điều đó cũng không phản ánh được gì vì các quỹ Mỹ Latin có mức tăng NAV trung bình là 31%. Vietnam Fund thì đang được giao dịch ở mức 18% Discount so với mức 75% Premium trong những năm đầu hoạt động. Tới bây giờ, trong bảy quỹ đó thì chỉ còn bốn quỹ hoạt động ở Việt Nam là: Vietnam Fund, Beta Vietnam Fund, Vietnam Frontier Fund, Vietnam Enterprise Investments Ltd. Chúng đang thu hẹp hoạt động của mình hoặc bán tài sản để kết thúc hoạt động của quỹ. Các quỹ sẽ kết thúc hoạt động nếu các cổ đông không bỏ phiếu để mở rộng hoạt động của quỹ. Tất cả các Quỹ đầu tư nêu trên đều là những Quỹ đầu tư chuyên nghiệp, được điều hành bởi các quản trị viên xuất sắc, trong đó có cả các nhà đầu tư Việt Nam tên tuổi rất nổi tiếng trong giới đầu tư quốc tế, song cuối cùng họ không đạt được thành công như mong muốn. “Việt Nam vẫn chỉ là một lời dự đoán tốt” đó là nhận định của các nhà đầu tư đối với Việt Nam. Vậy thì lý do nào đã làm nên một bức tranh u ám cho phần lớn các quỹ ? Môi trường kinh tế không ổn định. Do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực lên các mặt hoạt động then chốt của nền kinh tế và những bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế. Đầu tư phát triển trong nền kinh tế, đặc biệt là đầu tư của các doanh nghiệp và của nhân dân vẫn trầm lắng, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh. Hoạt động thị trường nói chung đều kém sôi động. Cơ hội và môi trường đầu tư vẫn bấp bênh. Tiền gửi tiết kiệm và các nguồn vốn huy động qua ngân hàng tăng nhanh hơn mức tăng trưởng tín dụng, dẫn tới ứ đọng vốn. Trong khi các ngân hàng ứ thừa vốn thì các doanh nghiệp cần vốn lại e ngại đầu tư. Trong bối cảnh nền kinh tế đó, hầu hết các công ty lâm vào tình trạng khó khăn, một số doanh nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng nên các Quỹ đầu tư rất khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tình trạng trầm lắng của nền kinh tế cũng gây nên tâm lý ngần ngại, e dè cho các tập đoàn tài chính quốc tế trong việc quyết định thành lập Quỹ đầu tư. Hành lang pháp luật. Có thể thấy hành lang pháp luật của Việt Nam đang được cải tổ nhưng thực tế nó luôn không theo kịp diễn biến của thị trường. Giới hạn của Luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu của một công ty. Do đó, tác động của họ với đối tác đầu tư hoàn toàn không đủ mạnh. Bên cạnh đó, các điều luật về chứng khoán, tài chính, ngân hàng có liên quan cũng đều không đồng bộ. Tất cả những bất cập đó khiến các Quỹ đầu tư phải hoạt động trong một hành lang pháp lý hẹp. Sự phát triển của thị trường mới nổi khác. Trước đây các nhà đầu tư rất háo hức tham gia vào thị trường Việt Nam, coi đây là một thị trường mới nổi đầy tiềm năng. Nhưng sau một thời gian hoạt động không hiệu quả tại Việt Nam, bên cạnh đó lại xuất hiện nhiều thị trường mới nổi khác có môi trường đầu tư thuận lợi hơn nhiều so với Việt Nam, nên đã buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc lại quyết định đầu tư của mình. Hoạt động của thị trường chứng khoán. Hoạt động của các Quỹ đầu tư có hiệu quả, có mang lại lợi nhuận hay không phụ thuộc vào sự sôi động của thị trường chứng khoán. Trong khi đó, nhịp độ hoạt động trên thị trường chứng khoán lại là hệ quả của sự tham gia của các doanh nghiệp và sự quan tâm của công chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp cho rằng họ vẫn chưa thực sự có nhu cầu huy động vốn dài hạn thông qua thị trường chứng khoán. Một số doanh nghiệp chỉ cần nguồn vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí sản xuất mà ngân hàng cũng có thể đáp ứng được nhu cầu này, hơn nữa lãi suất ngân hàng hiện nay tương đối thấp. Như vậy, ban đầu sự tham gia của các doanh nghiệp là khá hạn chế. Về phía công chúng, họ ngại môi trường kinh tế không ổn định dễ phát sinh rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán. Chính sách thu hút đầu tư. Các Quỹ đầu tư nước ngoài luôn nhắm đến thị trường chứng khoán và mong muốn đầu tư vào các cổ phiếu niêm yết hoặc sắp được niêm yết vì chất lượng và tính thanh khoản cao của thị trường này. Quá trình đầu tư gián tiếp này còn giúp họ tiết kiệm được thời gian nghiên cứu cơ hội và giảm thiểu chi phí đầu tư so với đầu tư trực tiếp trong khi vẫn đóng góp được vốn và kinh nghiệm quản trị cho các doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, họ sợ bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. Nhân sự. Trong một vài trường hợp, tuyển dụng các nhà quản lý dựa trên mối quan hệ cá nhân ở Việt Nam với kết quả là người quản lý không phù hợp với các tiêu chuẩn. Một số trường hợp khác, người điều hành được tuyển do các công ty săn đầu người nước ngoài nên họ không có kinh nghiệm kinh doanh ở Việt Nam và giải quyết những mâu thuẫn với nhân viên địa phương. Mặc dù với những hạn chế trên, nhưng từ năm 2002 đến nay, đã có hai Quỹ đầu tư mới đang đi vào hoạt động đó là Mekong Enterprise Fund và Vietnam Opportunities Fund. Đặc biệt một sự kiện nổi bật khác đó là sự thành lập của công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam Vietnam Management Fund. Phải chăng cơ hội đầu tư đã quay trở lại? Dưới đây, chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể về hoạt động của từng quỹ tại Việt Nam. IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam 1. Vietnam Fund Vietnam Fund là Quỹ đầu tư đầu tiên bước chân vào thị trường Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 57,6 triệu USD. Cổ phần của quỹ ngoài việc được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Dublin, nó còn được giao dịch trên thị trường OTC London. Mục tiêu của Vietnam Fund là đạt được sự tăng trưởng vốn dài hạn thông qua việc đầu tư vào các dự án và công ty chưa được niêm yết tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, quỹ thiết lập hai danh mục đầu tư theo tỷ lệ 40/60 cho các khoản đầu tư vào các công ty Việt Nam và các liên doanh do người nước ngoài điều hành. Quá trình đầu tư được chia làm hai giai đoạn mỗi giai đoạn có thời hạn 5 năm. Vietnam Fund là quỹ dạng đóng, được tổ chức theo mô hình công ty. Công ty quản lý quỹ là Vietnam Fund Management Company. Ngân hàng giám sát là Lloyds Bank. Công ty quản lý quỹ, ngân hàng Lloyds nhận được khoản thu phí từ 2,5% và 0,25% (ít nhất là 75.000 USD) trên giá trị tài sản ròng lần lượt từng năm một. Chính sách định giá của Vietnam Fund là bất kỳ một sự gia tăng nào về giá trị tài sản thuần của quỹ và việc mua lại chúng của quỹ đều được phản ánh ở thu nhập giữ lại hơn là sự gia tăng về vốn. Điều này cho thấy các nhà quản lý đều đánh giá tình hình đầu tư tại Việt Nam không còn thuận lợi, họ quan tâm tới sự an toàn hơn là lợi nhuận. Để hạn chế rủi ro, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam được quỹ cơ cấu sao cho một phần lợi nhuận quỹ sẽ nhận được dưới dạng cổ tức hoặc lợi nhuận được chia hàng năm và phần còn lại là do tăng trưởng vốn khi bán loại chứng khoán đầu tư đó hoặc khi chứng khoán đó được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mục tiêu của quỹ khi đầu tư vào các công ty Việt Nam là hy vọng chúng sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn đối với khoản đầu tư vào các liên doanh, lợi nhuận chủ yếu thu được từ lãi vốn khi chuyển chứng khoán đầu tư đó thành tiền. Một nguyên tắc chung là quỹ sẽ bán phần đầu tư vào các công ty mới ngay khi chúng đi vào hoạt động chính thức. Quỹ không có ý định nắm quyền kiểm soát ở các công ty nhận đầu tư nhưng nếu cần thì quỹ sẽ thực hiện quyền đó để thay đổi hoạt động của các công ty sao cho có hiệu quả. Quỹ cũng hạn chế trong việc hỗ trợ các công ty Việt Nam và thường chỉ dừng lại với vai trò là một công ty quản lý giúp công ty nhận vốn tìm kiếm nhân viên thích hợp để cơ cấu lại bộ máy quản lý. Từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, quỹ đã thực hiện tất cả 11 kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChungkhoan23.doc
Tài liệu liên quan