Khóa luận Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam – thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4

1.1. Ngân hàng thương mại và rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng thương mại 4

1.1.1. Ngân hàng thương mại 4

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 4

1.1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại 5

1.1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 8

1.1.2.1. Các khái niệm: 8

1.1.2.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 8

1.1.3. Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng 10

1.1.3.1. Bản chất của rủi ro thanh khoản 10

1.1.3.2. Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác 11

1.1.3.3. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản 12

1.1.3.4. Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản 13

1.2. Quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại 16

1.2.1. Các khái niệm 16

1.2.1.1. Khái niệm quản trị rủi ro (QTRR) 16

1.2.1.2. Khái niệm quản trị rủi ro thanh khoản (QTRRTK) trong kinh doanh ngân hàng 17

1.2.2. Mục đích của quản trị rủi ro thanh khoản 17

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro thanh khoản 17

1.2.3.1. Nhân tố chủ quan 17

1.2.3.2. Nhân tố khách quan 18

1.2.4. Nội dung cơ bản của quản trị rủi ro thanh khoản 19

1.2.4.1. Nhận dạng và phân tích nguyên nhân rủi ro thanh khoản 19

1.2.4.2. Đo lường rủi ro thanh khoản 21

1.2.4.3. Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro thanh khoản 24

1.3. Kinh nghiệm quản trị rủi ro thanh khoản của một số ngân hàng trên thế giới và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 27

1.3.1. Kinh nghiệm quản trị rủi ro của một số ngân hàng trên thế giới 27

1.3.1.1. Kinh nghiệm QTRRTK của Ngân hàng Thương mại cổ phần SMBC Nhật Bản 27

1.3.1.2. Rủi ro thanh khoản tại Northern Rock năm 2007 28

1.3.2. Bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam 30

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG RỦI RO THANH KHOẢN VÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 32

2.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 32

2.1.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây 32

2.1.2. Các rủi ro thường gặp trong hệ thống NHTM Việt Nam 35

2.1.2.1. Rủi ro tín dụng 36

2.1.2.2. Rủi ro lãi suất 36

2.1.2.3. Rủi ro tỷ giá 37

2.1.2.4. Rủi ro thanh khoản 38

2.2. Thực trạng rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam 38

2.2.1. Thực trạng rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam 38

2.2.2. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam 43

2.2.2.1. Đối với NHTM 43

2.2.2.2. Đối với nền kinh tế - xã hội: 44

2.2.3. Nguyên nhân gây RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây 45

2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 45

2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan 47

2.3. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây 47

2.3.1. Nhận thức về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam 47

2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro thanh khoản 49

2.3.2.1. Nhân tố chủ quan 49

2.3.2.2. Nhân tố khách quan 50

2.3.3. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam 52

2.3.3.1. Nhận diện và phân tích nguyên nhân RRTK 52

2.3.3.2. Đo lường rủi ro thanh khoản 53

2.3.3.3. Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro thanh khoản 58

2.3.3.4. Tài trợ rủi ro thanh khoản 65

2.3.4. Đánh giá chung về hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam trong các năm vừa qua 67

2.3.4.1. Kết quả đạt được 67

2.3.4.2. Những điểm tồn tại 68

2.3.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại 69

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 72

3.1. Dự báo xu hướng RRTK của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới 72

3.1.1. Về tình hình kinh tế 72

3.1.2. Về rủi ro thanh khoản 73

3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 74

3.2.1. Đảm bảo vốn tự có ở mức cần thiết 75

3.2.2. Đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa Tài sản có và Tài sản nợ 76

3.2.3. Tăng cường công tác dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô 76

3.2.4.Đổi mới công tác quản trị rủi ro thanh khoản theo mô hình CAMELS 77

3.2.5. Đẩy mạnh công tác huy động vốn và đa dạng hóa nguồn vốn huy động 77

3.2.6. Không cho phép rút tiền trước kỳ hạn 78

3.2.7. Tăng cường công tác thẩm định khách hàng và công tác kiểm toán 78

3.2.8. Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp 79

3.2.9. Nâng cao công tác quảng bá hình ảnh, thương hiệu ngân hàng 79

3.2.10. Xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ hợp lý 80

3.3. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 81

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong công tác 81

3.3.2. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại 84

3.3.3. Đẩy mạnh công tác chống lạm phát 85

3.3.4. Tăng cường và nâng cao công tác giám sát từ xa hoạt động của các NHTM 87

3.3.5. Khoanh vùng các NHTM yếu thanh khoản 87

3.3.6. Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và vừa đủ 88

3.3.7. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các NHTMNN 88

3.3.8. Nâng cao công tác cung cấp thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (Credit Information Center - CIC) 89

KẾT LUẬN 90

 

 

doc98 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11837 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m yết từ 1-2%/năm. Đầu năm 2010, đã có nhiều ý kiến cho rằng tín dụng đang đóng băng, thực tế thì không hẳn vậy, tín dụng vẫn gia tăng một cách hạn chế nhưng không đồng đều cho các đối tượng và mọi thành phần, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng hiện vẫn là ưu thế của đa số các DN lớn, sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu, và những dự án lớn của một số DN nước ngoài. Nhiều NHTM đã nói không với khách hàng DN nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân. Các DN này phải đi vay vốn bên ngoài với lãi suất cao. Riêng năm 2011, mục tiêu số 1 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, 4 tháng đầu năm 2011, NHNN tiếp tục thực thi và giám sát gắt gao việc thắt chặt tiền tệ. Công cụ đầu tiên mà NHNN thực hiện là lãi suất: 3/3/2011, NHNN ban hành Thông tư 02/2011/TT-NHNN quy định về lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam của các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ TCTD) và cá nhân gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14,5%/năm. Trong khi đó, nguy cơ về tăng DTBB cũng có thể sẽ xảy ra khiến nỗi lo thanh khoản của các ngân hàng ngày càng lớn. Đầu năm 2011, NHNN đã tăng các lãi suất chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng. Dưới đây là bảng tổng hợp số lần tăng lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu đầu năm 2011. Bảng số 1: Các lần tăng lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu trong 4 tháng đầu năm 2011 Tham khảo tại: Ngày áp dụng Lãi suất tái cấp vốn Lãi suất chiết khẩu 1/5/2011 14% 13% 1/4/2011 13% 12% 8/3/2011 12% 12% 17/2/2011 11% 7% Với những quyết định trên, cho thấy nhà điều hành tiếp tục thực hiện CSTT thắt chặt để góp phần kiềm chế lạm phát. Nguồn cung tiền từ NHTW bị thắt chặt mạnh mẽ khiến cho những ngân hàng nhỏ - vốn trông đợi nhiều từ nguồn này - rơi vào tình thế khó khăn và đối mặt với nhiều rủi ro về thanh khoản. Không còn cách nào khác, các ngân hàng phải áp dụng biện pháp cũ nhưng dễ và hiệu quả: Tăng lãi suất huy động để hút vốn nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt. Người dân có tiền đi gửi tại các ngân hàng hiện nay - nếu có số dư ít thì nhận được những khuyến mãi khá lớn, nếu có số dư lớn trên 500 triệu thì hoàn toàn có thể thỏa thuận đẩy mức lãi suất vượt rào lên trên 17%. NHNN đã cảnh báo, kiểm tra và xử lý một vài trường hợp, song thực tế, vẫn có nhiều cách để lách. Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát như hiện nay, nguồn vốn đổ vào các ngân hàng vẫn không có nhiều dấu hiệu khả quan. Người gửi tiền vẫn có xu hướng gửi ngắn hạn và chờ đợi những cơ hội rút tiền ra đầu tư hay gửi ở ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, hệ số an toàn vốn tối thiểu của NHTM Việt Nam là một trong những chỉ tiêu cho thấy mức độ RRTK mà các ngân hàng đang phải đối mặt. Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tỉ lệ an toàn vốn được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100% Bằng tỉ lệ này người ta có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Chính vì lý do trên, các nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Hiện nay, để đảm bảo an toàn thanh khoản ở mức hợp lý, NHNN Việt Nam đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của các TCTD. Theo đó, hệ số CAR của các TCTD phải duy trì ở mức 9%, còn theo Hiệp ước Basel II thì hệ số này là 8%. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, hệ số CAR vẫn chưa đảm bảo được đúng mức quy định của tiêu chuẩn quốc tế cũng như Thông tư 13, điều này phản ánh mức rủi ro thanh khoản mà NHTM Việt Nam đang phải đối mặt. Sau đây là bảng tổng hợp và tính toán hệ số CAR của một số NHTM Việt Nam năm 2008 -2010. Bảng số 2: Hệ số CAR của một số NHTM Việt Nam từ 2008 - 2010 STT Ngân hàng Hệ số CAR (%) STT Ngân hàng Hệ số CAR (%) 2008 2009 2010 2008 2009 2010 1 Agribank 7,2 7,8 8,5 6 Sacombank 12,16 11,41 9,97 2 BIDV 6,7 7,55 8,2 7 SHB 16,9 12,23 15,00 3 Vietcombank 8,9 8,11 8,45 8 ACB 12,44 9,73 9,00 4 Vietinbank 7,27 8,06 10,00 9 Kienlongbank 13,2 21,62 22,01 5 Techcombank 13,99 11,54 11,54 10 NamAbank 29,81 19,24 15,8 Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam từ 2008 - 2010 Dựa vào bảng số 2 có thể thấy, trong số 10 NHTM, có 7 ngân hàng đạt tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, còn 3 ngân hàng trong đó đều là những ngân hàng có vốn điều lệ lớn so với các ngân hàng khác thì vẫn chưa hoàn thành chỉ tiêu đó là Ngân hàng Agribank, BIDV và Vietcombank. Tính trung bình trong năm 2008, hệ số CAR của các NHTM Việt Nam là 15,13%, năm 2009 giảm xuống còn 11.54%, năm 2010 tỷ lệ này là 11,62%. Theo các chuyên gia ngân hàng tỷ lệ này tốt nhất nên đạt trong tầm 12%. Còn theo dự thảo mới của Ủy ban Basel tỷ lệ này có thể sẽ được nâng lên 16% thay vì mức 8% như hiện nay. Như vậy, có thể thấy, hiện nay, một số NHTM Việt Nam vẫn chưa đạt được hệ số CAR như quy định, khi tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của NHTM chỉ đạt ở mức thấp thì rủi ro thanh khoản của NHTM càng có nguy cơ xảy ra. 2.2.2. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam Đối với NHTM Thứ nhất, thanh khoản của một số NHTM nhỏ bị giảm sút nghiêm trọng. Cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM đã làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Dù lãi suất huy động tăng cao nhưng khả năng thu hút vốn của các NHTM Việt Nam xem ra không khả thi. Thứ hai, các NHTM Việt Nam đứng trước mối nguy về pháp luật. Khi mà NHNN đã ra Quyết định lãi suất huy động tiền gửi là không vượt quá 14%, các NHTM tiếp tục huy động lãi suất chui bằng những chiêu khuyến mại dành cho khách hàng gửi tiền trên 12 tháng và là khách hàng quen của NHTM. Một số chiêu lách luật được các NHTM sử dụng như thông qua hình thức khuyến mại “cào là trúng”, đặc biệt là sản phẩm huy động VND đảm bảo bằng USD. Ngoài việc tăng lãi suất tiết kiệm lên kịch trần ở hầu hết các kỳ hạn nhưng Ngân hàng cổ phần Kiên Long còn tặng thêm balo du lịch, vali kéo, bộ chén, bộ ấm trà, đèn sạc cao cấp, quạt điều khiển từ xa, quạt hơi nước… cho khách hàng gửi tiền. Ngân hàng Đông Á cũng làm tương tự với quà khuyến mại là áo mưa, bộ chén thủy tinh, túi du lịch… Ngân hàng này còn bổ sung thêm ưu đãi về mua ngoại tệ để đi nước ngoài với các khách hàng gửi tiền có số dư ở mức nhất định. Còn Ngân hàng cổ phần Phương Tây tặng khách hàng gửi tiết kiệm những đồ vật có giá trị hơn như nồi cơm điện, lẩu điện, bếp điện từ, máy xay sinh tố, chảo không dính… Điều này không chỉ khiến các ngân hàng vướng phải các vấn đề liên quan đến pháp luật mà còn khiến các ngân hàng này gặp phải rủi ro với các sản phẩm huy động linh hoạt. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kỳ hạn “được rút gốc linh hoạt” và khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi”; “tiết kiệm lãi suất thả nổi” với đặc tính “cho phép khách hàng được rút trước hạn mà vẫn được hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫn”. Khi khách hàng rút trước hạn hay do thị trường có biến động hoặc khi tâm lý người gửi tiền bị tác động bởi các thông tin sai lệch, ngân hàng có thể sẽ rơi vào nguy cơ rủi ro thanh khoản. Thứ ba, hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm khoảng 30- 40%. Đối với nền kinh tế - xã hội: Thứ nhất, RRTK gây khó khăn cho các DN trong việc sản xuất và kinh doanh. Các giải pháp rút tiền từ lưu thông về tuy được coi là cần thiết nhưng với liều lượng lớn và nhanh một cách gấp gáp đã khiến dẫn đến cuộc đua lãi suất giữa các NHTM bùng nổ, đẩy lãi suất huy động và cho vay liên tiếp kịch trần, lãi suất liên ngân hàng liên tục gia tăng kỷ lục, buộc các NHTM phải siết chặt các khoản cho vay ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Chi phí vốn cao cản trở các DN tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thêm vào đó, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh khiến một số DN sản xuất kinh doanh thua lỗ, đình đốn, nợ xấu gia tăng. Thứ hai, niềm tin của công chúng đối với độ an toàn của các NHTM đã giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay, tuy các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức huy động vốn nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, số vốn huy động được không mấy khả thi. Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao như hiện nay, người dân vẫn có xu hướng gửi tiền ngắn hạn để tìm kiếm những cơ hội đầu tư khác mang lại lợi nhuận cao hơn. Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội. Nguyên nhân gây RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Về phía các NHTM, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách QTRR làm mất cân đối tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của NHNN Việt Nam. Ngân hàng chủ yếu tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành. Trong bối cảnh đó, khi thị trường có biến động bất ngờ, khách hàng lũ lượt kéo đến rút tiền thì ngân hàng khó có thể xoay chuyển kịp thời, dẫn đến bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư. Thứ hai, không cân xứng về kỳ hạn của TSC và TSN. Trong điều kiện thị trường biến động nhanh, người gửi tiền thường chọn kỳ hạn ngắn. Do vậy, tỷ trọng huy động vốn kỳ hạn ngắn trong tổng số vốn huy động cao, trong khi nhu cầu vay vốn thường dài hơn, nên nhiều NHTM đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn vượt quá tỷ lệ quy định (Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, tỷ lệ vốn ngắn hạn tài trợ cho vay trung dài hạn là 40% đối với NHTM và 30% đối với các TCTD khác). Do vậy, mất cân đối cơ cấu kỳ hạn cũng tiềm ẩn RRTK. Thực tế, tình hình huy động vốn trung và dài hạn của các TCTD còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến các rủi ro tiềm ẩn do chênh lệch về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Vì thế, Ngày 10/8/2009, NHNN đã ban hành Thông tư số 15/2009/TT-NHNN quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam là 30%. Thứ tư, quy mô vốn điều lệ của NHTM Việt Nam còn ít, tiềm lực tài chính còn chưa đủ mạnh, điều này khiến cho hoạt động của các NHTM trở nên khó khăn, khả năng đảm bảo tỷ lệ CAR cũng gặp nhiều trở ngại. Sau đây là bảng tổng hợp vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây. Bảng số 3: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam từ 2008 – 2010 Đơn vị: Tỷ VND STT Ngân hàng Vốn tự có STT Ngân hàng Vốn tự có 2008 2009 2010 2008 2009 2010 1 Agribank 10.924 10.924 21.000 6 Sacombank 5.115 6.700 9.179 2 BIDV 8.755 10.499 14.903 7 SHB 2.000 2.145 3.680 3 Vietcombank 12.100 13.223 17.587 8 ACB 6.355 6.355 7.705 4 Vietinbank 7.609 15.200 16.858 9 Kienlongbank 1.000 1.000 2.000 5 Techcombank 3.642 5.400 6.932 10 NamAbank 1.253 2.000 2.000 Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM từ 2008 – 2010 Ngày 22/11/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định mức vốn pháp định đối với NHTMNN đến năm 2008 là 3.000 tỷ đồng, còn NHTMCP đến năm 2008 là 1.000 tỷ đồng, đến 2010 là 3.000 tỷ đồng. TCTD được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp đảm bảo có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương vốn pháp định. Kết quả tổng hợp cho thấy, sau khi Nghị định số 141/2006/NĐ-CP được ban hành thì các NHTM Việt Nam đang dần tăng vốn điều lệ lên theo từng năm. Trong 10 ngân hàng trên, có 8 ngân hàng đã đạt được chỉ tiêu, còn hai ngân hàng là Kienlongbank và NamAbank là vẫn chưa hoàn thành. So sánh với các ngân hàng ở các nước trong khu vực cho thấy mức vốn điều lệ của NHTM Việt Nam còn khá nhỏ bé, phần lớn các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn điều lệ vào cỡ 1000 đến 7000 tỷ VND. Cá biệt một số ngân hàng có vốn điều lệ tương đối lớn như: Agribank hơn 21 nghìn tỷ VND năm 2010 Báo cáo thường niên của Agribank năm 2010, trang 44. , Vietcombank là 17 nghìn tỷ đồng tính đến cuối năm 2010 Báo cáo thường niên của Vietcombank năm 2010, trang 7. , nhưng vẫn chưa bằng một ngân hàng hạng trung bình trong khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 20 nghìn tỷ VND (Tỷ giá theo NHNN công bố ngày 3/4/2011). Vốn điều lệ thấp, năng lực tài chính còn hạn chế, khiến các NHTM Việt Nam khó khăn trong việc đáp ứng hệ số CAR như quy định. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm trở lại đây. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, chính sách kinh tế vĩ mô. Để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt bằng công cụ lãi suất: Lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ TCTD) và cá nhân gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Khi lãi suất huy động được ấn định ở mức như vậy thì khả năng thu hút vốn từ dân cư đối với các NHTM đặc biệt là các NHTM quy mô nhỏ là vô cùng khó khăn. Chưa kể, khả năng tăng tỷ lệ DTBB đối với NHTM cũng là một trong những nhân tố gây nên RRTK cho NHTM Việt Nam. Thứ hai, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, bởi lãi suất huy động thấp hơn tỷ suất lợi nhuận của một số kênh đầu tư khác. Trong khi lãi suất tiết kiệm tiền đồng trong năm 2009 chỉ khoảng 8%/năm, thì giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,2%, giá vàng tăng 35,1%, VN-Index tăng 86,02%. Mặc dù mức lãi suất tiết kiệm như trên không thấp, nhưng các ngân hàng vẫn khó thu hút lượng tiền tiết kiệm mới. Trong khi đó, một phần tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cao trong năm trước nay đáo hạn đã không được gửi lại tiết kiệm, mặc dù các NHTM đã tăng lãi suất huy động. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam trong mấy năm gần đây Nhận thức về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam Một điều đáng quan ngại là nhận thức về QTRRTK ở các NHTM Việt Nam còn đang rất bất cập, RRTK và QTRRTK chưa được quan tâm thích đáng so với tầm quan trọng của nó. Trong các năm gần đây, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái là các rủi ro được các NHTM chú trọng hơn cả do đây là loại rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý của các ngân hàng. Đặc biệt, với mục tiêu mức tăng trưởng tín dụng thời điểm đầu năm 2011 là 20%, các NHTM Việt Nam chủ yếu tuyển cán bộ quản trị rủi ro vào để quản lý rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro thanh khoản vẫn chỉ được xem là nhiệm vụ thêm vào của các cán bộ này. Cụ thể, về cơ cấu tổ chức, QTRRTK, điều tra khảo sát tại các NHTM Việt Nam cho thấy chưa ngân hàng nào có bộ phận QTRRTK riêng. Sau khi NHNN có quy định các ngân hàng phải bổ nhiệm cán bộ phụ trách quản lý chiến lược và chính sách đảm bảo khả năng chi trả và sau một số vụ RRTK đã diễn ra trong nước, các NHTM cũng đã có sự quan tâm đến cơ cấu tổ chức thanh khoản. Tuy nhiên, bộ phận này không có chức danh rõ ràng, không thống nhất ở các ngân hàng. Thường các ngân hàng không bổ nhiệm cán bộ quản lý RRTK độc lập mà thường có sự kiêm nhiệm chức năng. Tại một số ngân hàng như ACB có bộ phận quản lý TSC – TSN chịu trách nhiệm quản lý RRTK ACB, Bản công bố thông tin 2007, trang 3. , các NHTM khác như Techcombank có phòng QTRR trong đó mỗi cán bộ chịu trách nhiệm quản lý nhiều rủi ro, từ rủi ro tín dụng đến rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất và RRTK. Tại BIDV thì hoạt động QTRRTK được giao cho một bộ phận của phòng nguồn vốn. Một số ngân hàng như VP bank thì việc quản trị rủi ro thanh khoản lại do hai phòng đảm nhiệm: Phòng tổng hợp có nhiệm vụ tính các chỉ tiêu về thanh khoản như tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh khoản…, phòng ngân quỹ có nhiệm vụ điều chỉnh dự trữ cho phù hợp VPBank, báo cáo thường niên năm 2007, trang 13. . Không chỉ thiếu sự thống nhất trong quản trị RRTK, các NHTM Việt Nam còn gặp khó khăn trong năng lực của các cán bộ quản trị RRTK. Quản trị rủi ro vốn là một lĩnh vực đầy thách thức, đòi hỏi cả kinh nghiệm lẫn kiến thức chuyên môn sâu rộng. Nhân lực được đào tạo bài bản về quản trị rủi ro ở các NHTM Việt Nam vốn đã ít nay lại bị thu hút sang các ngân hàng nước ngoài với mức lương hấp dẫn hơn, môi trường làm việc năng động hơn. Bên cạnh đó, ở các NHTM Việt Nam, rất nhiều nhân viên phụ trách QTRRTK là các nhân viên trẻ và kiến thức mà họ có được là do chính các ngân hàng đào tạo. Điều này tuy có mặt tích cực là thích nghi với điều kiện cụ thể nhưng lại có mặt hạn chế là nhân viên QTRRTK dễ dàng bị chi phối vởi các mục tiêu như lợi nhuận, tăng trưởng của ngân hàng và thiếu một cái nhìn khách quan về RRTK. Như vậy, có thể thấy, đối với NHTM Việt Nam, nhận thức về RRTK cũng như QTRRTK chưa thực sự được chú trọng, tầm nhìn chiến lược của ban quản lý chưa cao, họ chỉ nhìn ở những rủi ro trước mắt như rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất…mà quên mất còn hiện hữu và sẵn sàng xảy ra trong bất cứ giai đoạn nào của ngân hàng và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam là rủi ro thanh khoản. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro thanh khoản Nhân tố chủ quan Thứ nhất, nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của ngân hàng như trình độ đội ngũ cán bộ, trình độ công nghệ, số lượng thị phần, uy tín của ngân hàng trên thị trường. Hiện nay, như phân tích ở trên, nhận thức và trình độ đội ngũ cán bộ quản trị rủi ro còn rất hạn chế. Các NHTM Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến mối nguy hại của rủi ro thanh khoản dẫn đến tư tưởng chủ quan, chưa đề cao công tác đào tạo, quản lý các chuyên viên chuyên về quản trị rủi ro thanh khoản. Khả năng cân đối vốn và khả năng phân tích dự báo kinh tế vĩ mô vẫn còn hạn chế. NHTM Việt Nam chưa chủ động trong công tác nhận diện, phòng ngừa và đo lường rủi ro thanh khoản. Thứ hai, trong mấy năm gần đây, vì sức ép về tăng trưởng tín dụng, các NHTM hầu hết ưu tiên nâng cao khả năng sinh lời hơn ưu tiên cho mức độ an toàn trong thanh khoản. Do vậy, tỷ lệ dự trữ thanh khoản trong quỹ dự phòng của các NHTM Việt Nam vẫn còn tương đối ít. Cuối cùng là chính sách huy động và sử dụng vốn của ngân hàng: Nhìn chung, các ngân hàng đều thiết lập một chính sách huy động và sử dụng sao cho các dòng tiền vào đều đặn sẽ đáp ứng nhu cầu tín dụng và đầu tư dự kiến, đồng thời duy trì thanh khoản ở mức cần thiết. Tuy nhiên, với những thực tế trong mấy năm trở lại đây cho thấy, khả năng huy động vốn của ngân hàng còn rất khó khăn. Người dân vẫn có xu hướng gửi tiền ngắn hạn, còn ngân hàng cho vay lại chủ yếu ở dài hạn. Chính vì thế đã tạo nên sự mất cân bằng trong kỳ hạn tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Nhân tố khách quan Thứ nhất là nhóm nhân tố liên quan đến chính sách vĩ mô của Chính phủ và NHTW. Nhân tố này bao gồm: Nghiệp vụ thị trường mở, quy định về tỷ lệ DTBB, LSCK và tái chiết khấu. Như đã phân tích ở trên, từ năm 2008 – 2010, chính sách được ưu tiên nhất là chính sách thắt chặt tiền tệ, chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính vì thế, nhiều biện pháp được đưa ra trong đó bao gồm: Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, áp trần lãi suất huy động…khiến cho NHTM khó khăn trong việc huy động nguồn vốn vào. Thứ hai là môi trường pháp lý tạo điều kiện phát triển cho các NHTM Việt Nam. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM tiến dần từng bước đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thời gian qua. Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%. Về phía các TCTD Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định theo tiêu chuẩn quốc tế, NHNN Việt Nam cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của quốc gia và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II. Cho đến nay, các văn bản pháp luật của Nhà nước và ngành liên quan đến công tác QTRRTK đã được nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Chúng được đề cập tại chương 5, điều 130 Luật các TCTD số 47/2010/QH12. Ngoài ra, các nội dung có liên quan được thể hiện trong các văn bản như: Về tỷ lệ DTBB đối với các TCTD: Quyết định số 187/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh DTBB đối với các TCTD ban hành ngày 16/01/2008. Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 của Thống đốc NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với các TCTD. Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với các TCTD. Quyết định số 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với TCTD của Thống đốc NHNN. Quyết định số 379/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ dự DTBB đối với các TCTD ban hành ngày 24/02/2009 Về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong kinh doanh của các TCTD: Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD. Theo Quyết định này, chỉ tiêu sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho trung và dài hạn của các NHTM tối đa bằng 40%, và đối với các TCTD khác là 30%. Thông tư số 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 sửa đổi Quyết định số 457 trên về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các TCTD. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Thống đốc NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn của các TCTD. Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010 của NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 13/2010/TT-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong họat động của tổ chức tín dụng. Quyết định về trần lãi suất huy động: Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định lãi suất huy động vốn tối đa bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, về việc hạn chế rủi ro trong kinh doanh của các TCTD có Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN về việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh của các TCTD ngày 23/05/2006 của Thống đốc NHNN. Về phía cơ quan quản lý, mới đây, NHNN Việt Nam đang khẩn trương hoàn thiện để ban hành quy định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam. Bên cạnh đó là sự phát triển và cạnh tranh của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác trong nước, khu vực và quốc tế, độ nhạy cảm của tiền gửi với lãi suất, mạng lưới ngân hàng…tác động đến khả năng huy động nguồn vốn một cách nhanh chóng với chi phí thấp nhất. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam Nhận diện và phân tích nguyên nhân RRTK Không một ngân hàng nào có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng dự trữ thanh khoản của họ là hợp lý và đủ để không bị rơi vào tình trạng RRTK nếu chưa vượt qua những thử thách của thị trường. Những thử thách này được biểu hiện qua những dấu hiệu nhận dạng như: Lòng tin của công chúng sụt giảm, giá cổ phiếu của ngân hàng biến động giảm, ngân hàng chấp nhận chịu lỗ khi bán tài sản, khả năng đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng kém, ngân hàng huy động lãi suất với mức chi phí cắt cổ và NHTM cần đến sự giúp đỡ của NHTW… Thông thường, thời điểm mà dòng tiền ra của NHTM tăng mạnh là cuối năm. Bởi đây là lúc mà các DN cần vốn lớn để trang trải các khoản chi phí phát sinh cho cả năm ví dụ như: Các khoản nợ lương cán bộ, nợ doanh nghiệp khác, nợ công chính phủ…chính vì thế có thể nói đây là thời điểm mà NHTM dễ phải đối mặt với trạng thái thâm hụt thanh khoản nhất. Thời điểm năm 2008 và cuối 2010 đầu 2011 đã chứng kiến cuộc chạy đua tăng vốn huy động của các NHTM bất chấp Quyết định của NHNN quy định về trần lãi suất huy động ở mức 14%. Thời điểm đó, thay vì thực hiện theo đúng quy định của NHNN, các NHTM liên tục thực hiện các biện pháp khuyến mãi cho k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112661.doc
Tài liệu liên quan