Khóa luận Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam

MỤC LỤC

Mục lục 1

LỜI MỞ ĐẦU 3

1. Sự cần thiết của đề tài 3

2.Mục đích nghiên cứu của đề tài 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4

4. Phương pháp nghiên cứu 4

5. Kết cấu đề tài 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐẾ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐIỀU Ở NƯỚC TA 5

1.1 Giới thiệu chung về cây điều và ngành điều ở nước ta 5

1.1.1 Giới thiệu khái quát về cây điều 5

1.1.2 Giới thiệu chung về ngành điều Việt Nam 6

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hạt điều 9

1.3. Vai trò và ý nghĩa của sản xuất và xuất khẩu hạt điều đối với nền kinh tế quốc dân 10

1.3.1 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều làm tăng vốn và phát triển khoa học công nghệ, góp phần thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước 11

1.3.2 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cải biến cơ cấu kinh tế và tạo cân bằng môi trường sinh thái 12

1.3.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống người lao động 13

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA VIỆT NAM 15

2.1. Tình hình xuất khẩu hạt điều cửa Việt Nam trong thời gian qua 15

2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam những năm gần đây 15

2.1.2 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 18

2.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam 19

2.2 Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam trong thời gian qua 22

2.2.1. Những thành công trong hoạt động xuất khẩu điều của nước ta 22

2.2.2. Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta 23

2.2.3. Nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta 24

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA NƯỚC TA 27

3.1 Định hướng cho hoạt động xuất khẩu điều ở Việt Nam 27

3.1.1 Quan điểm phát triển 27

3.1.2. Định hướng phát triển 28

3.2 Một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta 31

3.2.1 Nhóm giải pháp tầm vi mô 31

3.2.2 Nhóm giải pháp tầm vĩ mô 35

KẾT LUẬN 38

TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8298 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân của hiện tượng ấy là do sự tàn phá rừng, sự lạm dụng phân hóa học trong trồng trọt và các hóa chất khác, sự tiêu diệt những vi sinh vật có ích... Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải phủ xanh đất trống, đồi trọc, hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, tăng độ phì nhiêu và hiệu quả sử dụng đất. Trước thực trạng môi trường như vậy, xuất phát từ quan điểm cây điều là một loại cây lâm nghiệp phù hợp với trình độ sản xuất của đồng bào dân tộc, đáp ứng được yêu cầu phòng hộ vùng đầu nguồn và được đưa vào trong các chương trình khuyến khích trồng rừng như chương trình 327, PALM... việc trồng cây điều đã góp phần không nhỏ vào việc trồng, phát triển rừng và giữ gìn môi trường sinh thái. 1.3.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống người lao động Cây điều còn được coi là cây của vùng đất bạc màu, cây của người nghèo bởi đây là một trong những loại cây trồng chủ chốt trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của nước ta. Trong những năm gần đây, giá trị kinh tế của cây điều càng được khẳng định. Nếu đem so với một cây kinh tế chủ yếu khác của địa phương thì như vậy việc trồng cây điều sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn mà quá trình thu hoạch, bảo quản sản phẩm lại đơn giản hơn rất nhiều. Việc phát triển sản xuất và xuất khẩu điều còn tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu thống kê của VINACAS thì hiện nay có khoảng 800.000 người sống bằng nghề trồng điều và tổng số lao động trực tiếp đang làm việc trong các nhà máy sản xuất, chế biến, xuất khẩu hạt điều vào khoảng 120.000 người, chưa kể số lao động gián tiếp và lao động nông nhàn tham gia sản xuất khi vào vụ thu hoạch, ước tính cứ 1000 tấn điều thô cần chế biến sẽ giải quyết việc làm cho 250 người lao động trong 1 năm sản xuất với mức thu nhập 500 - 700USD/năm/người. Nhờ việc nhân rộng cây điều, ở nhiều địa phương nay không còn hộ đói và giảm hẳn số hộ nghèo. ở nhiều nơi, cây điều không còn là cây xóa đói giảm nghèo mà đã trở thành cây làm giàu của nhiều hộ gia đình. Từ đó cuộc sống nông thôn được cải thiện, giặc đói nghèo được diệt tận gốc, thanh niên nam nữ không còn kèo về thành thị tìm công ăn việc làm gây xáo trộn trật tự xã hội nữa, đồi trọc đất trống được phủ xanh, môi trường sinh thái được bảo vệ, người nông dân được làm chủ, tự tay chăm sóc, tự bảo vệ lấy tài sản của mình, không còn tình trạng phá rừng vì sự sống nữa, nếp sống của dân cư thực sự đi vào nề nếp. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA VIỆT NAM 2.1. Tình hình xuất khẩu hạt điều cửa Việt Nam trong thời gian qua 2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam những năm gần đây Công tác xuất khẩu của ngành điều trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu hạt điều ngày càng mở rộng với khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu, trong khoảng 5 năm gần đây, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như gạo, lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, nhân điều đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều tăng lên một cách đáng kinh ngạc. Riêng năm 2004 kim ngạch xuất khẩu điều đạt con số 430 triệu USD(103.000 tấn), so với năm 2003 tăng 25% về sản lượng và 40% về giá trị. Và năm 2005, do giá điều thế giới tăng, nên kim ngạch xuất khẩu tăng 10,3%, đạt 418 triệu USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu điều lớn thứ 2 thế giới, sau Ấn Độ. Năm 2006, VN đã vượt Ấn Độ - "cường quốc" về cây điều - để trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về XK hạt điều. Chất lượng nhân điều VN cũng được ca ngợi là số 1, là thơm ngon hơn hẳn nhân điều của Ấn Độ, Brazil hay Tanzania... Thật vậy, năm 2006, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu được 127.000 tấn nhân điều, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 504 triệu USD; trong khi Ấn Độ chỉ xuất khẩu có 118.000 tấn nhân điều. Chính kết quả này đã đẩy VN lên ngôi vị XK nhân điều hàng đầu thế giới trong năm 2006. Năm 2007, tiếp tục lần thứ hai Việt Nam đứng số 1 thế giới về XK hạt điều, đồng thời đạt mức cao kỷ lục về số lượng cũng như trị giá. Cả năm 2007, nước ta xuất khẩu được 151,73 ngàn tấn hạt điều các loại với trị giá 650,6 triệu USD, tăng 19,66% về lượng và tăng 29,15% về trị giá so với năm 2006; tăng 39,24% về lượng và tăng 29,73% về trị giá so với năm 2005. Năm 2008, cả nước xuất khẩu 167.000 tấn hạt điều, đạt kim ngạch 920 triệu USD, tăng trên 40% về giá trị so năm 2007. Tuy giá trị xuất khẩu chỉ bằng gần một nửa so với cà phê, nhưng hạt điều vẫn thuộc nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ lực. Theo số liệu thống kê, trong tháng 4/2009, cả nước xuất khẩu được 12,5 nghìn tấn hạt điều với trị giá 54,6 triệu USD, tăng 13,8% về lượng và tăng 17% về trị giá so với tháng 3/2009; tăng 10% về lượng nhưng vẫn giảm 13,6% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tính đến hết tháng 4/2009 ngành điều của nước ta xuất khẩu đạt 44 nghìn tấn với kim ngạch 194 triệu USD, tăng 5,9% về lượng nhưng giảm 6,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, lượng hạt điều xuất khẩu của cả nước trong tháng 7/2009 đạt 20.591 tấn với kim ngạch 100,08 triệu USD, tăng 23,3% về lượng và tăng 31,8% về kim ngạch so với tháng trước, đây là tháng thứ 5 liên tiếp kể từ đầu năm đến nay lượng hạt điều xuất khẩu tăng liên tục, còn so với cùng kỳ năm 2008 thì mặc dù giảm nhẹ 4,1% về kim ngạch nhưng lại tăng 22% về lượng. Như vậy, tổng lượng điều xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm lên đến 95.093 tấn với kim ngạch 431,71 triệu USD, tăng 6,05% về lượng song lại giảm 12,6% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năm 2008. Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu điều trong tính đến tháng 8/2009 ( triệu USD_ nghìn tấn) Khối lượng, giá trị 8T/2008 và tăng trưởng so với 2007 Khối lượng, giá trị 8T/2009 và tăng trưởng so với 2008 Lượng Giá trị +/- Lượng +/- Giá trị Lượng Giá trị +/- Lượng +/- Giá trị 109 597 112.00 149.60 115 527 106.00 86.50 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu điều năm 2008-2009 (triệu USD) (Nguồn: số liệu của tổng cục hải quan) Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu điều so với các nông sản chủ lực khác 9 tháng đầu năm 2009 (Triệu USD) ( Nguồn: tổng hợp từ số liệu của tổng cục thống kê) 2.1.2 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Nhìn chung, ngành điều đã rất nỗ lực trong việc đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm điều cho xuất khẩu và đã chú ý nhiều đến việc nâng cao tỷ trọng các mặt hàng điều chất lượng cao. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, không phải cứ có lợi thế sản xuất loại nào thì xuất khẩu loại ấy, mà ở mỗi thị trường khác nhau, nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Do đó, cần phải căn cứ và xem xét nhu cầu thị trường để đưa ra và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm cho phù hợp. Trong cơ cấu sản phẩm hạt điều xuất khẩu của Việt Nam, nhân điều chiếm một tỷ trọng lớn, trung bình hơn 85%. Điều này cho thấy hạt điều nhân là mặt hàng chủ lực của ngành điều Việt Nam. Lượng xuất khẩu điều nhân của Việt Nam là rất lớn, đứng thứ nhất trên thế giới, chủ yếu là do nhu cầu tiêu thụ trên thế giới liên tục tăng. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội điều Việt Nam, trong 3 năm từ 2006 đến 2008, toàn ngành điều cả nước đã nhập khẩu hơn 1,5 triệu tấn điều thô, trong đó hơn 500 nghìn tấn được nhập khẩu từ các nước châu Phi như: Bờ Biển Ngà (trên 50%), Guinea Bissau, Mozambique và một số nước châu Á như Indonesia, Campuchia với trị giá bình quân trên dưới 100 triệu USD mỗi năm. Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết, diện tích canh tác điều cả nước hiện nay khoảng 400 nghìn ha, trong đó chỉ có khoảng 300 nghìn ha có thu hoạch, giảm khoảng 30 nghìn ha so với các niên vụ trước. Do vậy, năm nay các doanh nghiệp Việt Nam dự kiến sẽ nhập khoảng 200 nghìn tấn điều thô để đáp ứng công suất chế biến và nhu cầu xuất khẩu, tương ứng khoảng 100-140 triệu USD. Nhập khẩu điều nguyên liệu của Việt Nam trong tháng 8/2009 đạt 24,2 triệu USD, mức cao nhất kể từ đầu năm 2009, tăng 7,7% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu điều nhân đã tạo ra bước phát triển nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, hàng năm, nước ta còn nhập một số lượng lớn điều thô (năm 2007 nhập150 ngàn tấn) từ các nước Tây phi và Cam–pu-chia để chế biến và tái xuất, góp phần nâng cao giá trị và vị thế của ngành điều Viêt Nam. Từ năm 2003 đến nay, Việt Nam là nước đứng thứ 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) về xuất khẩu điều nhân. Sản phẩm điều Việt Nam đã xuất khẩu sang 52 nước trên thế giới, chiếm khoảng 20% thị phần xuất khẩu điều thế giới và được thế giới đánh giá có chất lượng tốt. Bên cạnh sản phẩm nhân điều, dầu vỏ hạt điều cũng được xuất khẩu với khối lượng ngày càng tăng song hiện nay việc tìm thị trường cho sản phẩm này rất khó bởi ta phải cạnh tranh với sản phẩm của ấn Độ với trình độ công nghệ và chất lượng cao hơn. Các sản phẩm khác như mứt điều, nước giải khát điều... tuy đã được sản xuất nhưng dường như chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường bởi chất lượng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng quốc tế. Căn cứ nhu cầu thị trường, các nhà máy nên đầu tư phát triển chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, tạo nên sự phát triển bền vững. 2.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam Có thể nói rằng công tác thị trường của sản phẩm hạt điều xuất khẩu đã đạt được những tiến bộ lớn. Hiện nay sản phẩm điều của Việt Nam đã có mặt ở hơn 60 nước và vùng lãnh thổ, một số sản phẩm bắt đầu chiếm lĩnh được thị trường. Các thị trường chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là Trung Quốc, Mỹ, Anh, Trung Quốc... Điều nhân là một sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, được xếp vị trí thứ hai trong số các hạt có dầu chỉ sau hạnh nhân về mức độ ngon và bổ dưỡng. Vì quan tâm đến vấn đề bổ dưỡng như vậy, nên hạt điều nhân được đánh giá khá cao ở Mỹ. Trung Quốc là thị trường quan trọng thứ hai của Việt Nam về xuất khẩu hạt điều. Đây cũng là một thị trường hết sức rộng lớn với hơn 1 tỷ dân. Tuy nhiên, ở Trung Quốc hạt điều nhân cũng chỉ được tiêu thụ phần lớn ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Thâm Quyến,... Tóm lại, về các thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam, mỗi thị trường có một đặc điểm riêng. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ các thị trường này để có thể đáp ứng một cách tốt nhất. So với tháng trước, lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều sang các thị trường có sự tăng giảm không đồng đều. Một trong số những thị trường chủ lực của hạt điều xuất khẩu nước ta là thị trường Hoa Kỳ. Với lượng xuất khẩu trong tháng 7/2009 đạt 7.549 tấn với kim ngạch 34,47 triệu USD, tăng 35,6% về lượng và tăng 49,36% về kim ngạch so với tháng trước, còn so với cùng kỳ năm 2008 thì tăng nhẹ 3,55% về kim ngạch và tăng 27,07% về lượng. Tiếp đến là thị trường Hà Lan, so với tháng trước thì tăng cả lượng và kim ngạch lần lượt là: 5,86% và 7,6% với lượng xuất khẩu đạt được trong tháng là 2.690 tấn với kim ngạch 13,51 triệu USD, tuy nhiên tổng lượng hạt điều xuất khẩu trong 7 tháng năm 2009 thì chỉ đạt 13.320 tấn với kim ngạch 67,31 triệu USD, giảm 10,5% về lượng và 17,33% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năma 2008. Tổng lượng hạt điều xuất sang thị trường Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm 2009 đạt 19.141 tấn với kim ngạch 80,83 triệu USD đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ, giảm nhẹ 0,71% về kim ngạch nhưng lại tăng 25,29% về lượng so với 7 tháng năm 2008. Một số thị trường xuất khẩu khác của hạt điều nước ta có sự tăng trưởng cả về lượng và kim ngạch so với tháng trước như: Australia (tăng 53,5% về lượng và 61,86% về trị giá), Canada (tăng 107,05% về lượng và 131,43% về trị giá), Nga (38,7% về lượng và 36,97% về trị giá)… Bảng 2.4: tham khảo thị trường xuất khẩu hạt điều trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2009 (lượng: tấn, trị giá: 1000 USD) Thị trường Tháng 4/09 4 tháng đầu năm 09 Lượng trị giá Lượng trị giá Mỹ 3.430 14.181 13.324 58.318 Trung Quốc 2.910 12.081 10.882 45.458 Hà Lan 1.883 9.651 5.825 29.541 Ôxtrâylia 804 3.612 2.444 11.101 Anh 520 2.279 1.458 6.453 Đức 234 1.058 807 3.840 Canada 134 570 671 2.971 UAE 231 1.014 659 2.489 Nga 221 1.008 634 2.759 Italia 249 594 597 1.528 Thái Lan 175 832 571 2.601 Philippine 60 214 330 1.248 Tây Ban Nha 64 334 318 1.595 Nauy 32 150 255 1.362 Đài Loan 108 599 223 1.186 Bỉ 63 454 222 1.261 Pakistan 43 213 221 1.091 Hồng Kông 44 198 220 1.257 Nhật Bản 73 285 185 741 Malaixia 57 252 137 612 Ucraina 16 45 94 299 Niuzilân 0 0 90 397 Singapore 67 287 86 419 (Nguồn: Tổng cục hải quan) 2.2 Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam trong thời gian qua 2.2.1. Những thành công trong hoạt động xuất khẩu điều của nước ta Tuy mới có gần 20 năm hình thành và phát triển, ngành chế biến – xuất khẩu điều Việt Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục để trở thành quốc gia chế biến – xuất khẩu điều hàng đầu thế giới hiện nay. Thực hiện đề án phát triển điều đến năm 2005 và 2010, các tỉnh đã hoàn thành tốt việc rà soát quy hoạch phát triển điều, dành ngân sách hỗ trợ đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, hỗ trợ đưa giống mới vào sản xuất và hỗ trợ mở rộng diện tích điều cao sản. Các doanh nghiệp đã đầu tư hàng tỷ đồng cho phát triển vùng nguyên liệu, hỗ trợ giống cho nông dân. Nhờ đó, đến nay trong số hơn 400 nghìn ha điều cho thu hoạch, có khoảng 130 nghìn ha điều cao sản, năng suất đạt 2-2,5 tấn, cá biệt có vùng đạt gần ba tấn/ha, tăng hơn năm lần so với giống điều cũ. Trong hai năm 2005 và 2006 ngành điều Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan ở đầu vào (thị trường nguyên liệu trong nước) và đầu ra (thị trường xuất khẩu nhân điều) nên riêng trong năm 2005, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều đã lỗ 1.000 tỉ đồng. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn ấy, Hiệp hội cây điều Việt Nam đã phát huy vai trò của mình trong việc phối hợp hỗ trợ và khuyến cáo các hội viên tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm lợi ích cho nông dân trồng nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Những cố gắng này đã tác động đến tình hình thu mua điều nguyên liệu 2006 và các năm sau nhiều đơn vị đã không còn lỗ, và đã bắt đầu có lãi. Bức tranh tổng thể của ngành điều đã có nhiều nét sáng sủa, đáng mừng, khẳng định bước phát triển đúng hướng của ngành. Về phát triển nguồn nguyên liệu, cây điều có lợi thế rõ rệt nhất là trồng được trên đất bạc mầu, đất trống đồi trọc, điều vừa là cây nông nghiệp vừa là cây lâm nghiệp, mức đầu tư thấp nên rất phù hợp với vùng nông dân nghèo với năng suất điều thô cao và tỷ lệ lãi tốt. Ở Việt Nam có hàng triệu hecta đất trống, đồi núi trọc lại nằm ở khu vực có điều kiện môi trường sinh thái phù hợp cho cây điều phát triển. Công nghệ chế biến điều của VN cũng không ngừng được các nhà nghiên cứu hoàn thiện và hiện trở nên tài sản vô giá, là bí quyết đặc thù thúc đẩy ngành điều VN đạt được những thành công, mà ngay cả những quốc gia vốn có truyền thống sản xuất điều gần 100 năm như Ấn Độ, Brazil... cũng phải ngạc nhiên. 2.2.2. Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta Cùng với những thành tựu đạt được, ngành sản xuất và xuất khẩu điều trong thời gian vừa qua cũng bộc lộ nhiều tồn tại. Mặc dù vụ điều năm 2008 là lần thứ ba liên tiếp, VN dẫn đầu các nước xuất khẩu nhân điều lớn nhất thế giới; song, nhìn lại sự phát triển ngành chế biến – xuất khẩu hạt điều Việt Nam, nhiều người vẫn không khỏi e ngại, bởi còn quá nhiều thách thức khiến cho sức cạnh tranh của ngành điều không cao, phát triển thiếu bền vững, khối lượng xuất khẩu mạnh, nhưng sản xuất phập phù. Một nhà chế biến – xuất khẩu điều đã bày tỏ ý kiến của mình tại cuộc họp về ngành điều được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại TPHCM vào ngày 6.3.2009: "Nói về ngành điều, bao giờ chúng tôi cũng có 2 cảm giác, vừa tự hào, vừa lo âu. Tự hào vì hạt điều Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu thế giới, nhưng lo âu bởi sản xuất hạt điều Việt Nam cũng còn nhiều lắm những khiếm khuyết". Thật vậy, theo thống kê của Cục Trồng trọt, năm 2008 là năm thứ ba liên tiếp, Việt Nam dẫn đầu thế giới trong xuất khẩu nhân điều, với giá trị kim ngạch xuất khẩu 920 triệu USD - tăng 41,3% so với năm 2007. Song, bên cạnh thành quả rực rỡ ấy, năm 2008, diện tích trồng điều tại các địa phương cũng bị thu hẹp. Theo báo cáo của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn các địa phương, diện tích trồng điều niên vụ 2007-2008 là 421.498 ha; trong đó, diện tích thu hoạch khoảng 320.000 ha. So với niên vụ 2006-2007, diện tích cây điều đã giảm 15.502ha. Tiến sĩ Hoàng Quốc Tuấn - Trưởng phòng quy hoạch - Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp - cho rằng: Năm 2007 và 2008, diện tích trồng điều giảm 17.046ha, nhưng điều tra thực tế, diện tích điều giảm ít nhất phải gấp hơn 2 lần so với số thống kê. Giảm nhiều nhất là ở các tỉnh: Khánh Hoà (4.100ha), Bình Định (3.000ha), Đắc Lắc (2.900ha)... Sản lượng thu hoạch qua các năm cũng không bền vững, mà lúc giảm, khi tăng. Thí dụ: Năm 2006, sản lượng 340.000 tấn, năm 2007 là 400.000 tấn, nhưng năm 2008 giảm còn 350.000 tấn. Năng suất điều lại tăng rất chậm và không ổn định, do nông dân trồng điều ít đầu tư thâm canh đúng kỹ thuật. Năng suất năm 2005 đạt 1,06 tấn/ha, năm 2006 giảm còn 0,9 tấn/ha, năm 2007: 1,03 tấn/ha và năm 2008 là 1,10 tấn/ha. Tại Braxin, sản lượng điều xuất khẩu thấp hơn nước ta, nhưng năng suất bình quân là 2 tấn/ha. Trong khi đó, Bình Phước là thủ phủ của cây điều cũng mới chỉ đạt bình quân trên 1,3 tấn/ha. Về chế biến, một số đơn vị, cá nhân mới chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà chưa đầu tư nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường, nên hiệu quả đem lại không cao. Trình độ công nghệ chế biến hạn chế, tỷ lệ lao động thủ công nhiều dẫn đến năng suất lao động thấp, giá thành chế biến cao đã kéo theo nhiều hệ lụy khiến cho ngành điều trong tỉnh khó đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường quốc tế. 2.2.3. Nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta Nguyên nhân của những thành công: Sở dĩ ngành điều nước ta đạt được những thành công nói trên là do nhiều yếu tố tác động, trong đó có thể kể đến một số yếu tố sau: Thứ nhất là cầu thị trường điều trong những năm gần đây tăng mạnh, trong khi lượng cung lại có hạn làm cho giá hạt điều tăng. Đó là cơ hội tốt cho các nhà kinh doanh, sản xuất và chế biến điều xuất khẩu ở nước ta. Thứ hai là điều kiện tự nhiên ở Việt Nam mà đặc biệt là ở các vùng từ Quảng Nam trở vào rất thích hợp với cây điều. Trong thời gian qua, chúng ta đã biết khai thác lợi thế này để kịp thời chớp lấy cơ hội tốt để phát triển sản xuất - xuất khẩu điều. Thứ ba là Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp có tác động khuyến khích phát triển, chế biến điều, trong đó đã đề ra phương hướng, mục tiêu và đặc biệt là quy hoạch phát triển cây điều. Như vậy, có thể nói rằng lợi thế lớn nhất của ngành sản xuất - chế biến - xuất khẩu hạt điều hiện nay chính là việc cây điều đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch trong chính sách phân bổ diện tích đất nông nghiệp cho các địa phương và các vùng kinh tế trọng điểm. Thứ tư là ngành điều đã sớm tiếp thu có chọn lọc kỹ thuật và kinh nghiệm các nước vào điều kiện thực tế nước ta để tổ chức sản xuất, chế biến và xuất khẩu có hiệu quả. Những nhân tố trên đã thực sự tạo động lực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu điều phát triển nhanh, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước… Nguyên nhân của những tồn tại: Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết nguyên nhân sụt giảm diện tích là do giá vật tư nông nghiệp những năm gần đây tăng cao trong khi giá mua hạt điều lại giảm xuống khá thấp làm cho nhiều hộ trồng điều bị lỗ nặng. Theo tính toán của Hội Nông dân Bình Phước (địa phương có đến 47% sản luợng điều cả nước) thì năng suất điều bình quân hiện chỉ đạt khoảng 1 tấn/héc ta, giá bán điều thô tại vuờn của nông dân chỉ vào khoảng 6.800-7.000 đồng/kg, chỉ bằng chi phí đầu tư nên người nông dân hầu như không thu lợi được gì từ vuờn điều. Một nguyên nhân nữa là năm nay thời tiết lạnh hơn kèm theo nhiều sương muối làm cho làm cho cây điều khó ra hoa kết trái và sâu bệnh phát triển nhiều, ảnh hưởng lớn đến năng suất. Do từ những tháng đầu năm 2009, những đợt mưa trái mùa đã làm cho trên 100.000 ha cây điều ở các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh… bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất (bình quân chỉ từ 200 đến 500 kg trái/ha) là cho sản lượng điều thô năm nay dự kiến sẽ sụt giảm nhiều so với các năm trước. Xuất khẩu nhân điều tuy có tăng về số lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu; nhưng trong 2 năm qua (2007 và 2008) đã để xảy ra khá nhiều tranh chấp thương mại do phía doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện đúng hợp đồng giao hàng như: Giao hàng chậm, huỷ hợp đồng với nước ngoài do giá nguyên liệu tăng, hay khi giá nhân điều xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp không giao hàng, vì sợ lỗ vốn...Đây là những vi phạm thương mại không đáng có, mà nguyên nhân chủ yếu là do tính dự báo hiện trạng thị trường không chính xác, cũng như năng lực quản lý quá kém của các doanh nghiệp Việt Nam, dẫn tới những thua thiệt trên. Tổ chức chế biến của ngành điều cũng hết sức manh mún và tự phát, năng suất lao động còn thấp, sản phẩm không đa dạng và ít sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Toàn quốc có 203 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, nhưng hầu hết quy mô nhỏ, kim ngạch xuất khẩu từ 5 triệu USD trở lên chỉ có 38 doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp ngành điều còn non yếu về trình độ sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp này quy mô còn nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ, chúng ta vẫn chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp cần thiết để kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại của mình với việc sản xuất, kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Song có lẽ nhược điểm lớn nhất vẫn là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ sản xuất cũng như xuất nhập khẩu. Hầu hết các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu còn thiếu kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ yếu, kiến thức và hiểu biết về kỹ thuật kinh doanh và tình hình thị trường thế giới không cập nhật. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA NƯỚC TA 3.1 Định hướng cho hoạt động xuất khẩu điều ở Việt Nam 3.1.1 Quan điểm phát triển Phát triển sản xuất, chế biến điều trong thời gian tới phải đảm bảo khai thác tốt nhất cả 3 lợi ích: kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, phù hợp với quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp của cả nước. Áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, hình thành các vùng trồng điều tập trung gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến với bước đi phù hợp, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, đảm bảo năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước hỗ trợ một phần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi đối với vùng trồng Điều tập trung, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ, giống và quy trình canh tác. Trong thời gian tới, cây điều sẽ được phát triển trên những địa bàn có điều kiện, nhất là những vùng đất xám ở Tây nguyên, Đông Nam bộ, Duyên hải Nam Trung bộ. Các địa phương trồng điều rà soát quy hoạch, bảo đảm đất trồng điều phải phù hợp và có khả năng thâm canh cho năng suất cao, theo hướng hình thành những vùng nguyên liệu tập trung; đồng thời chuyển một số diện tích điều không có khả năng thâm canh sang trồng cây khác để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Thay thế dần giống điều cũ bằng giống mới có năng suất, chất lượng cao; đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến theo hướng hiện đại hóa, chế biến sâu. Chuyển đổi mạnh từ trồng trọt và chế biến phân tán, quy mô nhỏ sang sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp trên cơ sở quy hoạch vùng sản xuất tập trung. Phát triển ngành điều gắn kết chặt chẽ, đồng bộ từ khâu sản xuất- thu mua- chế biến- bảo quản- tiêu thụ, đồng thời ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Xây dựng vùng nguyên liệu kết hợp với vùng chế biến (kể cả các sản phẩm phụ) để tạo ra ngày một nhiều sản phẩm có chất lượng cao, khối lượng hàng hóa lớn, chất lượng đồng đều, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. 3.1.2. Định hướng phát triển Về nơi trồng điều, do điều là loại cây dễ trồng, không có đòi hỏi cao về điều kiện dinh dưỡng, đất đai như các loại cây khác, nên khuyến khích trồng ở những vùng đất xấu, nơi những loại cây khác không thể phát triển nhưng lại phù hợp với cây điều. Chi phí trồng điều thấp nên đề án cũng khuyến khích những người nông dân nghèo trồng điều để cải thiện đời sống đồng thời giúp phát tri

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxk_dieu_edited__8498.doc
Tài liệu liên quan