Khóa luận Khảo sát thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934)

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 9

Chương I: Thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 - 1930) 9

1.1. Tạp chí Nam Phong 9

1.2. Đặc điểm thể du ký 12

1.3. Thể du ký trên Nam Phong tạp chí 16

Chương II: Du ký trên Nam Phong tạp chí - Bức tranh hiện thực rộng lớn 28

2.1. Các giá trị và hiện thực non sông đất nước trong du ký 28

2.2. Hình ảnh con người 41

Chương III. Những đặc trưng nghệ thuật của thể du ký trên Nam Phong tạp chí

3.1. Thể du ký - sự dung hợp của các thể loại 46

3.3. Kết cấu trong các tác phẩm du ký 53

3.4. Người kể chuyện hay cái tôi chủ thể của nhà văn 55

3.5. Ngôn ngữ nghệ thuật trong du ký trên Nam Phong tạp chí 58

KẾT LUẬN 62

 

 

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khảo sát thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sơn Mục N.X.H). - Dòng du ký viễn du, những chuyến du hành vượt biên giới. Đó là những du ký dài hơi, phong phú, hấp dẫn như: Hạn mạn du ký (Nguyễn Bá Trác), Du hành xứ Lào (Phạm Quỳnh), Ai Lao hành trình (Trần Quang Huyến)… - Dòng du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hóa rộng lớn: Hành trình mạn ngược từ Cao Bằng xuống Phú Thọ (Thái Phong Vũ Khắc Tiệp), Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang (Nguyễn Văn Bân)… - Dòng du ký thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một địa danh cụ thể: Ba nà du ký (Huỳnh Bảo Hòa), Bài ký chơi Cổ Loa, Cuộc đi chơi năm tầng núi (Tùng Vân)… - Dòng du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm quan trọng như: Trẩy chùa Hương (Thượng Chi), Cuộc chơi trăng sông Nhuệ (Mai Khê)… Như vậy, với 62 bài du ký đã cho thấy rõ diện mạo của một thể tài văn chương xuất hiện trên báo chí quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Ngoài nội dung hiện thực phản ánh rộng lớn, mới mẻ, thể du ký trên Nam Phong tạp chí còn ghi dấu sự tìm tòi, thử nghiệm của các tác giả trước lối viết theo hướng hiện đại. Ở mức độ nào đó, ta có thể khẳng định sự phát triển của thể du ký trên tạp chí Nam Phong đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Trải qua hơn 70 năm, đến nay bộ dy ký trên Nam Phong tạp chí vẫn là một kho tư liệu quý, một chứng tích của thời gian. “Bộ du ký này là một sự tập hợp một lúc nhiều giá trị: văn học sử, xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, địa lý, phong tục… Và tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước thể hiện một cách hồn nhiên nhất. Người xưa viết du ký trước hết là một cách cảm nhận không gian, còn người nay đọc du ký sẽ ám ảnh hơn về cảm giác thời gian” (Vũ Tuấn Anh). Chương II: Du ký trên Nam Phong tạp chí - Bức tranh hiện thực rộng lớn 2.1. Các giá trị và hiện thực non sông đất nước trong du ký 2.1.1 Các giá trị 2.1.1.1. Giá trị địa lý Các tác giả du ký khi dừng chân trước mỗi vùng đất, mỗi địa danh thường không chỉ dừng lại ở việc miêu tả phong cảnh, cuộc sống nơi ấy, mà họ còn ghi lại những dữ liệu mang giá trị địa lý. Bởi vậy, người đọc có thể tìm thấy trong các trang du ký những số liệu thống kê về đất đai, dân cư, về địa thế, về khí hậu, tài nguyên… Tác giả Nguyễn Bá Trác trong Hạn mạn du ký, khi giới thiệu về thành Bắc Kinh của Trung Quốc đã miêu tả một cách, chi tiết cụ thể: “Kinh thành chu vi có 40 dặm, thành cao 35 thước rưỡi. Chia ra làm 9 cửa. Chính nam là cửa Chính Dương, nam chi tả là cửa Sùng Văn, nam chi hữu là cửa Tuyên Vũ. Đông là cửa Triêu Dương và cửa Đông Trực, Chính tây là cửa Phụ Thành và cửa Tây Trực…”[29,235]. Phạm Quỳnh trong Du lịch xứ Lào cũng không quên ghi lại những dữ liệu địa lý của nước bạn láng giềng như: Diện tích Ai Lao là 214.000 km2, tổng số dân Ai Lao khoảng 875.000 người, khí hậu thì tùy nơi thung lũng hay cao nguyên mà khác nhau, cả nước Ai Lao có con sông lớn nhất chảy qua là một bộ phận của sông Cửu Long dài 1.300 cây. Hay khi nói về người Khách trên nước mình, Phạm Quỳnh đã dẫn ra những con số cụ thể, để cho thấy, sự bành trướng, xâm chiếm của người Khách đối với dân ta: “Hải Phòng tức là chợ Lớn Bắc Kỳ có 8.991 người khách, mà Chợ Lớn Nam Kỳ có những 75.000 khách với 4.873 người Minh Hương! Hà Nội có 3.377 người khách với 825 người Minh Hương, và Sài Gòn có những 22.079 người khách với 677 người Minh Hương” [30,151] (Một tháng ở Nam Kỳ). Theo chân tác giả Nguyễn Văn Bân tới tỉnh Tuyên Quang, người đọc không chỉ được chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh, mà còn ít nhiều biết được những đặc điểm địa lý nơi đây: “Hiện nay tỉnh Tuyên Quang còn có năm phủ, huyện, châu là: Yên Bình, Yên Sơn, Hàm yên, Chiêm Hóa và Sơn Dương; số dân đinh 8.591 người, số điền thổ 42.149 mẫu; số dân Mán là 1.532 nhà, số thuế chính cung cộng được 31.7900$99…”[31,333] (Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang). Tác giả Trần Trọng Kim trong bài du ký Sự du lịch đất Hải Ninh nhằm cho người đọc thấy rõ vị trí, địa thế tỉnh Hải Ninh nên đã ghi chú một cách cụ thể: “Tỉnh Hải Ninh phía bắc và phía tây thì giáp tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây bên Tàu, và tỉnh Lạng Sơn bên ta; phía nam và phía đông thì giáp tỉnh Quảng Yên và giáp bể” [q2 26]. Như vậy du ký là một thể tài đặc biệt vì ở nó ngoài giá trị văn học còn có những giá trị khác. Đọc du ký, người đọc còn có thể tìm thấy không ít những tư liệu mang giá trị địa lý. Để có được những tư liệu địa lý cụ thể như vậy, chứng tỏ những nhà du ký đã phải tìm hiểu kỹ lưỡng những nơi mình đi qua, cũng như phải viết những điều ấy sao cho khách quan nhất, chính xác nhất. 2.1.1.2. Giá trị lịch sử Du ký, ngoài giá trị văn chương, giá trị địa lý còn là một kho tư liệu quý về lịch sử. Các tác giả du ký không chỉ quan tâm đến hiện tại mà còn xúc động dựng lại truyền thống bất khuất của cha ông. Những danh nhân lịch sử, những truyền thuyết, sự tích được tái hiện lại trong hàng loạt các tác phẩm như: Một buổi đi xem đền Lý Bát Đế (Phạm Văn Thư), Bài ký chơi Cổ Loa (Tùng Vân), Mười ngày ở Huế (Phạm Quỳnh), Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh (Nguyễn Đức Tánh), Thăm lăng Sĩ Vương, Nam du đến Ngũ Hành Sơn (Nguyễn Trọng Thuật)… Những truyện lịch sử, những truyền thuyết ấy có khi được các tác giả trực tiếp kể lại, cũng có khi nó được gợi lên một cách gián tiếp trong câu chuyện về một danh thắng, một vùng miền khi “mắt đã được trông, tai đã được nghe, tinh thần đã cảm cái hồn xưa của loài giống, thân thể đã gội cái khí thiêng của núi sông” [29,25]. Viết về lịch sử, có những tác giả đi vào việc kể lại truyện các danh nhân, các nhân vật anh hùng, với một thái độ ngợi ca, trân trọng sâu sắc. Trong bài du ký Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh, tác giả Nguyễn Đức Tánh đã dành nhiều trang văn viết về lịch sử ông Nguyễn Xí, ông Nguyễn Đình Đắc vốn là những người con của đất xứ Nghệ, là những bậc anh hùng của dân tộc. Tác giả Đông Châu trong Qua chơi mấy nơi cổ tích đất Ninh Bình, khi viết về đỗng Hoa Lư đã nhắc tới vị tướng Đinh Bộ Lĩnh - con người đã “ ứng thời vận mà sinh ra lúc bấy giờ, lập ngay nên được cơ đồ thống nhất” [30,128]. Đặt chân lên mảnh đất Ninh Bình, tác giả đã có ngay những cảm tưởng, suy nghĩ về lịch sử, về truyền thống cha ông: “Ấy cuộc đi chơi này chúng ta đối về phương diện lịch sử thì ai là chẳng cảm tưởng đến sự nghiệp vua Đinh, vua Lê; mà đối về phương diện cổ tích thì chúng ta hãy còn trông thấy có cổ miếu, có sơn lăng, ai là chẳng nức lòng kính ngưỡng” [30,130]. Tác giả Phạm Quỳnh qua du ký Mười ngày ở Huế, cũng đã lần lượt giới thiệu với bạn đọc câu chuyên các vị vua triều Nguyễn trong khi thuật chuyện đi thăm các lăng tẩm. Ngoài các danh nhân văn hóa, các nhân vật anh hùng, thì những truyền thuyết về các đền miếu, các địa danh, các vùng miền cũng được nhiều tác giả quan tâm. Viết về vùng đất Quảng Xương, ngay phần mở đầu bài du ký, tác giả Thiện Đình đã nói về sự tích đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, là những di tích của mảnh đất này: “Tục truyền đời xưa, xã Tường Lệ đêm hôm mồng bảy tháng Giêng. Mưa to gió lớn, nước ở ngoài bể dâng lên ngập ngang núi, chung quanh núi bao nhiêu cây cối đổ dập cả xuống đất, dân cư chỗ ấy lấy làm kinh sợ, hôm sau có người trèo lên đỉnh núi xem, thấy có dấu chân rất lớn in trên hòn đá, dài hơn một thước, dân cư không ai hiểu vết chân ấy có tự bao giờ, và không biết dấu chân đức thần nào mới hiện ra đó. Đến ngày mười bảy tháng ba năm ấy, bỗng có một trăm cây gỗ lim tự ngoài bể trôi vào đến chân núi, dân cư chỗ ấy mới nhân gỗ ấy lập đền thờ ở chỗ vết chân ấy gọi là đền Thượng, giữa lại làm một cái đền gọi là đền Trung, dưới chân lập một cái đền nữa gọi là đền Hạ” [31,73-74]. Giống như tác giả Thiện Đình, tác giả Nguyễn Đức Tánh khi dừng lại ở mỗi một địa danh, cũng không quên ghi lại sự tích về nơi ấy. Trong bài ký Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh, tác giả đã kể lại sự tích đình làng Hoành Sơn, sự tích Ngũ Long (tục gọi là đền Thánh Mẫu), sự tích chùa Diên Quang là những nơi tác giả đi qua. Viết về lịch sử, cũng đôi khi chỉ là những truyền thuyết xưa, nhưng được các tác giả kể lại, nhìn nhận và đánh giá với những quan niệm riêng. Đọc Bài ký chơi Cổ Loa của Tùng Vân, độc giả không chỉ được nghe lại những câu chuyện xung quanh truyền thuyết An Dương Vương, mà còn được nghe những lời luận bàn của người viết: “Oan có thể giải được, cái oan ấy không kỳ, oan mà không có thể giải được, cái oan ấy mới kỳ” [29, 498]. Nói về nỗi oan của Mỵ Châu, dẫn giải nhiều lý lẽ, cuối cùng tác giả kết luận: “Lịch sử nàng hình như có thắt mà không có cởi. Cho nên khi luận đến lịch sử nàng, mực với nước mắt cũng khá dồi dào, duy đến triết lý thì khô khan. Rút lại chỉ phê vào lịch sử nàng được có một câu rằng “Đau đớn thay phận đàn bà” mà thôi” [ 29,499]. Qua các trang du ký, từ những cổ tích, truyền thuyết, tới những câu chuyện có thực trong lịch sử về các nhân vật anh hùng, các triều đại, các di tích… đã được tái hiện một cách phong phú, sinh động. Những câu chuyện lịch sử vốn “khô khan” thì nay, được kể lại dưới con mắt của những nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu; được kể lồng ghép giữa các câu chuyện về thiên nhiên, phong tục tập quán, bỗng trở nên hấp dẫn, cuốn hút. Để viết được những câu chuyện lịch sử như vậy, chứng tỏ những nhà du ký phải rất am hiểu lịch sử, cũng như có một tấm lòng yêu nước chân thành, sâu sắc. Nhắc lại, ngợi ca lịch sử dân tộc, các tác phẩm du ký đã góp phần lưu giữ và truyền lại truyền thống anh hùng, cũng như khơi thêm tinh thần yêu nước thương nòi trong mỗi thế hệ những người dân đất Việt. Những tác phẩm du ký đậm chất lịch sử ấy, đặc biệt có giá trị trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, khi đất nước đang bị thực dân Pháp ngoại xâm, khi niềm niềm tự tôn dân tộc hơn bao giờ hết cần được khẳng định và nâng cao. 2.1.2. Phong cảnh, danh thắng Du ký là những trang viết khi đi đường, ghi lại những nơi, những việc mà chính người đi mắt thấy tai nghe. Đọc du ký, trước tiên độc giả sẽ được thưởng ngoạn muôn vàn cảnh trí, sẽ được mở rộng tầm mắt rộng khắp đất nước và trải dài ra cả ngoài nước. Với 62 tác phẩm du ký, các tác giả đã cho người đọc thấy non sông đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, suốt một dải chữ S, nơi đâu cũng đẹp cũng diệu kỳ. Các danh lam, thắng cảnh, từ Tuyên Quang, Cao Bằng tới Hà Tĩnh, Sài Gòn, từ vùng núi tới hải đảo, từ miền ngược tới miền xuôi, đều được tả lại một cách tỉ mỉ, sinh động trong những trang văn của những nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu. Nếu trước đó, người dân ta vốn chỉ quen cuộc sống trong lũy tre làng, nơi này không biết nơi kia, thì nay nhờ du ký họ có thể “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”. Đó là cảnh biển nên thơ trong Chơi Phú Quốc của tác giả Mộng Tuyết: “Bãi cát trắng phau, chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá, cánh buồm trắng in vào đám mây hồng. Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn lạc, tạo thành một bức tranh ảnh khổng lồ tuyệt đẹp (…). Cảnh đêm ở giữa biển thật có vẻ thần bí lạ. Mấy chòm cù lao nằm êm lặng trên mặt nước âm thầm. Thỉnh thoảng một con cá lội qua làm xao động mặt nước hiện ra một vệt sáng trắng lòe, rồi lại tan ngay” [29,392]. Là cảnh đẹp của động đá được tác giả Đông Hồ ghi lại trong bài du ký Cảnh vật Hà Tiên: “… Đến cây cột trụ này thì lại càng qúy lạ lắm. Suốt từ trên chí dưới trên mặt cột như cẩn muôn ngàn hột ngọc kim cương măng mẩn. Có bóng đèn rọi vào, ánh sáng lại càng tôn, muôn điểm ngàn người lấp la lấp lánh bày ra một cái vẻ đẹp truyệt trần…từ cây cột kim cương ấy vô nữa thì đá bắc liền nhau, nghiêng nghiêng trông như một cây thang bắc trong một nơi cung điện nào” [29,631]. Theo chân tác giả Đặng Xuân Viện, người đọc có thể tham gia vào cuộc Định Hóa châu du ký, để thấy được vẻ đẹp của những danh thắng như sông Hương, cửa Hàn, Ngũ Hành sơn: “Sông Hương là một cảnh danh thắng trong hai mươi cảnh ở kinh thành, đã từng liệt vào đồ họa và phẩm đề từ thuở tiền triều, gọi là “Hương giang vãn phiếm”. Tác giả không chỉ giới thiệu cảnh mà còn đưa ra những nhận xét và cảm nhận của riêng mình, khiến cho cảnh vật càng trở nên sinh động và gần gũi: “Ngày nay bức họa phong cảnh ấy lại nhuận sắc thêm vào những nét mới, lại càng thêm hoạt động. Một dải tràng giang phân đôi thành thị, hai bên bờ san sát thành quách, lâu đài, phố xá, chợ búa, hoa cỏ in xuống mặt nước long lanh” [30,217-218]. Hay đây là cảnh Ngũ Hành Sơn được tác giả miêu tả chi tiết, từ lịch sử tên gọi của nó: “Ngũ Hành Sơn là một chòm núi bằng đá hoa lô nhô ở xã Du Xuyến, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia tỉnh Quảng Nam. Chòm núi ấy có năm quả lớn gần nhau, người ta lấy tên năm vị sao kinh tinh là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đặt tên cho từng quả một mà tóm gọn là Ngũ Hành Sơn”[31,227]. Nếu như cảnh Ngũ Hành sơn hùng vĩ, uy nghi thì tới với cảnh Bà nà, trong Bà nà du ký của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, độc giả có thể đứng trên đỉnh núi cao, mà phóng tầm mắt bao quát cả một khung cảnh nên thơ: “Phong cảnh thì tứ bề non cao chồng chất, chớn chở như thành lũy pháo đài, dưới thì làng mọi ruộng nương lúa bắp xanh tốt như chàm…trông ra cửa biển mênh mông bát ngát, ngó xuống bình nguyên giang sơn gấm vóc, phô bày giữa quảng trời Nam”[30,64]. Các danh thắng của đất nước, mỗi nơi mang một vẻ đẹp, một bản sắc riêng. Đó có thể là cảnh núi non, cảnh biển mênh mông hay chỉ là một dòng sông trong đêm trăng, một miền quê trù phú… nhưng tất cả đã hiện lên chân thực và sinh động dưới những trang du ký. Viết về những danh lam thắng cảnh của đất nước, các tác giả đã thể hiện rõ một thái độ ngợi ca, một tình yêu tha thiết dành cho quê hương, cho dân tộc mình. Và tình yêu ấy, dường như còn truyền sang cả bao thế hệ những người đọc du ký. Không chỉ miêu tả, ngợi ca những cảnh đẹp của đất nước, mà trong những chuyến hành trình vượt ra ngoài biên giới, các tác giả còn giới thiệu cho bạn đọc biết bao địa danh, phong cảnh trên thế giới. Trong những tác phẩm như: Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Pháp du hành trình nhật ký, Du lịch xứ Lào của Phạm Quỳnh, Ai Lao hành trình của Trần Quang Huyến, hay Trên đường Nam Pháp của Tùng Hương, những xứ sở xa xôi, đã được các tác giả nhìn nhận và đánh giá một cách khá tinh tế và sâu sắc. Đây là quang cảnh Nam Vang (Phnompenh), kinh đô Cao Miên dưới con mắt của tác giả Trần Quang Huyến: “Dinh vua lộng lẫy, cung điện oai nghi. Ở gần đấy có chùa Vàng, chùa Bạc, cảnh đẹp có tiếng; trong có tượng tuyền bằng vàng, bằng bạc, lại lắp mặt kim cương lóng lánh, còn lắm đồ kim ngân châu báu, coi rất kỳ lạ. Ở bến tàu trông lên, tháp cao mấy từng, lầu cao mấy mái, chót vót lưng trời, ánh lồng đáy nước. Suốt một dọc sông, lâu đài quang cảnh, thiệt là ngoạn mục”[31,261]. Khi đứng trước những danh thắng, những cảnh vật của nước bạn, các tác giả thường không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, mà còn luôn đưa ra những nhận xét, đặc biệt là những đánh giá, so sánh cho thấy sự am hiểu sâu sắc của người viết. Trong Du lịch xứ Lào, Phạm Quỳnh đã dành những trang viết về tín ngưỡng Phật giáo, về chùa chiền của nước bạn: “Ở Sisaket có một cái chùa lớn ở giữa, chung quanh là các tăng xá cho các sư ở. Bao nhiêu tượng Phật bằng đồng, bằng đá, bằng gỗ, lớn nhỏ các hạng, sưu tập ở các nơi chùa cổ am xưa ở các nơi đổ nát, đều đem họp cả lại về đây. Tượng đủ các hình, nào tượng Phật ngồi tòa sen, nào Phật thề với đất, Phật nguyện chúng sinh, Phật dẹp song dục, toàn là những kiểu phổ thông bên Lào, bên Xiêm, các tượng Phật bên ta không có đủ như thế, ở một chùa Sisaket này tượng Phật tính cả thảy được ba bốn nghìn pho” [29,434]. Trong các tác phẩm viết về những cuộc hành trình vượt ra ngoài biên giới, phải kể tới tác phẩm Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác. Bài viết đã ghi lại một hành trình dài của nhà văn qua các đất nước như: Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc… Khi dừng chân ở vùng đất nào, tác giả cũng ghi lại những phong cảnh, những vẻ đẹp mang tính đặc thù của đất nước ấy, giúp cho người đọc có sự hình dung một cách cụ thể, rõ nét về các nước bạn. Có thể nói chính những trang du ký đó của các nhà văn, đã rút ngắn khoảng cách, góp phần thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau, giúp cho đồng bào ta được mở mang tầm mắt và nhận thức về thế giới. 2.1.3. Phong tục tập quán Đọc du ký trên Nam Phong tạp chí, người đọc không chỉ thấy được những giá trị địa lý, hay vẻ đẹp của các danh lam thắng cảnh, mà họ còn tìm thấy được ở đó không ít những nét văn hóa, những phong tục tập quán của từng vùng, từng miền trên khắp đất nước. Đó là phong tục tập quán của người Mường, từ việc thờ cúng, chữa bệnh tới thói quen dựng nhà, tục cưới hỏi, ma chay… đều được tác giả Đặng Xuân Viện ghi lại một cách chi tiết trong Định Hóa châu du ký: “Các xã đền miếu chỉ làm bằng tre nứa ở giữa đồng, trong để một cái ban thờ chỉ có một bát hương, không có đồ gì tế khí…Dân cư có người ốm đau mời thầy cúng thời phải rước bát hương ở nhà thầy cúng tới nhà mình, hễ lễ khỏi bệnh thời phải kiếm lễ tạ thầy, mới được trả bát hương… Nhà cửa thì ở nhà gác làm bằng tre nứa hoặc cột xoan. Người ở trên, trâu bò ở tầng dưới…”[31,175]. Trước những phong tục, thói quen ấy, tác giả cho rằng: “Xem như vậy thời biết phong tục của họ đã nói ở trên này cũng dễ khai hóa, mà cái cách sinh hoạt của họ cũng dễ kiếm ăn hơn người đường xuôi” [31,177]. Còn trong Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang, tác giả Nguyễn Văn Bân lại cho chúng ta cái nhìn khái quát về phong tục của các dân tộc thiểu số khác như người Mán, người Thổ trong ngôn ngữ, phục sức, giá thú. Và rồi tác giả đưa ra nhận xét“Dân Mán cũng thực hơi giống dân Thổ; nhưng ngôn ngữ và phục sức thì khác” [31,339]. Nói về sự ăn mặc của dân ta, tác giả Mẫu Sơn Mục N.X.H trong tác phẩm Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn cũng có những quan điểm rất riêng: “Nhân đây lại nói đến sự ăn mặc ở trong Sài Gòn này: đàn bà sang trọng thì quần áo và khăn quàng đều là nhiễu hoa trắng. Người làm ăn thì quần áo toàn là vải đen, trên đầu vắt một cái khăn vải trắng, dòng dọc đen, dài độ ba bốn vuống…Về lối ăn mặc của đàn bà ta, tôi tưởng không gì bằng lối ăn mặc của nhà quê Bắc Kỳ”[31,39-40]. Đến với tác phẩm Cuộc đi chơi năm tầng núi của tác giả Tùng Vân, thì người đọc lại có cơ hội biết tới truyền thống hát quan họ nổi tiếng ở Bắc Ninh. Tác giả giới thiệu, hội Hồng Vân - hội hát quan họ, cứ tháng Giêng lại mở ở trên núi, con trai con gái có gia đình hay chưa cũng đều tụ tập đứng hát với nhau. Khi hát thì bên con trai thường xướng trước, bên con gái thì họa lại. Cuộc hát cứ thế tiếp tục, bên nào hơn được lối hát và câu hát đối đáp là được. Ngoài ra, tác giả Tùng Vân còn giải thích thêm nghĩa của hai tiếng “quan họ”, bắt nguồn từ truyện truyền rằng: “Con trai, con gái họ nhà quan ở triều Lý khi xưa, bày ra cuộc nhã hí để vua xem, về sau dân gian mới bắt chước” [30,88]. Hay như tục hát Then, một phong tục lâu đời mang đậm bản sắc văn hóa của người dân vùng Cao Bằng, Lạng Sơn mà không phải ai cũng biết, đã được Phạm Quỳnh giới thiệu chi tiết trong Chơi Lạng Sơn - Cao Bằng: “Then hay Bụt (Tiên, Phật) thường là những đàn bà con gái óng ả lắm, đã học thuộc nhiều các bài văn cúng. Nhà nào làm lễ kỳ yên thời mời đến gẩy đàn đọc văn, cầu nguyện cho trong nhà được bình yên mạnh khỏe. Trên giường bày lễ vật, hương hoa, cô Then ngồi bên cạnh, tay cắp cây đàn, chân đeo tràng nhạc, miệng hát, tay gẩy, chân rung, dịp dàng lắm. Giọng hát tỉ tê thánh thót, nghe rất là buồn, như giọng gọi hồn vậy” [30,504]. Không chỉ viết về phong tục tập quán của dân tộc mình, mà trong những chuyến xuất ngoại, các tác giả du ký cũng không quên ghi lại nhiều phong tục độc đáo của những đất nước khác. Tác giả Trần Quang Huyến trong Ai Lao hành trình đã miêu tả về người dân Lào với những nếp sinh hoạt rất riêng, rất độc đáo: “Ăn uống thì không có đũa bát, chỉ thò tay bốc. Cơm thì cơm nếp, nước thì nước lã; đồ ăn lắm thứ lạ: Cóc gác bếp, chuột phơi khô, xé ra nướng ăn; mắm cá “Pa - đẹt”, thứ mắm cá ướp ngấu đen xì, hình như pha lẫn cám, là đồ ăn thường nhật của họ. Cách thức làm lũng vẫn còn lối dã man lắm” [30,272]. Cũng nói về phong tục của các nước làng giềng, trong Sự tích du lịch đất Hải Ninh, tác giả Trần Trọng Kim đã miêu tả lại tục giết con gái, bán vợ của người dân Đông Hưng, bên kia Móng Cái. Ông cho rằng đó là “cái luân lý” bậy bạ, xấu xa, đáng bị chê trách. Như vậy, những trang du ký đã cung cấp cho người đọc thêm nhiều hiểu biết về các phong tục tập quán, về những nét văn hóa của các vùng miền trên đất nước mình, cũng như của các nước xa xôi khác. Đó là việc làm hữu ích, có giá trị không chỉ đối với người đọc bấy giờ, mà còn cả với những thế hệ sau này. Du ký đã góp phần bảo tồn và gìn giữ kho tàng văn hóa của dân tộc. 2.1.4. Tình hình chính trị - xã hội Một tác phẩm du ký ngoài việc dung chứa những giá trị lịch sử, giá trị địa lý, ngoài những trang viết giới thiệu về văn hóa, phong cảnh, đôi khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội. Đọc du ký trên Nam phong tạp chí, người đọc dễ nhận thấy những vấn đề liên quan tới tình hình xã hội của đất nước không được các tác giả nói tới một cách trực tiếp mà nó chỉ được tái hiện trong những lời bàn luận, trong những trang viết chung về địa dư văn hóa, về sự sinh hoạt của người các vùng miền. Nhưng qua các tác phẩm du ký, độc giả cũng phần nào thấy được một cách khái quát những yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Trong tác phẩm Lược ký đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn, tác giả Mẫu Sơn Mục N.X.H đã thuật lại cuộc hành trình của mình từ Hà Nội vào Sài Gòn. Trong bài du ký ấy, tình hình kinh tế, xã hội của nhiều tỉnh thành đã ít nhiều được phản ánh qua những lời nhận xét, đánh giá của chính tác giả. Ông nhận thấy: “Thanh Hóa buôn bán bình thường vì không tiện đường thủy, nhà máy sợi, máy diêm, cũng đều ở bờ sông Hàm Rồng, cách thành phố ba bốn cây”; sự kinh tế của Hà Tĩnh cũng không được sầm uất. Tới Phan Rang, Biên Hòa, đặc biệt là Sài Gòn, thì ông cho rằng đó thực sự là những tỉnh thành, thành phố của phát triển của đất nước. Một tác giả khác là Đặng Xuân Viện trong Thụy Anh du ký cũng đã bàn tới tình hình đời sống kinh tế của người dân vùng biển Thái Bình. Người dân nơi đây, không chỉ sống với nghề nông nghiệp mà còn phát triển nhiều ngành nghề khác như: nghề làm muối, nghề làm thuốc lào, nghề đánh cá. Nói tới tình hình kinh tế, xã hội của đất nước phải kể tới những bài du ký của Phạm Quỳnh. Ông là người đi nhiều, hiểu biết, vì thế luôn đưa ra những nhận xét khá đúng đắn. Qua bài du ký Một tháng ở Nam Kỳ của ông, người đọc có thể hình dung cuộc sống, sự phát triển của của nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn. “Hải Phòng thật là đáng làm nơi đô hội thứ nhì xứ Bắc Kỳ… Hải Phòng còn đương vào cái thời kỳ trai trẻ, chưa biết lớn đến đâu, thịnh đến đâu là cùng”, còn Sài Gòn – “hạt báu của Á Đông”, theo ông nó hơn tầm cả với Hương Cảng, Thượng Hải, Tân Gia Ba về cách sửa sang, sắp đặt, về quy mô các con đường, về cái vẻ sạch sẽ, mĩ miều khả ái, “trơn tru mà sán lạn như hạt châu mới rũa”. Nghề làm báo và làm sách cũng được Phạm Quỳnh nói tới khi bàn về tình hình văn hóa của người Nam Kỳ. Đó là hai nghề phát triển rất thịnh ở Nam Kỳ, mà theo ông Bắc Kỳ và Trung Kỳ cần học tập. Ông lại bàn tới việc học chữ quốc ngữ, làm văn quốc ngữ của dân ta. Ông nhận thấy: “Chữ quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả; nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chửa phát đạt lắm”. Ông còn phê phán một bộ phận những bậc thượng lưu, những người có học thức thông giỏi chữ Pháp coi thường tiếng An Nam, cho là một thứ đê tiện để cho những hạng tầm thường dùng mà thôi. Tác giả bàn tới chữ quốc ngữ, quốc văn, như một vấn đề đặc biệt quan trọng cho sự phát triển, tiến bộ của nền học thức nước nhà. Về tình hình xã hội, Phạm Quỳnh nhiều lần nói tới họa Chệt, họa Chà gây nhiều nguy hại tới người dân nước ta. Tác giả Trần Trọng Kim, trong Sự du lịch đất Hải Ninh cũng không khỏi bất bình, lo lắng trước sự xâm chiếm tràn lan của người Khách trên đất Hải Ninh: “Hiện như bây giờ cả một tỉnh Hải Ninh, bao nhiêu quyền lợi, mười phần thì chín phần rưỡi vào tay người Khách và người Nùng hết cả. Ai ai đi đến đấy trông thấy tình cảnh như thế cũng phải lấy làm nóng ruột” [30,46]. Một vấn đề xã hội khác cũng được các tác giả quan tâm, đó là sự di dân của một bộ phận dân cư người An Nam sang Ai Lao: “Người Nam ta ở Vientiannei có tới năm sáu nghìn người, Nam Kỳ có, Trung Kỳ có, Bắc Kỳ có, nam phụ lão ấu, sĩ nông công cổ, đủ các hạng, thật là hoàn toàn một cái xã hội Việt Nam di cư sang đất Lào. Ai nấy làm ăn vui vẻ, phố xá đâu có người An Nam là có vẻ sầm uất cả” [29,431]. Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề di dân này, nhưng tác giả Phạm Quỳnh trong Ai Lao hành trình vẫn cho rằng: “Đất Ai Lao vẫn rộng rãi, có đủ chỗ dung được mọi người. Người An Nam sang ở đấy không sợ bao giờ đến đông quá mà trở ngại cho người Lào. Hiện nay và sau này, bao giờ người Nam cũng là cần cho sự mở mang kinh tế xứ Ai Lao vậy. Người trí thức trong bản xứ không nên ác cảm với người Nam mà nên hoan nghênh người Nam mới là phải” [29,458]. Riêng tình hình chính trị của đất nước thì gần như không được các tác giả du ký nói tới. Trong những bài du ký của mình, tác giả Phạm Quỳnh có nhắc đến nhà nước bảo hộ Đại Pháp. Tuy nhiên ông vẫn luôn có ý bênh vực dân tộc mình, ông cho rằng: muốn Pháp - Việt đề huề thì lợi ích của hai nước phải được đề huề. Có những lúc ông cũng đã nghi ngờ về tư tưởng “Pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnn01t (5).doc