Khóa luận Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam trong quá trình tham gia AIA

MỤC LỤC

 Trang

LỜI NÓI ĐẦU . .

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP NƯỚC NGOÀI ( FDI) VÀ KHU VỰC ĐẦU TƯ ASEAN (AIA) .1

I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự cần thiết của FDI .1

1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) .1

1.1. Khái niệm. . .3

1.2. Các hình thức FDI. .3

2. Sự cần thiết của FDI .3

II. Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp định khung về Khu đầu

tư ASEAN (Hiệp định AIA) .4

1. Khu vực đầu tư ASEAN .4

2. Hiệp định khung về AIA .7

2.1. Mục tiêu và phạm vi áp dụng của Hiệp định . .7

2.1. Nội dung hoạt động . .7

2.3. Chủ trương, nguyên tắc, biện pháp thực hiện AIA . .10

2.4. Đối tượng được hưởng các ưu đãi liên quan đến mở cửa các

ngành nghề và đối xử quốc gia . .13

2.5. Cơ chế tổ chức thực hiện . .13

2.6. Giải quyết tranh chấp . .13

3. Những khó khăn và triển vọng của AIA 14

3.1.Những khó khăn nảy sinh . .14

3.2. Triển vọng phát triển của AIA 15

CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA AIA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ

VIỆT NAM 17

I. Tác động của AIA đối với nền kinh tế Việt Nam 17

1. Lợi ích của Việt Nam khi tham gia vào AIA 19

2. Tác động của AIA đối với nền kinh tế Việt Nam 20

2.1.Tác động của AIA đối với FDI vào Việt Nam 20

2.2.Tác động của AIA đối với thương mại và cơ cấu sản xuất 24

II. Việt Nam với việc tham gia vào AIA.26

1. Cùng với các Quốc gia khác trong khu vực, Việt Nam đã tham gia tích

 cực vào các chương trình chung nhằm triển khai có hiệu quả Hiệp định

AIA 26

2. Việt Nam từng bước cải thiện môi trường đầu tư nhằm đưa Hiệp

 định AIA vào đời sống trong nước 32

III. Tình hình FDI tại Việt Nam.35

1. Tình hình chung về FDI tại Việt Nam 35

2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của ASEAN vào Việt Nam 44

2.1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của các Quốc gia ASEAN

vào Việt Nam.44

2.2.Một số đánh giá về đầu tư của ASEAN vào Việt Nam 51

IV. Đầu tư vào ASEAN: Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp

Việt Nam 53

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TRIỂN KHAI

CÓ HIỆU QUẢ HIỆP ĐỊNH AIA TRONG THỜI GIAN TỚI CỦA

VIỆT NAM 55

I. Định hướng chung của toàn bộ nền kinh tế 55

1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc thu hút FDI trong

thời gian tới 55

1.1.Quan điểm về cải thiện môi trường ĐTNN tại Việt Nam.56

1.2.Định hướng chung thu hút đầu tư nước ngoài 57

2. Một số định hướng cho Việt Nam khi tham gia vào AIA 59

II. Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam trong quá trình tham gia AIA 60

1. Xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút

đầu tư nước ngoài 60

2. Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường đầu tư 62

2.1. Sửa đổi một số quy định để tạo thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút

đầu tư nước ngoài.62

2.2. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những

địa bàn và dự án ta cần thu hút đầu tư nước ngoài 67

2.3. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư 67

3. Thiết lập các chuẩn mực đối xử và bảo hộ có điều kiện các ngành

sản xuất trong nước 69

4. Phối hợp tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư 71

5. Củng cố và hoàn thiện hệ thống ngân hàng 72

6. Đổi mới và đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư 73

7. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI 74

8. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cứng 75

9. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo kỹ thuật, tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng, hoạt động của Công đoàn và các tổ chức đoàn thể

trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 76

 

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

 

doc117 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2074 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam trong quá trình tham gia AIA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với tầm quan trọng và tiềm năng to lớn của các ngành này tại Việt Nam. Do vậy, FDI không tạo ra nhiều việc làm như dự đoán bởi vì một phần quan trọng của các dự án FDI đã được thực hiện cho các ngành công nghiệp cần tập trung vốn. Hơn nữa, các ngành công nghiệp này được ưu tiên bảo hộ cao như ô tô, xe máy, xi măng, thép, bộ phận hàng điện tử, trong khi đó các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh cá không được bảo hộ. Lao động làm việc trong khu vực FDI có chất lượng cao hơn hẳn. Điều này được thể hiện qua các chỉ tiêu cáo về vốn/lao động, điều kiện lao động, trình độ lao động, khả năng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực...Với điều kiện lao động tốt hơn, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, lao động trong khu vực FDI có năng suất cao hơn so với khu vực nội địa. Tiền lương chủ ĐTNN trả cho lao động Việt Nam cao hơn so với các khu vực khác, điều này phù hợp với năng suất lao động cao do lực lượng lao động này mang lại. Lương bình quân lao động Việt Nam trong khu vực ĐTNN từ 75-80 đô la Mỹ/tháng, cao hơn bình quân chung của DN trong nước. Theo điều tra của JETRO (12/1999), riêng ở DN Nhật, lương bình quân tháng của công nhân Việt Nam tại Hà Nội là 94 đô la Mỹ, thành phố Hồ Chí Minh là 113 đô la Mỹ; lương kỹ sư từ 220-250 đô la Mỹ; lương quản lý cấp trung từ 490-510 đô la Mỹ. Với khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và số lượng đáng kể công nhân lành nghề, riêng thu nhập của người lao động làm việc trực tiếp trong khu vực ĐTNN hàng năm lên tới trên 400 triệu đô la Mỹ. - Về cấu trúc FDI theo địa phương, tính tới thời điểm này, tất cả 61 tỉnh và thành phố của Việt Nam đã thu hút được FDI, nhưng thực tế các nhà ĐTNN tập trung đầu tư theo địa lý cho một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu và một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Bắc như Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng Ninh, trong khi đó miền Trung chỉ thu hút được một số lượng FDI rất nhỏ. Hiện nay 20 tỉnh phát triển thấp đã thu hút được hơn 10 dự án FDI và 4 tỉnh tại vùng sâu, vùng xa và miền núi (Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên) chỉ thu hút được một phần rất nhỏ dự án FDI. Bảng số 1 : Phân bổ FDI theo tỉnh /thành phố tính đến ngày 02/07/2002 Thành phố/tỉnh Dự án (%) Vốn (%) Tổng số 100,00 100,00 Bà Rịa - Vũng Tàu 2,36 4,73 Bình Dương 16,44 7,05 Đồng Nai 10,54 13,73 Hải Dương 1,12 1,30 Hải Phòng 3,20 3,38 Hà Nội 12,30 20,42 T.P Hồ Chí Minh 34,11 26,56 Lâm Đồng 1,60 2,20 Quảng Ngãi 0,15 3,44 Thanh Hoá 0,21 1,15 Khác 17,98 16,05 Nguồn : Báo Đầu tư Việt Nam, số 563/29/7- ngày 4/8/2002 - Việt Nam cũng đã triển khai một hệ thống các khu công nghiệp trên toàn quốc để cung cấp cơ sở hạ tầng phù hợp cho các nhà đầu tư. Cho tới nay, có 67 khu công nghiệp đã được triển khai. Trong số đó có một khu công nghiệp 100% vốn nước ngoài, 14 khu công nghiệp liên doanh và 52 khu công nghiệp do phía Việt Nam chủ sở hữu. Tỉ lệ chiếm giữ của các khu công nghiệp này là 35% với 870 dự án ĐTNN và 9 tỉ đô la Mỹ vốn cam kết, 85% dự án được cấp giấy phép trong các khu công nghiệp này là các công ty 100% vốn nước ngoài. - Về mặt pháp lý, có ba hình thức ĐTNN tại Việt Nam: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên doanh (JV) và DN 100% vốn ĐTNN. Đối với ngành dầu khí và viễn thông, hình thức BCC phải được áp dụng theo đúng Luật ĐTNN, trong khi đó một loạt các ngành khác như giao thông, du lịch và một số ngành khác thì Luật ĐTNN ngầm định JV như là một hình thức đầu tư. Đối với các hoạt động khác, các nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức đầu tư cũng như mô hình và địa điểm đầu tư. Tuy vậy, các nhà ĐTNN ngày càng thích hình thức sở hữu toàn bộ sau khi thấy những khó khăn mà công ty liên doanh gặp phải với đối tác phía Việt Nam. Trong một vài năm gần đây, các DN 100% vốn nước ngoài chiếm 615 tổng số dự án được cấp giấy phép và 32,8% số vốn đã cam kết. Hầu hết các công ty liên doanh đều tiến hành hoạt động với DN Nhà nước Việt Nam (DNNN) (98% số dự án), các công ty liên doanh với khu vực kinh tế tư nhân là rất ít và hạn chế (chỉ 2% liên doanh với khu vực kinh tế tư nhân mới nổi). Đây cũng là một điều khác biệt so với các nền kinh tế khác của khu vực. Sáu dự án BOT đã được áp dụng cho ngành cung cấp điện và nước, nhưng thời gian và các cuộc đàm phán phức tạp đã làm cho hình thức này không được phổ biến trong các nhà đầu tư. Khác với Trung Quốc, đầu tư từ Hồng Kông, Đài loan và người Trung Quốc ở nước ngoài đóng một vai trò chủ yếu trong FDI, đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài thì quá ít. Bảng số 2: FDI theo phương thức đầu tư (Chỉ tính các dự án đã thực hiện- tính đến 31/12/2001) Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn điều lệ Giải ngân - BOT - BCC - 100% vốn nước ngoài -Liên doanh 6 139 1.858 1.043 1.227.975.000 4.052.387.523 12.413.969.370 20.166.951.658 363.885.000 3.481.919.677 5.486.782.896 7.975.488.023 39.962.500 3.274.371.386 5.663.310.743 9.716.048.371 Tổng cộng 3.046 37.861.283.551 17.308.075.596 18.693.693.360 Nguồn: Vụ Quản lý Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Với trên 73 nước và nền kinh tế trên thế giới đã và đang đầu tư vào Việt Nam, châu á chiếm 64%, châu Âu chiếm 21%, Mỹ và các nước vùng Caribê chiếm 13%, trong đó có nhiều tập đoàn lớn có tiềm lực mạnh về công nghệ và tài chính, ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ; đồng thời tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Sing-ga-po là nhà ĐTNN lớn nhất với 254 dự án với vốn đã đăng ký là 6,9 tỷ đô la Mỹ, tiếp theo là Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông và Hàn Quốc. Năm nền kinh tế đứng đầu về đầu tư tại Việt Nam này đã đầu tư 2.062 dự án (59,7% tổng số dự cán được cấp giấy phép) với tổng số vốn cam kết là 22,6 tỷ đô la Mỹ (53,5% tổng số vốn cam kết). Năm nước đầu tư lớn tiếp theo là Pháp, British Virgin Islands, Hà Lan, Nga và Vương Quốc Anh. Các nhà đầu tư “top ten” chiếm 75% tổng số dự án đã cấp giấy phép và tổng số vốn đã cam kết. Bảng số 3: 10 nước và lãnh thổ có số vốn FDI lớn đầu tư vào Việt Nam (tính đến 2 / 7 /2002) Nước và lãnh thổ Số lượng dự án Vốn (tỉ đô la Mỹ) Sing-ga-po 254 6.907,67 Đài Loan 832 5.298,33 Nhật Bản 339 4.119,02 Hàn Quốc 403 3.461,86 Hồng Kông 234 2.819,21 Pháp 117 2.039,57 B.V. Islands 144 1.759,48 Hà Lan 42 1.655,56 Nga 41 1.506,36 Vương Quốc Anh 40 1.171,56 Nguồn: Báo Đầu tư Việt Nam số 563/29/7- 4/8/2002 Đầu tư trực tiếp nước ngoài của ASEAN vào Việt Nam: Trong hoạt động FDI tại Việt Nam, các Quốc gia thành viên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (ASEAN) đóng vai trò hết sức quan trọng. Mấy năm qua, nguồn vốn đầu tư này vẫn tiếp tục gia tăng, mặc dù nhịp độ có phần giảm sút do nhiều nguyên nhân. . Tình hình đầu tư trực tiếp của các Quốc gia ASEAN vào Việt Nam: Đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn: (i) giai đoạn từ 1/1/1988 đến trước khi Việt Nam cam kết thực hiện AFTA (1996); (ii) giai đoạn từ khi Việt Nam gia nhập AFTA đến khi ký Hiệp định AIA (1998) và (iii) giai đoạn từ khi ký Hiệp định AIA đến nay. Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư - tháng 2/2002 Giai đoạn 1: Tính đến đầu năm 1996, các dự án của ASEAN vào Việt Nam đã là 3,2 tỷ đô la Mỹ, chiếm khoảng 17% tổng số dự án và tổng vốn đầu tư. Nhiều Quốc gia ASEAN đã có vị trí đáng kể trong số 10 quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Đến tháng 1/1995, Sing-ga-po đứng hàng thứ 3 và là quốc gia có tổng số dự án và vốn lớn nhất trong FDI của ASEAN vào Việt Nam với 27 dự án và 1.057 tỷ đô la Mỹ. Ma-lai-xi-a giữ vị trí thứ hai trong số các Quốc gia ASEAN đầu tư vào Việt Nam với 33 dự án và tổng số vốn 586,4 triệu đô la Mỹ. Đa số các Quốc gia ASEAN đã ký kết các Hiệp định song phương với Việt Nam về xoá bỏ các rào cản về đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định bảo hộ đầu tư... Nhìn chung, cũng như các quốc gia khác khi mới đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam, FDI của ASEAN vào Việt Nam trong thời kỳ này còn nhỏ về quy mô, và chủ yếu là mang tính thăm dò. Lĩnh vực thu hút đầu tư thời kỳ này là các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến nông, lâm, hải sản, khách sạn và du lịch... trên cơ sở tận dụng các nguồn tài nguyên sẵn có và nguồn lao động rẻ của Việt Nam. Giai đoạn 2: Việt Nam cam kết thực hiện AFTA kể từ 1/1/1996. Với các chương trình AFTA đang và sẽ đặt ra, AFTA có 3 mục tiêu kinh tế chủ yếu: Thực hiện tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực; Thu hút FDI vào ASEAN bằng việc biến ASEAN thành một thị trường thống nhất và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế; Làm cho ASEAN thích ứng với các xu hướng và các điều kiện quốc tế thường xuyên biến đổi. Do khả năng thực hiện buôn bán trong nội bộ ASEAN hạn chế và một số nguyên nhân khác mà trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu số 2 đã được coi là mục tiêu chính. Có ý kiến cho rằng tính năng động của AFTA, xét trên khía cạnh FDI, được thể hiện như sau Nguồn: Nguyễn Xuân Thắng, tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới” số 5, tháng 10/1997 : Thứ nhất, dưới tác động của phân công lao động quốc tế nội bộ ASEAN, các nước phải lựa chọn các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh, đồng thời phải mở cửa thị trường của mình cho nhiều mặt hàng xuất khẩu từ ASEAN; Thứ hai, dưới tác động của CEPT về giảm thuế quan, thương mại giữa các nước ASEAN sẽ được thúc đẩy, và đặc biệt, giá thành của sản phầm cuối cùng sản xuất tại ASEAN sẽ giảm. Đây là yếu tố tạo sự hấp dẫn lớn với các nhà đầu tư trực tiếp quốc tế ngoài ASEAN; Thứ ba, để có được cơ hội chiếm lĩnh được thị phần đáng kể ASEAN, và để được hưởng các ưu đãi khi sản phầm được sản xuất ra có xuất xứ 40% tại ASEAN, nhà đầu tư quốc tế sẽ tích cực đầu tư vào ASEAN hơn là bảo vệ và mở rộng thị trường mà trước đây, khi chưa có AFTA, họ phải chu chuyển sản phầm hàng hoá của mình từ các cơ sở sản xuất bên ngoài ASEAN. Nhờ quy định thấp hơn về nguồn gốc xuất xứ so với các khối mậu dịch tự do khác, việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho một nước thuộc AFTA sẽ đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư. Thứ tư, cùng với sự gia tăng cơ học về dân số, nhu cầu sức mua và sự sáng tạo về văn minh thương mại (tức là dưới tác động qua lại của tiêu dùng trong một thị trường thống nhất, chất lượng và quy mô của tiêu dùng cũng sẽ đổi mới), thị trường ASEAN cũng sẽ lớn mạnh hơn. Với các lý do trên, FDI của ASEAN vào Việt Nam kể từ khi Việt Nam tham gia AFTA đã có những chuyển biến tích cực. Tính đến 14/12/1997, tổng dự án đầu tư của ASEAN đã lên tới 349 với tổng mức vốn cam kết tăng tới 8.443,14 triệu đô la Mỹ, gấp hơn hai lần so với thời kỳ trước 1/1/1996. Từ chỗ ba Quốc gia ASEAN (Sing-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan) chiếm giữ các vị trí 5, 7 và 12 trong số các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (theo số liệu tháng 6/1995) thì đến thời điểm lúc này, ba Quốc gia này đã giữ các vị trí 1, 7 và 9 trong số 10 Quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Đầu tư của toàn ASEAN đã chiếm 19,8% số dự án và 27% tổng mức vốn đầu tư của tất cả các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Quy mô vớn trong các dự án đầu tư của ASEAN là 24,19 triệu đô la Mỹ/dự án, cao hơn mức trung bình của tất cả các dự án từ tất cả các quốc gia đầu tư vào Việt Nam là 17,74 triệu đô la Mỹ/dự án. Trong đó, Sing-ga-po, Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a là những nước có nhiều dự án có quy mô lớn. Quy mô vốn trung bình của các dự án từ Sing-ga-po là 30,65 triệu đô la Mỹ/dự án, của Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a tương ứng là 21,58 và 21,75 triệu đô la Mỹ/dự án Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư Giai đoạn 3: Cùng với những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc dần cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến thu hút FDI để triển khai có hiệu quả Hiệp định AIA, FDI từ các Quốc gia thành viên ASEAN vào Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Tuy cũng chịu ảnh hưởng một cách gián tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 nên đầu tư của các Quốc gia ASEAN vào Việt Nam có gặp một số cản trở, đầu tư không những giảm mạnh về số lượng mà nhiều dự án đầu tư còn bị giãn tiến độ thực hiện, song theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong năm 1998 cũng có 15 dự án của ASEAN đầu tư vào Việt Nam; trong năm 1999, con số này tăng lên 34 dự án. Tính tới hết tháng 6/2002, theo Bộ Kế hoạch và đầu tư, các nước thành viên ASEAN hiện có khoảng 500 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 9.460 triệu đô la Mỹ, trong đó đã thực hiện được 4.085 triệu đô la Mỹ. So với toàn khu vực FDI tại Việt Nam, đầu tư của các nước ASEAN chiếm khoảng 15% về số dự án, khoảng 24,5% về số vốn đăng ký và khoảng 20% về số vốn thực hiện. Trong số những dự án nêu trên, đến nay đã có 287 dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh với tổng vốn đăng ký trên 6.060 triệu đô la Mỹ và trên 80 dự án đang xây dựng cơ bản với tổng vốn đăng ký khoảng 920 triệu đô la Mỹ. So với toàn khu vực, FDI chiếm lần lượt là 16% số dự án và 25% số vốn sản xuất đăng ký kinh doanh, 13% số dự án và 12,9% số vốn đăng ký đang xây dựng cơ bản. Những DN có vốn đầu tư ASEAN đã và đang tạo ra nhiều mặt hàng và có tổng doanh thu trên 4,5 tỷ đô la Mỹ. Hơn nữa, khu vực đầu tư ASEAN đang tạo việc làm cho khoảng 35.000 lao động trực tiếp Nguồn: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư ASEAN” - Tạp chí Kinh tế - số 34, ngày 27/8/2002 . Với 7 Quốc gia đang có dự án (trừ Mi-an-ma, Bru-nây), mà trong đó đóng vai trò chủ chốt là ba nước Sing-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan, đạt được kết quả như vậy là rất đáng khích lệ. Theo đánh giá của các chuyên gia quản lý dự án FDI, những dự án đầu tư của các Quốc gia ASEAN tại Việt Nam đã và đang thực sự góp phần tích cực vào sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các Quốc gia thành viên khác và vào công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ đó, giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các Quốc gia ASEAN hiện chiếm tỷ trọng khoảng 16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi nhập khẩu trở lại chiếm tỷ lệ khoảng 26% tổng kim ngạch của cả nước. So với năm 1994, năm trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, kim ngạch xuất khẩu của năm 2001 của Việt Nam sang thị trường ASEAN đạt trên 2,55 tỷ đô la Mỹ, lớn gấp 2,8 lần, đồng thời kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 4,12 tỷ đô la Mỹ, cũng gấp hơn 2,3 lần. Nếu như trước đây, thương mại, nhà hàng, khách sạn và kinh doanh bất động sản là những lĩnh vực chính thu hút ĐTNN thì nay, công nghiệp đang là lĩnh vực thu hút được đầu tư nhiều nhất cả về số lượng dự án và tổng vốn đăng ký. Trong số các dự án đầu tư của Ma-lai-xi-a vào Việt Nam, lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 44% tổng dự án và 70% tổng vốn đầu tư. Công nghiệp nhẹ được quan tâm nhiều nhất với 8 dự án và tổng số vốn đầu tư là 434 triệu đô la Mỹ. Công nghiệp nặng với 7 dự án và tổng số vốn đầu tư là 31 triệu đô la Mỹ Nguồn: “Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam, thập kỷ 90”-Tạp chí Kinh tế châu á-Thái Bình Dương - số 4/2002 . Phần lớn các dự án đầu tư của các Quốc gia ASEAN vào Việt Nam được tập trung ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nếu như năm 1994, Hà Nội chỉ có 68 dự án đầu tư của các Quốc gia ASEAN với tổng vốn là 778 triệu đô la Mỹ thì một năm sau đó, tính đến hết tháng 5/1995 (hai tháng trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN), số dự án ở Hà Nội đã tăng lên 100 dự án với tổng số vốn gần nửa tỷ đô la Mỹ. Trong đó, vốn đầu tư của Sing-ga-po đã lên tới hàng trăm triệu đô la Mỹ, bao gồm dự án xây dựng tháp trung tâm Hà Nội - Hasin International với số vốn 32,2 triệu đô la Mỹ, khách sạn công ty quốc tế hồ Tây với số vốn 50 triệu đô la Mỹ, vườn Quốc gia Quảng Bá với 50 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra còn có các dự án đầu tư của Ma-lai-xi-a với khu chế xuất Thăng Long - Nội Bài 30 triệu đô la Mỹ - đây được coi là khu công nghiệp tập trung lớn nhất Hà Nội. Dự án đầu tư của Phi-lip-pin với 58 triệu đô la Mỹ để xây khách sạn Kim Liên, dự án đầu tư của Thái Lan với số vốn 43 triệu đô la Mỹ để xây dựng khách sạn SAS, khách sạn Hoàng Gia, khách sạn Opera. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tính đến hết tháng 9/2001, có 94 dự án của các nhà đầu tư Sing-ga-po với tổng vốn đầu tư đạt khoảng 1.139 tỷ đô la Mỹ Nguồn: “Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam, thập kỷ 90” - Tạp chí Kinh tế châu á - Thái Bình Dương - số 2(37), tháng 4/2002 . Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư- Vụ Quản lý dự án- Ngày 19/3/2002 Đáng chú ý là một số tập đoàn đa quốc gia của các Quốc gia ASEAN cũng đã đầu tư tại Việt Nam như Keppel (Sing-ga-po), Petronas (Ma-lai-xi-a), Charoen Pokphand (Thái Lan), San Miguel Corp (Phi-lip-pin)... Có thể nói, số dự án đã, đang, cũng như chuẩn bị đi vào hoạt động đã chứng tỏ được tiềm năng và khả năng thu hút đầu tư của các Quốc gia trong khối vào Việt Nam là rất hiệu quả. Đặc biệt, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương cấp phép thành lập các văn phòng đại diện kinh doanh cho các Quốc gia trong khu vực với số lượng lớn, cụ thể như Thái Lan có 60 văn phòng đại diện được cấp phép, Sing-ga-po có 263, Ma-lai-xi-a có 26 và Phi-lip-pin có 8 văn phòng đại diện được cấp phép Nguồn: “Đầu tư vào ASEAN, cơ hội và thách thức cho các DN Việt Nam” - Tạp chí kinh tế - số 18, ngày 7/5/2002 . Bảng số 4: Các dự án FDI của các nước ASEAN đang hoạt động ở một số địa phương (Từ ngày 1/1/1988 đến ngày 5/7/2002) STT Địa phương Số dự án Vốn đăng ký (tr.đô la Mỹ) Vốn thực hiện (tr.đô la Mỹ) Doanh thu (tr.đô la Mỹ) Xuất khẩu (tr.đô la Mỹ) Số LĐ (người) 1 TP. Hồ Chí Minh 165 2.197,66 1.257,43 2.328,36 137,66 12.470 2 Bình Dương 87 670,66 473,38 446,04 78,35 5.971 3 Hà Nội 67 3.537,11 776,99 456,78 51,69 4.876 4 Đồng Nai 47 674,27 339,97 1.064,39 94,50 4.564 5 Bà Rịa- Vũng Tàu 22 304,71 90,74 150,27 19,34 1.327 6 Tây Ninh 11 35,37 21,10 46,23 7,88 2.295 7 Hải Phòng 10 72,58 86,60 2,48 604 Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ Quản lý dự án- Ngày 5/7/2002 2.2. Một số đánh giá về đầu tư của ASEAN vào Việt Nam: Cho tới nay, đã có hàng trăm dự án đầu tư của các Quốc gia ASEAN đầu tư vào Việt Nam, trong đó có hàng loạt các dự án được coi là thành công như: công ty bia Heineken, công ty nước giải khát IBC, công ty cán thép Natsteel Vina v.v... Một số khu công nghiệp và khu chế xuất hoạt động có hiệu quả như: khu công nghiệp Việt Nam _ Sing-ga-po (tỉnh Bình Dương), khu công nghiệp Amata (Việt Nam _ Thái Lan), khu chế xuất Đà Nẵng (Việt Nam_ Ma-lai-xi-a), khu công nghiệp Nội Bài (Việt Nam_ Ma-lai-xi-a)... Đây là những nguồn lực quan trọng bổ sung cho kinh tế Việt Nam, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ĐTNN của các Quốc gia ASEAN vào Việt Nam là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học công nghệ cho người lao động. Năm 1998, ĐTNN của các Quốc gia ASEAN đã tạo việc làm cho 34.400 lao động và mang lại 369 triệu đô la Mỹ doanh thu xuất khẩu Nguồn: “Đầu tư của ASEAN vào Việt nam, thập kỷ 90” - Tạp chí Kinh tế châu á - Thái Bình Dương - số (37), tháng 4/2002 . Bên cạnh đó, ĐTNN của các Quốc gia ASEAN còn góp phần nâng cao tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam lên bình diện rộng khắp hơn, sâu sắc hơn, thể hiện ở Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết trong năm 2000 và việc tiến gần đến những nguyên tắc cơ bản của vòng đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Mặc dù ĐTNN của các Quốc gia ASEAN tăng mạnh trong những năm qua nhưng cũng phải thừa nhận rằng vẫn còn một số những hạn chế. Cuộc hội thảo về chất lượng đầu tư của các Quốc gia ASEAN tại Việt Nam được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh đầu tháng 12/2001 đã đưa ra một số những hạn chế như sau: Thứ nhất, chất lượng đầu tư của các Quốc gia ASEAN tại Việt Nam chưa cao, chưa chú trọng đầu tư phát triển hàng xuất khẩu nên việc cân đối ngoại tệ trong sản xuất kinh doanh đối với nhiều dự án gặp không ít khó khăn. Thứ hai, tổng vốn chưa thực hiện so với vốn đăng ký khá lớn. Trong số vốn chưa thực hiện này chủ yếu tập trung ở các dự án trong khu vực công nghiệp dầu khí và dịch vụ. Sing-ga-po là một trong số 15 Quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn đầu tư tại Việt Nam chiếm phần vốn chưa thực hiện lớn nhất (trên 4,7 tỷ đô la Mỹ). Phần vốn chưa thực hiện của Thái Lan là 600 triệu đô la Mỹ, Ma-lai-xi-a có phần vốn chưa thực hiện tương đối nhỏ là 137 triệu đô la Mỹ. Đa số vốn chưa thực hiện tập trung ở các thành phố lớn của Việt Nam, như thành phố Hồ Chí Minh có số vốn chưa thực hiện lớn nhất (5,1 tỷ đô la Mỹ), tiếp đến là Hà Nội (4,97 tỷ đô la Mỹ)Nguồn: “Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam, thập kỷ 90” - Tạp chí Kinh tế châu á-Thái Bình Dương - 4/2002 ... Nhóm dự án liên doanh có nhiều vốn chưa thực hiện nhất, sau đó là nhóm dự án 100% vốn nước ngoài. Tiếp đến nhóm dự án theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thứ ba, sự thiếu ổn định về chính trị tại một số Quốc gia (In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin...) cũng ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng triển khai nhiều dự án, số dự án chưa triển khai chiếm tới gần 60% vốn đăng ký. Tuy còn một số tồn tại như trên, song với những kết quả về ĐTNN của các Quốc gia ASEAN vào Việt Nam trong thời gian qua, có thể nói đó là một tín hiệu mới báo hiệu trước một thời kỳ phát triển hợp tác sâu rộng với chất lượng cao hơn nữa giữa Việt Nam với các Quốc gia trong cùng mái nhà chung ASEAN. Đầu tư vào ASEAN: Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam Bên cạnh việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt tập trung trong khu vực ASEAN của các DN Việt Nam đã được đặt ra từ lâu bởi đây chính là một trong những cơ hội lớn để các DN có thể mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường, tận dụng những lợi thế khi đầu tư ra nước ngoài, góp phần giúp Việt Nam tham gia sâu hơn tích cực hơn vào Hiệp định AIA. Tuy nhiên, trên thực tế, tiến trình thực hiện này vẫn còn rất chậm, các DN Việt Nam vẫn còn những khó khăn, thách thức cho nên hoạt động vẫn chưa đạt được kết quả đáng kể. Có thể nói, trong những năm qua, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DN Việt Nam chỉ tập trung vào các nước như Đông Âu và Liên Xô (cũ) do ở đây có nhiều cộng đồng người Việt sinh sống. Riêng các nước trong khối ASEAN, Việt Nam mới chỉ có một số dự án đầu tư ở Lào và Cam-pu-chia nhưng ở mức vẫn còn rất khiêm tốn và tập trung phần nhiều vào các ngành như dệt may, sản xuất thực phẩm. Còn đầu tư vào các nước ASEAN khác thì hầu như chưa có chuyển biến gì đáng kể. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, khi các DN Việt Nam đầu tư vào các nước trong khu vực ASEAN sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định, như thiếu mạng lưới người Việt Nam sinh sống tại nước đó để làm chỗ dựa ban đầu khi thâm nhập các thị trường mới. Bên cạnh đó, “Các DN Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp chiếm số lượng khá lớn nên phần đông họ sẽ bị cạnh tranh về năng lực sản xuất, công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường, thường rất dễ gặp rủi ro nên việc đầu tư ra nước ngoài là việc họ ít nghĩ tới, mặc dù biết rằng nguồn lợi mang lại là rất lớn...” Nguồn: Tiến sỹ Trần Du Lịch, Viện trưởng Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh . Để khắc phục tình trạng này, các DN lớn thuộc Nhà nước, đặc biệt là các Tổng công ty, nên mạnh dạn đi lên tiên phong trong việc thực hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài để sau đó tạo nền tảng cho các DN vừa và nhỏ khác. Việt Nam không nên bỏ lỡ những cơ hội làm ăn quý giá. (Trên tinh thần đó, lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh và một số Tổng công ty lớn của thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thực hiện nghiên cứu nhiều chương trình đầu tư lớn, trước tiên sẽ tập trung ở Lào và Cam-pu-chia). “Các DN Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội mở rộng hợp tác đầu tư chuyển giao công nghệ với bạn hàng nước ngoài nhờ các cam kết đa phương và những quy định chung của các nước trong ASEAN...” Nguồn: Bà Bùi Xuân Hương, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh Hợp tác và mở rộng đầu tư ra nước ngoài là con đường nhanh nhất để các DN Việt Nam tăng thêm sức mạnh nội lực, tích luỹ thêm kinh nghiệm làm ăn cũng như phát triển thêm các cơ hội làm ăn và tiêu thụ hàng hoá. Trong bối cảnh tình hình thu hút ĐTNN ngày càng cạnh tranh gay gắt, nhiều nước đã phải nhanh chóng thực hiện triệt để cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện nhiều biện pháp ưu đãi đặc biệt đối với các nhà ĐTNN hơn hẳn đối với các nhà đầu tư bản địa. Vì thế, các DN Việt Nam cần phải nhanh chân hơn nữa để tận dụng cơ hội quý giá này. Chương 3 Định hướng và giải pháp nhằm triển khai Hiệp định AIA có hiệu quả trong thời gian tới của Việt Nam Định hướng chung của toàn bộ nền kinh tế: Chủ trương của Nhà nước trong việc thu hút FDI trong thời gian tới: Trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư phát triển nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là rất lớn. Theo ước tính sơ bộ, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001-2005 lên tới 65-70 tỷ đô la Mỹ, trong đó nguồn vốn nước ngoài cần tới 22-25 tỷ đô la Mỹ, chiếm 30-35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep nam 2002 cua Nguyen Viet Nga (A1-K37-D.doc
Tài liệu liên quan