Khóa luận Khủng hoảng nợ Hy Lạp- Nguyên nhân và tác động đến vị thế đồng tiền chung châu Âu

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG 6

1.1. Lý thuyết chung về khủng hoảng nợ công 6

1.1.1. Nợ công 6

1.1.2. Khủng hoảng nợ công 13

1.2. Lịch sử các cuộc khủng hoảng nợ trên thế giới 14

1.2.1. Khủng hoảng nợ Argentina (1999 - 2002) 15

1.2.2. Khủng hoảng nợ Indonesia (1997) 18

1.2.3. Khủng hoảng nợ châu Âu (2010) 20

CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG NỢ HY LẠP 24

2.1. Một số nét khái quát về Hy Lạp 24

2.2. Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010 25

2.2.1.Diễn biến 25

2.2.2. Nguyên nhân 29

2.2.2.1. Tham nhũng có hệ thống 29

2.2.2.2. Bệnh thành tích khi gia nhập EU 31

2.2.2.3. Năng lực quản lý vĩ mô 34

2.3. Tác động đến đồng tiền chung Châu Âu 42

2.3.1 Khái quát chung về đồng Euro 42

2.3.1.1 Lịch sử hình thành 42

2.3.1.2 Các nước tham gia 45

2.3.1.3 Ký hiệu tiền tệ 45

2.3.2. Đồng Euro trước khủng hoảng nợ Hy Lạp 47

2.3.2.1. Tác động kinh tế 47

2.3.2.2. Tác động về lạm phát của đồng Euro 47

2.3.2.3. Euro trong hệ thống tiền tệ toàn cầu 48

2.3.3. Đồng Euro sau khủng hoảng nợ Hy Lạp 50

2.3.3.1 Tỷ giá 51

2.3.3.2 Dự trữ ngoại hối trên toàn cầu 56

2.3.3.3 Giá trị thực của Đồng Euro 55

CHƯƠNG 3: BÀI HỌC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 57

3.1. Bài học cho các nước Liên minh Châu Âu 57

3.2. Bài học cho ý tưởng về đồng tiền chung của ASEAN 59

3.3. Bài học về quản lý nợ công cho Việt Nam 63

3.3.1. Tình hình nợ công của Việt Nam 63

3.3.2. Nguy cơ từ nợ công 65

3.3.3. Một số kiến nghị 66

KẾT LUẬN . 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 77

PHỤ LỤC .78

 

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3561 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khủng hoảng nợ Hy Lạp- Nguyên nhân và tác động đến vị thế đồng tiền chung châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huẩn bị cho việc ra mắt đồng euro, Hội đồng châu Âu đã họp tại Dublin để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và Liên minh châu Âu (EU) ký một hiệp ước quy định các thành viên trong nhóm giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt quá 3% GDP và tổng nợ chính phủ không vượt quá 60% GDP quốc gia. Mười một sáng lập viên lúc bấy giờ vẫn ấn định giờ G là ngày 1/1/1999 ra mắt đồng euro. Nhưng không có quốc gia nào trong khối lúc bấy giờ đáp ứng được tiêu chí trên. Ví dụ lúc đó Bỉ có tổng nợ quốc gia lên đến 131% GDP. Riêng Hy Lạp, bệnh thành tích thể hiện rõ rệt hơn cả ngay từ khi bắt đầu gia nhập, với những nỗ lực làm đẹp sổ sách để chạy đua vào Liên minh mà chưa lường được hết hậu quả của sự vội vàng này: * Gia nhập vội vã Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho các thành viên sáng lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều đó khiến các tham vọng chính trị va vấp với những thực trạng về nền kinh tế các quốc gia. Bất chấp tất cả, các quốc gia châu Âu làm đẹp sổ sách bằng mọi giá để kịp tiến độ gia nhập. Lúc đó, con số thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến một số người nghi ngờ. Đáng ngạc nhiên hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5% vào năm 1998 và dự báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ còn 1,9% vào năm 1999. Cả châu Âu đã hoan hô thành tích này, tung hô Hy Lạp như một câu chuyện thần kỳ khiến một số nước phải ngưỡng mộ. Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha cũng cố gắng đạt thành tích thâm hụt chỉ 3%. * Những số liệu không chính xác Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế toán mới, cho thấy thâm hụt thực sự của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm 2004 một báo cáo khác lại chỉ ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là 4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập nhằng tiền chi tiêu mua sắm công với viện trợ chính phủ đến 2 tỉ euro. Không chỉ thế, Hy Lạp còn cố ý không tính đến một số chi tiêu quân sự cũng như y tế trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này còn xem một số viện trợ từ châu Âu là khoản thu vào của chính phủ. Với cách này, Hy Lạp đã bưng bít thâm hụt ngân sách năm 2003 một cách khó tin. Vào tháng 3/2004, Hy Lạp công bố thâm hụt ngân sách 2,6 tỉ euro tương đương 1,7%, tức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của EU là 2,7%. Điều đó khiến nhiều người nghi ngờ và EU gây áp lực khiến Hy Lạp công bố lại. Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp công bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các trợ cấp thuế ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau đó, Hy Lạp thừa nhận đã bỏ qua một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên giá trị thặng dư an sinh xã hội cùng lãi suất thấp đi, nên con số thực phải là 4,6%. Đến tháng 3.2005, Hy Lạp thông báo thâm hụt của năm 2003 là 5,2%. Và trong lần báo cáo cuối cùng vào cuối năm đó, con số tăng lên mức 5,7%. Sau 18 tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6 tỉ lên 8,8 tỉ euro. Theo ông Jean-Pierre Jouyet, chủ tịch uỷ ban Giám sát thị trường chứng khoán Pháp và là cựu cố vấn trưởng của chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vấn đề hiện tại của Hy Lạp cũng cho thấy thể chế tài chính của EU không đủ năng lực và chuyên môn để kiềm chế những thành viên không tuân thủ hiệp ước của khối. David Marsch, tác giả cuốn “Đồng euro” là cuốn sách nói đến quá trình khai sinh ra đồng tiền này lý giải liên minh tiền tệ đã được xem là công cụ cho liên minh chính trị, nên các sáng lập viên chẳng hề quan tâm nhiều đến chuyện trừng phạt thành viên vi phạm quy chế chung. Năm 1996, khi thảo luận xem liệu có cần thiết có những công cụ trừng phạt những thành viên vi phạm hay không, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Helmut Kohl cho rằng nên dựa vào ý thức, và cuối cùng EU ủng hộ chủ trương này. EU cho rằng các quốc gia sẽ phải tự điều tiết lấy. Willem Buiter, kinh tế gia trưởng của Citigroup và là thành viên của uỷ ban Chính sách tiền tệ của ngân hàng Anh quốc, mô tả hiệp ước 1996 như những con hổ giấy. Còn ông Jean-Pierre Jouyet nói: “Một hiệp ước mà không có biện pháp trừng phạt thì là vô nghĩa”. Không chỉ Hy Lạp, vào năm 2002 đến 2004, Pháp và Đức vượt chuẩn thâm hụt thì các quốc gia EU khác cũng không thật sự lo ngại. Ông Jean-Luc Dehaene, cựu Thủ tướng Bỉ, không ngại chỉ trích: “Họ có xu hướng đưa ra quyết định chính trị”. Nay, đến khi Hy Lạp khủng hoảng nặng nề và lo sợ đồng euro bị loại bỏ thì EU mới vào cuộc. 2.2.2.3. Năng lực quản lý vĩ mô * Vay nợ nước ngoài và chi tiêu công không hiệu quả Tham nhũng, trốn thuế là những tệ nạn khiến Hy Lạp ngày càng nghèo hơn so với các nước trong EU, khiến nước này lâm vào cảnh nợ nần quốc tế chồng chất. Thế nhưng, việc Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ còn có sự góp phần không nhỏ của việc chi tiêu công quỹ mạnh tay, không có kế hoạch trả nợ hợp lý khi mà quỹ công ấy có một phần không nhỏ là nợ nước ngoài. Nhìn bảng số liệu cho thấy, tỷ lệ nợ nước ngoài chiếm đến hơn ¾ tổng nợ của quốc gia này, cao nhất trong số các quốc gia được báo cáo. Gia nhập khu vực đồng tiền chung Euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Dễ dàng hút vốn đầu tư nước ngoài, chính phủ Hy Lạp đã liên tục bán trái phiếu thu về hàng trăm tỷ euro. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến xa nếu Chính phủ có kế hoạch chi tiêu và trả nợ hợp lý. Nhưng Chính phủ chỉ biết chi tiêu, mà phần lớn cho cơ sở hạ tầng mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ. Điển hình là công tác tổ chức Thế vận hội Olympic Athens 2004, một thế vận hội hoành trang nhất và tốn kém nhất trong lịch sử (chi đến 12 tỷ Euro, cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến). Chỉ riêng ngân sách quốc gia năm 2004 đã thâm hụt tới 6,1% so với GDP trong khi giới hạn mà EU cho phép là 3%. Bộ máy công quyền không ngừng lớn mạnh về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả công việc lại giảm đi rất nhiều. Theo Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, trong khi số lượng thực sự cần thiết chỉ chiếm 2/3. Rõ ràng, ngân sách quốc gia Hy Lạp đang phải gánh chịu một lượng công chức khổng lồ mà không có cách nào giảm tải được bởi trong Hiến pháp nước này có điều khoản cấm việc sa thải công chức. Đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm công ăn lương ở nước này. Số lượng nhiều, nhưng những người được gọi là công chức Nhà nước, dù làm ít hay nhiều, vẫn được hưởng mức lương khá cao so với mức lương bình quân ở những khu vực khác. Chỉ tính tiền lương thu nhập chính (chưa tính tiền thưởng, tiền hỗ trợ), sau khi trừ đi các khoản, bình quân 1 công chức lĩnh được 1.350 euro/tháng. Trong khi đó, bình quân mỗi tháng, người làm công ăn lương ở khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước chỉ được lĩnh khoảng 750 euro. Lương bình quân đã cao, việc thì không nhiều, thế nhưng, hầu hết công chức ở Hy Lạp đều được thưởng thêm vào dịp cuối năm. Ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tùy thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của từng năm, người làm công ăn lương sẽ được thưởng thêm khoảng 1 tháng lương (còn gọi là “tháng lương thứ 13”). Thế nhưng, ở Hy Lạp, đã thành lệ, hàng năm các công chức thường được nhận tối thiểu là 14 tháng lương. Cá biệt, có năm, công chức còn được lĩnh tới 16 tháng lương. Như vậy, lương bình quân đã cao, thưởng cũng nhiều, trong khi việc làm thì ít, lại không có nguy cơ bị sa thải nên trở thành công chức luôn là mơ ước của rất nhiều người trong độ tuổi lao động. Tất nhiên, hậu quả là ngân sách Hy Lạp năm nào cũng bị bội chi. Thâm hụt ngân sách liên tục tăng cao. Và, đến năm 2009, nó đạt đến mức 12,7% (theo quy định của EU, mức thâm hụt ngân sách ở các nước thành viên không được quá 3%). Với mức thâm hụt lớn như vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi tổng số nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới con số 300 tỷ euro vào năm 2009. Số nợ này được coi là quá lớn, vì nó tương đương với 113,4% GDP một năm của Hy Lạp. Con số này không chỉ làm Chính phủ Hy Lạp lo ngại mà ngay cả EU cũng phải vội vã tìm cách trợ giúp để cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, tránh một sự phá sản Nhà nước có thể ảnh hưởng dây chuyền tới tất cả các nước thành viên trong EU. * Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa không thống nhất Để có một môi trường tài chính bền vững, làm nền tảng cho kinh tế phát triển, về mặt vĩ mô, sự thống nhất giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là vô cùng quan trọng.Về cơ bản, chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân sách. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể các biện pháp, sử dụng các công cụ của Ngân hàng Trung ương nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền. Sự phối hợp hài hòa giữa hai chính sách này có ý nghĩa quyết định trong việc ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung. Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của Bộ Tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn như Hy Lạp, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả là một điều hoàn toàn có thể dự đoán trước được. Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo số liệu thống kê, Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%. Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này tại Mỹ, Nhật, Canada lần lượt là 28,2%; 27,4%; 33,4%. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động. Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công. * Không đáp ứng được tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Thêm vào đó, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Hy Lạp cũng bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Liên minh Châu Âu (EU) hay còn gọi là Khối Thịnh Vượng Chung là 1 liên minh kinh tế. Có tới 3/4 hàng hóa của khối này giao dịch giữa các thành viên với nhau. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm trong khi đồng Euro luôn được định giá ở mức cao so với đồng tiền khác. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công. 2.2.3. Hy Lạp tiến hành cải cách kinh tế Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp dần được giải quyết khi nước này nhận được gói cứu trợ 110 tỷ Euro từ EU và IMF trong vòng ba năm. Trong đó, EU cho vay 80 tỷ Euro với lãi suất 5%, IMF cho vay 30 tỷ Euro với lãi suất 3 %. Ngày 3 tháng 3 năm 2010, Hy Lạp cũng công bố kế hoạch tăng thuế giảm chi tiêu 6,5 tỷ USD trong năm tài khóa hiện tại. Chính phủ Athens cũng tiến hành một loạt các biện pháp “khắc khổ” nhằm thắt lưng buộc bụng như giảm lương công chức, tăng thuế,cắt giảm chi tiêu các chương trình an sinh xã hội, siết chặt tín dụng... Ngày 12-9, trong bài diễn văn trước các vị khách tham dự Hội chợ quốc tế Thessaloniki lần thứ 75 tại thành phố cùng tên của Hy Lạp, Thủ tướng Papandreou coi việc thực hiện các biện pháp khắc khổ là “cuộc đấu tranh sinh tồn đối với Hy Lạp”. Ông cam kết sẽ chỉ đạo cuộc đấu tranh này cho dù phải trả giá về chính trị, đồng thời kêu gọi người dân Hy Lạp đồng lòng với Chính phủ để đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay. Lộ trình được đưa ra tại đây là tiếp tục đẩy nhanh tốc độc cải cách cơ cấu để đưa Hy Lạp thoát khỏi khủng hoảng nợ công và trở lại con đường phát triển và thịnh vượng, bao gồm việc lập lại trật tự trong khu vực bệnh viện, cải tổ ngành đường sắt đang nợ chồng chất, tự do hóa thị trường năng lượng và chấm dứt tình trạng nhà nước giữ độc quyền khu vực điện lực. Ông cũng xác nhận các kế hoạch tự do hóa ngành vận tải đường bộ, từng là nguyên nhân dẫn đến các cuộc đình công kéo dài của các tài xế xe tải hồi tháng 7 năm 2010. Ông Papandreou cam kết dành 3,5 tỷ euro (khoảng 4,4 tỷ USD), chủ yếu bằng nguồn cứu trợ từ Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để bảo vệ người thất nghiệp và các nhóm xã hội bị tác động nhiều từ khủng hoảng kinh tế-tài chính, đồng thời Chính phủ sẽ nỗ lực giảm tệ quan liêu nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, khuyến khích đầu tư, nghiên cứu, đổi mới và phát triển bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ Hy Lạp kiên quyết loại trừ khả năng tái cơ cấu nợ nước ngoài của Hy Lạp. Bởi việc tái cơ cấu nợ sẽ là một thảm họa đối với nền kinh tế và tương lai của Hy Lạp. Khi đó, Hy Lạp sẽ phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như lương tiếp tục bị cắt giảm, hệ thống ngân hàng đổ vỡ. Chính vì thế, Hy Lạp đã làm mọi điều cần thiết để tránh bị phá sản. Theo lập luận này, một loạt các biện pháp kinh tế khắc khổ là đủ để giảm thâm hụt ngân sách nhà nước từ mức 13,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2009 xuống còn 8,1% trong năm 2010. Hy Lạp cũng chưa đề ra các biện pháp mới, trong đó có việc cắt giảm lương bởi các biện pháp mà Chính phủ đã thực thi là rất khả quan, nhằm đạt mục tiêu mà Athens đặt ra vào cuối năm 2010 giảm thâm hụt ngân sách 1,5 tỷ USD. Dù khẳng định cuộc cải cách đang đi đúng hướng để đưa Hy Lạp ra khỏi vũng lầy vào thời điểm 2014, nhưng ông Papandreou cũng phải thừa nhận các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và thấp sẽ phải hy sinh nhiều cho các kế hoạch kinh tế khắc khổ này. Ngay cả khi nhận được gói cứu trợ, Hy Lạp vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến việc tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Ngoài hiện trạng thâm hụt ngân sách cao khiến lãi suất tăng vọt trên thị trường tài chính, Hy Lạp còn đang phải đối mặt với nền kinh tế yếu với khả năng cạnh tranh thấp. Khác với Đức, sự gia tăng tiền lương ở Hy Lạp trong thời gian qua không tương ứng với sự gia tăng năng suất. Khả năng cạnh tranh kém đã làm giảm cầu về hàng hóa Hy Lạp dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại cao (khoảng 14% GDP. Hơn nữa, do sử dụng đồng tiền chung châu Âu nên Hy Lạp không có khả năng phá giá tiền tệ nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh. Những cuộc bãi công biểu tình khiến cho khả năng phục hồi càng chậm. Vào thời điểm Thủ tướng Hy Lạp đưa ra những tuyên bố này, khoảng 4.000 cảnh sát được huy động để bổ sung cho lực lượng đảm bảo an ninh, trong bối cảnh khoảng 200.000 người biểu tình bên ngoài nơi diễn ra sự kiện này. Cảnh sát buộc phải dùng hơi cay để giải tán các cuộc ẩu đả trong nhóm người biểu tình và bắt giữ một số đối tượng quá khích. Các nghiệp đoàn Hy Lạp chỉ trích kế hoạch này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, như cắt giảm chi tiêu và tăng thuế tiêu dùng. Lương của khu vực công cũng bị cắt 15%, lương hưu giảm 10%, trong khi thuế giá trị gia tăng lên 23%. Tình trạng này tiếp tục kéo dài và đe dọa làm trầm trọng thêm tình hình xã hội. Công nhân ngành đường sắt Hy Lạp đang dự định biểu tình phản đối việc giảm lương, thậm chí một số người còn dọa đốt tàu. Công đoàn ngành vận chuyển đường bộ cũng đã thông báo tổ chức biểu tình trong tuần này, cho dù đã có 6 cuộc bãi công từ đầu năm tới nay. Rõ ràng, cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội sẽ tiếp tục là một bài toán khó đối với nội các hiện tại của Thủ tướng Papandreou. 2.3. Tác động đến đồng tiền chung Châu Âu 2.3.1. Khái quát chung về đồng Euro 2.3.1.1. Lịch sử hình thành Euro (€; mã ISO: EUR), còn gọi là Âu kim là đơn vị tiền tệ của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính thức trong 15 nước thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cyprus) và trong 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu. Các đồng tiền kim loại euro cùng một mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng quốc gia phát hành. Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế toàn cầu. Một mặt việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan 1968 đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đoái dao động mạnh mà theo như cách nhìn của giới chính trị thì đã cản trở thương mại. Năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa. Trong kế hoạch Werner, Thủ tướng Luxembourg, Pierre Werner, đã cùng nhiều chuyên gia soạn thảo một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất. Dự tính với mục đích thành lập liên minh này cho đến năm 1980 đã thất bại mà một trong những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ ngăn cản việc các tiền tệ quốc gia dao động quá mạnh. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. Năm 1988 một ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jacques Delors, đã soạn thảo báo cáo Delors, dự định thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu qua 3 bước. Bước đầu tiên bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 bước thứ hai bắt đầu: Viện Tiền tệ châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước thành viên bắt đầu được xem xét. Ngoài ra, vào ngày 16 tháng 12 năm 1995 Hội đồng châu Âu tại Madrid (Tây Ban Nha) đã quyết định tên của loại tiền tệ mới: "Euro". Trước ngày này đã có nhiều tên khác được thảo luận, bao gồm Franc châu Âu, Krone châu Âu và Gulden châu Âu. Việc sử dụng tên một loại tiền tệ quen thuộc là nhằm vào mục đích phát ra tín hiệu của sự liên tục và củng cố niềm tin tưởng của quần chúng vào loại tiền tệ mới này, ngoài ra một vài thành viên cũng có thể tiếp tục giữ được tên tiền tệ của nước mình. Pháp thích "Ecu", tên của loại tiền tệ thanh toán cũ. Thế nhưng tất cả các đề nghị này đều thất bại vì một vài nước dè dặt. Để đối phó với tình thế này, tên "Euro" được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đức, Theodor Waigel, đề nghị. Ngày 13 tháng 12 năm 1996 các bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm bảo đảm các nước thành viên giữ kỷ luật về ngân sách và qua đó bảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước thứ ba của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu bắt đầu có hiệu lực cùng với cuộc họp của Hội đồng châu Âu từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 3 tháng 5 năm 1998, xác định 11 quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ được quy định trước. Ngày 19 tháng 6 năm 2000 Hội đồng châu Âu đi đến nhận định “Hy Lạp đã đạt hội tụ bền vững ở mức độ cao và trên cơ sở này thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để đưa tiền tệ chung vào sử dụng". Vì thế vào ngày 1 tháng 1 năm 2001 Hy Lạp gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngay ngày hôm sau, ngày 2 tháng 1, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main (Đức) đã định giá tất cả các chứng khoán bằng Euro. Một thay đổi khác có liên quan với thời điểm đưa đồng Euro vào sử dụng là việc thay thế cách ghi giá cho ngoại tệ. Trước ngày đã định, việc ghi theo giá (1 USD = xxx DEM) là hình thức thông dụng. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1999, trong mua bán ngoại tệ tại các nước thành viên, giá trị của ngoại tệ được ghi theo lượng (1 EUR = xxx USD). Thêm vào đó, từ ngày 1 tháng 1 năm 1999 có thể chuyển khoản bằng Euro (Tại Hy Lạp từ ngày 1 tháng 1 năm 2001). Các tài khoản và sổ tiết kiệm được phép ghi bằng Euro và tiền cũ. Cổ phiếu và các chứng khoán khác chỉ còn được phép mua bán bằng Euro. Việc phát hành đồng Euro đến người tiêu dùng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2002. Trong một thời gian chuyển tiếp nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia, kéo dài hoặc là đến hết tháng 2 năm 2002 hay đến hết tháng 6 năm 2002, đồng Euro và tiền quốc gia cũ tồn tại song song như là tiền tệ chính thức. Thời gian sau này các tiền quốc gia cũ không còn là tiền tệ chính thức nữa nhưng vẫn có thể được đổi lấy đồng Euro tại các ngân hàng quốc gia của các nước, tùy theo quy định của từng nước. Từ ngày 28 tháng 2 năm 2002 tại Đức quyền đổi đồng Mark Đức sang Euro không tốn lệ phí tại các ngân hàng trung ương tiểu bang là một điều được pháp luật quy định. Khác với một số nước thành viên khác, yêu cầu này tại Đức không có thời hạn. Mặc dầu có cơ chế đổi tiền không tốn lệ phí và đơn giản, trong tháng 5 năm 2005 vẫn còn lưu hành 3,72 tỉ Euro tiền kim loại Mark Đức. Tổng giá trị của tiền giấy chưa đổi thành tiền Euro ở vào khoảng 3,94 tỉ Euro. Theo nhận xét của Ngân hàng Liên bang Đức phần lớn số tiền này là tiền đã bị tiêu hủy hay đánh mất. 2.3.1.2 Các nước tham gia Ngoài 17 nước trong Khu vực đồng Euro đã lưu hành và sử dụng chính thức đồng Euro, một số quốc gia khác đã tham gia vào Liên minh tiền tệ với thành viên trong khu vực và sử dụng đồng Euro như tiền tệ chính thức (Phụ lục 2). Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU). Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác bắt đầu coi đồng Euro là một ngoại tệ quan trọng, thay chỗ cho đồng Đô la Mỹ. Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva, Malta, và Síp cam kết giữ tỉ giá tiền tệ của mình đối với đồng Euro trong khoảng giao động cho phép của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II). Các quố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhủng hoảng nợ Hy Lạp- Nguyên nhân và tác động đến vị thế đồng tiền chung châu Âu.doc
Tài liệu liên quan