Khóa luận Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa công ty nhà nước gắn với phát triển thị trường chứng khoán

MỤC LỤC

 

CHƯƠNG I 3

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CPH CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ 3

PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC 3

I. Khái quát chung về cổ phần hóa công ty Nhà nước 3

1. Khái niệm về CPH CTNN 3

2. Mục tiêu và yêu cầu đối với hoạt động CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay 5

3. Mối quan hệ giữa CPH công ty nhà nước và TTCK 7

3.1. Chứng khoán - thị trường chứng khoán và những tác động đến tiến trình CPH 7

3.2. Những tác động của tiến trình CPH CTNN đối với TTCK 10

II. Pháp luật về cổ phần hóa Công ty nhà nước 13

1. Khái niệm pháp luật về CPH CTNN 13

2. Những yêu cầu đối với pháp luật về CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay 14

3. Sự hình thành và phát triển pháp luật về CPH CTNN 16

CHƯƠNG II 22

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA 22

CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI 22

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 22

I. Thực trạng pháp luật về cổ phần hóa Công ty Nhà nước 22

1. Quy định về đối tượng CPH và điều kiện CPH 22

2. Quy định về hình thức, và thủ tục CPH CTNN 24

2.1. Hình thức CPH CTNN 24

2.2. Thủ tục CPH CTNN 25

3. Quy định về đối tượng và điều kiện mua cổ phần 26

4. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập, Quyền - Nghĩa vụ của cổ đông 28

4.1. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập 28

4.2. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông 28

5. Quy định về xử lý tài chính khi CPH 30

5. Quy định về xác định giá trị doanh nghiệp 32

5.1. Về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 32

5.2. Về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp 34

6. Quy định về bán cổ phần lần đầu 36

6.1. Về đối tượng, cơ cấu, giá bán cổ phần lần đầu 36

6.2. Về phương thức tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu 38

6.3. Về trình tự tổ chức bán đấu giá 39

7. Chính sách của Nhà Nước đối với người lao động và đối với CTNN sau CPH 41

7.1. Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH 41

7.2. Những ưu đãi đối với Người lao động 41

II. Những tác động của pháp luật về cổ phần hóa Công ty Nhà nước tới thị trường chứng khoán 43

1. Giai đoạn trước khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP được ban hành 44

2. Giai đoạn từ khi ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP đến nay 49

CHƯƠNG III 55

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN 55

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 55

I. Căn cứ đề xuất đề nghị 55

1. Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước 55

2. Căn cứ vào thực trạng quá trình CPH CTNN và từ hoạt động của TTCK 57

II. Một số kiến nghị giải pháp cụ thể 59

KẾT LUẬN 65

DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN TRONG KHÓA LUẬN 67

 

 

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa công ty nhà nước gắn với phát triển thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chiến lược khi tham gia mua cổ phần), theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 187/2004/NĐ-CP thì thực chất đã bao gồm cả người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản (điều 29 Nghị định 64/2002/NĐ-CP) và được mở rộng hơn, gồm cả người cam kết tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, người gắn bó lợi ích chiến lược lâu dài trong kinh doanh, có tiềm năng về tài chính và kinh tế… Có thể thấy đây đều là những cổ đông có vai trò rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy dành ưu đãi cho những cổ đông chiến lược này là hợp lý. Cổ đông chiến lược được hưởng các quyền cơ bản như: Được mua cổ phần lần đầu với số lượng và giá ưu đãi, được quyền tham gia quản lý CTCP theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, được sử dụng cổ phần để cầm cố thế chấp trong các quan hệ tín dụng Việt Nam, các quyền lợi khác theo pháp luật và Điều lệ công ty. Đặc biệt tại điểm b khoản 2 điều 38 Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định, cổ đông chiến lược “không được chuyển nhượng số cổ phần được mua ưu đãi theo khoản 3 điều 27 Nghị định này trong vòng 3 năm kể từ khi công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Đây là quy định mới phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Điều 5 Luật Doanh nghiệp quy định “các cổ đông sáng lập chỉ được phép chào bán cổ phần phổ thông được quyền chào bán mình nắm giữ sau thời hạn 3 năm đầu kể từ khi công ty được cấp giấy chứng nhận ĐKKD”, theo khoản 1 điều 27 Nghị định 64/2002/NĐ-CP cổ phần chỉ được chuyển nhượng 3 năm kể từ khi “mua”. Nhưng vấn đề là xác định thời điểm mua cổ phần rất khó và dẫn đến việc tuỳ tiện trong xử lý các trường hợp chuyển nhượng trước thời hạn. Nghị định 187/2004/NĐ-CP cũng quy định trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị của CTCP chấp nhận, đây là một quy định “mở” tạo sự linh hoạt cho CTCP. Các cổ đông khác được hưởng các quyền lợi quy định tại Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty cổ phần. Riêng với cổ đông nước ngoài được đổi các khoản thu về cổ tức, tiền chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế. 5. Quy định về xử lý tài chính khi CPH Vấn đề xử lý tài chính là một vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp khi thực hiện CPH CTNN. Xử lý tài chính tốt, hiệu quả sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp “hậu” CPH làm ăn có hiệu quả nâng cao tính cạnh tranh. Nhận thức được tầm quan trọng này, pháp luật thời gian gần đây đã có những thay đổi nhất định đưa ra cơ chế mới để xử lý các tồn tại về tài chính của doanh nghiệp. Nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, lành mạnh hoá quá trình này, Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã bổ sung quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp CPH trong việc xử lý tồn tại về tài chính ngay tại phần đầu tiên, theo đó “Các doanh nghiệp CPH có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan chủ động xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp CPH và trong quá trình CPH, trường hợp có vướng mắc hoặc vượt quá thẩm quyền thì doanh nghiệp CPH phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết”. Trong việc thực hiện xử lý tài chính, Nghị định 187/2004/NĐ-CP tiếp tục ghi nhận quy định hợp lý tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP: Khi nhận được quyết định của cơ quan có thẩm quyền, doanh nghiệp có trách nhiệm kiểm kê phân loại tài sản mà mình đang quản lý, sử dụng. Tài sản được phân chia cụ thể thành nhiều loại và mỗi loại quy định các cách thức xử lý khác nhau như: Đối với tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh không tính vào giá trị của doanh nghiệp, các tài sản thuộc công trình phúc lợi; nhà trẻ, mẫu giáo,… đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng phúc lợi thì chuyển giao cho công ty cổ phần quản lý. Tuy nhiên, đối với đối tượng là tài sản không cần dùng, ứ đọng cần thanh lý, Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định triệt để hơn. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định “doanh nghiệp thanh lý nhượng bán hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền để điều chuyển cho đơn vị khác,… Trường hợp đến thời điểm CPH chưa kịp xử lý thì không tính vào giá trị doanh nghiệp, và uỷ quyền cho công ty cổ phần tiếp tục bảo quản, xử lý hoặc chuyển cho tổ chức của nhà nước có chức năng tiếp nhận giải quyết”. Quy định này tạo ra sự tuỳ tiện trong xử tài sản của CTNN khi CPH, gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Về vấn đề này pháp luật hiện hành quy định rõ ràng hơn, theo đó “đến thời điểm quyết định công bố giá trị doanh nghiệp” nếu chưa kịp xử lý tài sản tồn đọng thì CTNN “phải chuyển giao cho công ty mua - bán nợ và tài sản tồn đọng để xử lý theo quy định”. Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC tiếp tục quy định chi tiết các khoản nợ phải thu, khoản nợ phải trả, các khoản dự phòng lỗ hoặc lãi, vốn đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp. Quy định về việc xác định giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp CPH tại các doanh nghiệp khác theo hướng: Doanh nghiệp được quyền lựa chọn việc kế thừa hay không các hoạt động đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác. Trong trường hợp doanh nghiệp CPH kế thừa thì toàn bộ số vốn được tính vào giá trị doanh nghiệp để CPH, việc đánh giá căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm định giá nhưng không thấp hơn giá trị ghi trong sổ sách kế toán. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng các doanh nghiệp liên doanh trong những năm đầu thường thua lỗ (theo kế hoạch) có trường hợp đối tác cố tình thua lỗ, thông qua việc chuyển giá để mua lại phần vốn của doanh nghiệp. Có thể nói chính sách pháp luật về xử lý tài sản doanh nghiệp CPH hiện nay đã tương đối hoàn chỉnh, rõ ràng. Tuy nhiên để thực hiện trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, muốn đẩy nhanh quá trình CPH một vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp phải chủ động lập phương án và cơ cấu tổ chức, từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng hỗ trợ, nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp thiếu tính chủ động này và hậu quả khiến cho việc xác định giá trị doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian, làm chậm lại quá trình CPH, ảnh hưởng đến việc tạo hàng cho TTCK. 5. Quy định về xác định giá trị doanh nghiệp Xác định giá trị doanh nghiệp là vấn đề khó khăn nhưng quan trọng nhất trong quá trình CPH, đòi hỏi phải hợp lý và hiệu quả để từ đó tạo cơ sở đảm bảo quyển lợi của các bên tham gia trong hoạt động của doanh nghiệp, góp phần xác định triển vọng của doanh nghiệp CPH. Doanh nghiệp CPH được đánh giá quá cao so với thực tế sẽ không có khả năng thu hút đầu tư, ngược lại nếu định giá thấp sẽ gây thất thoát ngân sách và gia tăng tham nhũng, hoặc nếu việc định giá kéo dài, phức tạp lại làm giảm tiến độ CPH. Ở Việt Nam, nhận thức được vai trò quan trọng của việc xác định giá trị doanh nghiệp, pháp luật đã liên tục có những thay đổi, điều chỉnh nhằm khắc phục những hạn chế tiến tới hoàn thiện. Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã đánh dấu một bước tiến lớn trong tiến trình này, chứa đựng nhiều điểm mới tiến bộ và đặc biệt đã nâng cao được tính minh bạch nhanh chóng, ngày càng gắn kết CPH với TTCK. 5.1. Về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Nếu như Nghị định 64/2002/NĐ-CP chỉ áp dụng 1 phương pháp duy nhất là phương pháp tài sản thì Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định 2 phương pháp xác định: Thứ nhất, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở giá trị thực tế của doanh nghiệp CPH, tức giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH, có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán đều chấp nhận được. Đối tượng áp dụng phương pháp này là các loại hình doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu). Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp là số liệu theo sổ kế toán tại thời điểm CPH; tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản; giá thị trường của tài sản tại thời điểm CPH. Giá trị thực tế doanh nghiệp cũng sẽ không bao gồm các giá trị tài sản thuê, mượn, khoản nợ phải thu,… Nghị định 187/2004/NĐ-CP trên cơ sở Luật Đất đai 2003 còn bổ sung quy định xác định giá trị tài sản là quyền sử dụng đất (Điều 9) cụ thể: Đối với diện tích đất doanh nghiệp CPH đang sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ sở văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối thì doanh nghiệp CPH được quyền lựa chọn hình thức thuê đất hoặc giao đất theo quy định của Luật Đất đai. Trường hợp doanh nghiệp CPH lựa chọn hình thức thuê đất thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp CPH. Trường hợp doanh nghiệp CPH lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp CPH. Căn cứ tính giá trị quyền sử dụng đất là giá do Uỷ Ban Nhân Dân cấp tỉnh - Thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố ngày 1 tháng 1 hàng năm. Tuy nhiên quy định này đã nảy sinh vấn đề: giá trị quyền sử dụng đất (BĐS) thường có những biến động lớn, liên tục, nếu chỉ căn cứ vào giá áp dụng trong một năm thì cứng nhắc, không phản ánh hết giá trị thực tế. Nếu giá quy định thấp hơn thực tế sẽ gây thất thoát tiền nhà nước, ngược lại quy định cao hơn sẽ gây khó khăn cho việc bán cổ phần của công ty. Khắc phục vấn đề này Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 về sửa đổi bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn Luật Đất đai và Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển CTNN thành CTCP đã quy định nếu giá do Uỷ Ban Nhân Dân cấp tỉnh - thành phố trực thuộc Trung ương quy định “chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm CPH” thì “Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh - Thành phố trực thuộc Trung ương quy định giá đất cụ thể cho thích hợp”. Đối với diện tích đất Nhà nước đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán hoặc cho thuê, xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp CPH. Phương pháp thứ hai: Phương pháp dòng tiền chiết khấu. Theo Thông tư 126/2004/TT-BTC thì phương pháp dòng tiền chiết khấu là việc: “Xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai”. Đối tượng áp dụng của phương pháp này là các doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, thương mại…Như vậy đối tượng áp dụng theo phương pháp dòng tiền chiết khấu thường có giá trị tài sản vô hình lớn, có lợi thế kinh doanh. Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp là: “Báo cáo tài chính doanh nghiệp trong 5 năm liền kề; phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 đến 5 năm chuyển thành CTCP; lãi suất trái phiếu chính phủ dài hạn ở thời điểm gần nhất trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số chiết khấu dòng tiền của doanh nghiệp được định giá”. Giá trị thực tế doanh nghiệp gồm giá trị thực tế phần vốn nhà nước nợ phải trả, số dư bằng tiền nguồn quỹ khen thưởng phúc lợi và số dư kinh phí sự nghiệp (nếu có). Có điểm khác Nghị định 64/2002/NĐ-CP ở chỗ có tính thêm phần chênh lệch về giá trị quyền sử dụng đất đã được giao. Đặc biệt nhằm tạo sự linh hoạt đa dạng trong phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nghị định 187/2004/NĐ-CP đã quy định việc sử dụng các phương pháp khác trong xác định giá trị. Các phương pháp này sẽ do cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp và tổ chức định giá áp dụng sau khi có ý kiến thoả thuận bằng văn bản với Bộ Tài Chính. Có thể nói các quy định của Nghị định 187/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã thể hiện được tinh thần của Nghị quyết Trung ương IX với chủ trương sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường”. Áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đúng đắn hiệu quả đã tạo cơ sở tiền đề xác định đúng giá trị doanh nghiệp và thúc đẩy quá trình CPH diễn ra nhanh chóng, các doanh nghiệp CPH dễ dàng trong việc bán cổ phiếu ra thị trường đặc biệt khi niêm yết trên TTCK. 5.2. Về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp Trong vấn đề này, Nghị định 187/2004/NĐ-CP một lần nữa thể hiện điểm mới đúng đắn và hiệu quả. Đầu tiên Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã bãi bỏ cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp thông qua Hội đồng. Theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP thì cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH doanh nghiệp quyết định thành lập Hội đồng định giá hoặc lựa chọn công ty kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để doanh nghiệp CPH ký hợp đồng. Qua thực tế hoạt động, Hội đồng đã không thực hiện tốt chức năng định giá, thiếu tính chuyên nghiệp, mang tính chủ quan, chủ yếu thông qua sổ sách, ảnh hưởng đến thời gian và kết quả định giá, quyết định của Hội đồng không phản ánh ý chí của người mua. Bà Lê Băng Tâm - Thứ trưởng Bộ Tài Chính đã nhận định: “Cơ chế Hội đồng tách rời cơ chế thị trường mang nặng tính chủ quan của cơ quan quản lý nên giá trị doanh nghiệp sau khi xác định không phản ánh giá trị thực, thấp hơn nhiều giá trị thực vì nó đã loại bỏ giá trị vô hình cũng như lợi thế kinh doanh. Cách xác định như vậy đã gián tiếp làm thất thoát tài sản. Thất bại CPH ở Nga là một minh chứng rõ nhất của việc doanh nghiệp tự định giá “chỉ một số cá nhân thành tỉ phú nhưng Nhà nước chăng được gì” [9]. Nhận thức được những vấn đề này tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã quy định 2 phương thức xác định giá trị doanh nghiệp căn cứ vào tổng trị giá tài sản theo sổ kế toán: Trên 30 tỷ đồng trở nên thì thông qua các tổ chức có chức năng định giá, dưới 30 tỷ thì không nhất thiết phải thông qua tổ chức định giá. Quy định này có ý nghĩa về nhiều mặt: - Giao quyền chủ động cho doanh nghiệp lựa chọn phương thức xác định, mà không do cơ quan có thẩm quyền quyết định như Nghị định 64/2002/NĐ-CP, hạn chế sự can thiệp của cơ quan hành chính Nhà nước. - Nâng cao tính công khai minh bạch và chuyên nghiệp trong hoạt động đánh giá doanh nghiệp CPH. - Nâng cao khả năng phát triển trong tương lai sớm tiếp cận hồ sơ đăng ký phát hành cổ phiểu lần đầu ra công chúng, do doanh nghiệp khi xác định giá trị phải sử dụng các tổ chức kiểm toán để thiết lập các báo cáo tài chính có kiểm toán, trong khi quy định các báo cáo tài chính của tổ chức niêm yết phải được kiểm toán. - Bước đầu xây dựng khoanh vùng được các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, có khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán thông qua quy định giá trị tài sản theo sổ kế toán trên 30 tỷ mới bắt buộc việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH thực hiện thông qua các tổ chức có chức năng định giá. 6. Quy định về bán cổ phần lần đầu Những quy định về bán cổ phần lần đầu trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã thể hiện rõ quan điểm gắn tiến trình CPH với việc đăng kí niêm yết trên TTCK. 6.1. Về đối tượng, cơ cấu, giá bán cổ phần lần đầu Quy định về đối tượng mua cổ phần trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP được thể hiện một cách rõ ràng bao gồm: người lao động, nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác, trong đó quy định về nhà đầu tư chiến lược là một quy định mới. Theo khoản 2 điều 6 Nghị định 187/2004/NĐ-CP, nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước như: Người sản xuất và thường xuyên cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp; người cam kết tiêu thụ lâu dài sản phẩm của doanh nghiệp; người gắn bó lợi ích chiến lược lâu dài trong kinh doanh, có tiềm năng về tài chính và năng lực quản lý. Việc tham gia góp vốn của nhà đầu tư chiến lược vào CTCP là hết sức quan trọng, nhà đầu tư chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của CTNN CPH. Họ chính là thành phần góp phần đổi mới nhân sự, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường vì khi đó doanh nghiệp sẽ giữ được những khách hàng chính, những người cung cấp nguyên liệu …Với tư cách là cổ đông trong công ty, quyền lợi ích của họ sẽ gắn liền với hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, nhờ vào tên tuổi của nhà đầu tư chiến lược doanh nghiệp cũng dễ dàng huy động vốn của những nhà đầu tư khác. Khi xây dựng phương án CPH, doanh nghiệp được quyền lựa chọn nhà đầu tư chiến lược trình cơ quan quyết định CPH phê duyệt, quy định này cũng thể hiện tính hợp lý, vì trong hoạt động kinh doanh bạn hàng, chính CTNN sẽ là đối tượng hiểu rõ những đối tác nào có thể là những nhà đầu tư chiến lược có tiềm năng và khả năng kinh tế tài chính. Về cơ cấu CPH lần đầu: trước đây Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định thứ tự ưu tiên: Nhà nước - người lao động - người cung cấp nguyên liệu - nhà đầu tư khác (điều 23). Như vậy sau khi Nhà nước đã giữ lại một tỉ lệ cổ phần cần thiết, dành một tỉ lệ nhất định để bán cho người lao động trong doanh nghiệp và người sản xuất cung cấp nguyên liệu mới bán ra ngoài cho các nhà đầu tư với số lượng tối thiểu 30% số cổ phần “còn lại” (khoản 4 điều 23). Quy định này đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp CPH có xu hướng hạn chế số cổ phần bán ra, không muốn “người ngoài” nắm giữ cổ phần doanh nghiệp mình, CPH trở thành khép kín. Đây cũng là nguyên nhân nhiều doanh nghiệp sau CPH không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTCK do tỉ lệ cổ phần bán ra ngoài thấp, tính đại chúng của công ty bị hạn chế. Khắc phục tình trạng này, Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã không còn thứ tự ưu tiên, thay vào đó thể hiện rõ hơn sự ưu đãi đối với các nhà đầu tư chiến lược, tạo điều kiện tối đa cho các nhà đầu tư chiến lược trở thành cổ đông công ty. Họ được mua tối đa 20% số cổ phần bán ra theo mức giá ưu đãi (giảm 20% so với mức giá đấu bình quân), ngoài ra họ còn được tham gia đấu giá mua cổ phần như các nhà đầu tư thông thường khác. (Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định giới hạn mức cổ phần tối đa mà người sản xuất cung cấp nguyên liệu được mua “không quá 10% giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm cả số cổ phần được mua theo giá ưu đãi và số cổ phần được mua theo giá thông thường”). Đặc biệt Nghị định 187/2004/NĐ-CP có quy định số cổ phần bán công khai không thấp hơn 20% vốn điều lệ (khoản 4 điều 27) đã tạo ra một ràng buộc đối với các doanh nghiệp thực hiện CPH. Về giá mua cổ phần: Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định: giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được giảm 40%, nhà đầu tư chiến lược giảm 20% so với giá đấu bình quân. Quy định này có sự khác biệt rõ so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP, không chỉ ở việc dành ưu đãi hơn về giá mà còn ở căn cứ tính giá ưu đãi. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định: giá mua cổ phần của nhà đầu tư chiến lược là trên cơ sở mệnh giá ban đầu, Nghị định 187/2004/NĐ-CP trên tinh thần gắn CPH với thị trường đã quy định mức giá cổ phần ưu đãi của nhà đầu chiến lược được hình thành trên cơ sở giá đấu giá bình quân. Có thể nói với những sửa đổi quan trọng trong quy định về đối tượng, cơ cấu giá cổ phần lần đầu Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã thực sự tạo một bước chuyển biến mạnh mẽ trong tiến trình CPH CTNN nước ta, gắn CPH với thị trường, đảm bảo hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH. Tuy nhiên những quy định này khi thực hiện cũng bộc lộ nhiều bất cập còn tồn tại: Thứ nhất: Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định nhà đầu tư chiến lược chỉ là nhà đầu tư trong nước (điều 26), có thể đây là những nhà đầu tư có gắn bó với doanh nghiệp, có điều kiện để tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp, giúp đỡ doanh nghiệp thực hiện chiến lược quản lý kinh doanh. Song điều này vô hình chung đã tạo rào cản khi các công ty muốn thu hút vốn, công nghệ, thị trường, kĩ năng quản lý điều hành của các nhà đầu tư nước ngoài thường có tiềm lực kinh tế lớn, sẵn sàng đầu tư. Quy định như vậy có thực sự thích hợp không, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mở ra một cánh cửa hội nhập với nước ngoài. Thứ hai, quy định về mức giá ưu đãi: Khi mua cổ phần lần đầu NLĐ trong doanh nghiệp được giảm 40% và nhà đầu tư chiến lược được giảm 20% so với mức giá đấu, quy định như vậy song thực tế vẫn chưa chắc người mua thực sự có lợi hay thiệt. Bởi mức giá làm căn cứ giảm là giá mua bình quân của các nhà đầu tư đấu giá thành công. Giá mua bình quân có thể có mức chênh lệch rất lớn so với giá đấu thành công, nhất là khi hoạt động của TTCK Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp, dễ chịu ảnh hưởng của dư luận, theo phong trào. 6.2. Về phương thức tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu Theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP cồ phần lần đầu được bán đấu giá theo 3 phương thức: Đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp với doanh nghiệp CPH có khối lượng cổ phần bán ra từ 1 tỷ đồng trở xuống; Đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian đối với các doanh nghiệp CPH có khối lượng cổ phần bán ra trên 1 tỷ đồng; Tổ chức bán đấu giá cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán nếu doanh nghiệp có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng. Trước đây Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp CPH hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án CPH. So với Nghị định 64/2002/NĐ-CP phương thức bán đấu giá ở Nghị định 187/2004/NĐ-CP thực sự là một cuộc cách mạng. Bán đấu giá công khai cổ phần sẽ giúp cho giá trị doanh nghiệp nhất là giá trị những tài sản vô hình, kể cả quyền sử dụng đất được xác định chính xác hơn thể hiện được nguyên tắc thị trường hóa khi đánh giá giá trị doanh nghiệp CPH, khắc phục quy trình CPH khép kín, bán cổ phần trong nội bộ doanh nghiệp, đồng thời tăng thu cho ngân sách nước. Một ví dụ cụ thể minh chứng cho vấn đề này là việc tổ chức bán đấu giá cổ phần do Nhà nước nắm giữ tại Vinamilk. Nhờ bán đấu gía cổ phần công khai đã giúp Nhà nước thu về 385 tỷ thay vì dự kiến ban đầu là 187 tỷ đồng. Mặt khác với quy định về 3 địa điểm bán đấu giá cổ phần ở doanh nghiệp, tổ chức tài chính trung gian, TTGDCK tùy theo giá trị khối lượng cổ phần bán ra đã thể hiện rõ tinh thần và quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta là gắn CPH với phát triển TTCK. Đặc biệt, với CTNN có vốn trên 10 tỷ đồng thực hiện CPH nếu thực hiên bán cổ phần tại TTGDCK hiệu quả sẽ làm TTCK trở nên sôi động. Tuy nhiên những quy định này khi triển khai trên thực tế cũng đã phát sinh bất cập. Với việc chỉ quy định một phương thức bán đấu giá trực tiếp tại TTGDCK không thích hợp với việc bán đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp lớn. Trong trường hợp này cần có sự tham gia của tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc phát hành trực tiếp cho một số tổ chức tài chính lớn ngoài phần đưa ra đấu giá cho công chúng. Theo phương thức này, các tổ chức tài chính lớn sẽ mua gần hết lượng cổ phần chào bán, các nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ mua được một lượng cổ phần nhỏ. Điều này dẫn đến tình trạng sau đấu giá tính đại chúng của doanh nghiệp bị hạn chế, nhiều doanh nghiệp đã không đủ tiêu chuẩn niêm yết. 6.3. Về trình tự tổ chức bán đấu giá Nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn và có đầy đủ thông tin về bán đấu giá cổ phần của CTNN CPH tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã quy định vấn đề này thành một điều luật riêng. Điều 31 Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định: “Trước khi bán đấu giá tối thiểu 20 ngày, cơ quan thực hiện bán đấu giá phải thông báo công khai tại doanh nghiệp, tại nơi bán đấu giá và trên các phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, hình thức bán, điều kiện tham gia, số lượng cổ phần dự kiến bán và các vấn đề khác có liên quan đến việc bán đấu giá cổ phần”. Trước đây, Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định việc thông báo thông tin trong thời hạn 30 ngày đã tạo khe hở cho các doanh nghiệp có thể tiến hành CPH nội bộ khép kín bằng nhiều cách thức, như thông báo về việc bán cổ phần gần sát ngày mở thầu, khiến cho các nhà đầu tư không đủ thời gian tìm hiểu thông tin, cân nhắc quyết định. Ví dụ trường hợp CPH của Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, thời gian chênh lệch giữa việc bán và mở thầu có 9 ngày. Khắc phục tình trạng này Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định trong thời hạn 4 tháng kể từ ngày phê duyệt phương án CPH, doanh nghiệp phải hoàn thành việc bán cổ phần. Quy định này đã nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp khi CPH, đẩy quá trình CPH diễn ra nhanh chóng. Ngoài những vấn đề trên, trong hoạt động bán cổ phiếu lần đầu cũng còn tồn tạo một số điểm hạn chế, như về chi phí cho hoạt động bán đấu giá cổ phần quy định tại Thông tư 126/2004/TT-BTC không được vượt quá 10% tổng chi phí CPH (40 triệu đồng). Thế nhưng số tiền này trên thực tế không đủ cho doanh nghiệp thực hiện cho quoảng cáo, tiếp thị,... và làm giảm hiệu quả thu hút nhà đầu tư. Hay về chất lượng doanh nghiệp bán đấu giá, với quy định trên 10 tỷ phải bán đấu giá qua TTGDCK nhưng trên thực tế chất lượng của các doanh nghiệp đưa ra ra đấu giá nhiều khi không đảm bảo, không ít doanh nghiệp hiệu quả sản xuất kém, kinh doanh thua lỗ trong nhiều năm, khó có thể khắc phục, có doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Những doanh nghiệp này khi CPH sẽ không thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư. Tóm lại pháp luật về CPH CTNN vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên những vấn đề còn tồn tại là khó tránh khỏi, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang chuyển biến từng ngày cùng với quá trình hội nhập. Nhưng nhìn một cách tổng quát thì những quy định về bán đấu giá cổ phần lần đầu của Nghị định 187/2004/NĐ-CP thực sự đã đi một bước tiến dài mang lại ý nghĩa về nhiều mặt, nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình CPH, gắn hoạt động này với thị trường đặc biệt là tạo điều kiện cho doanh nghiệp CPH tham gia TTCK. 7. Chính sách của Nhà Nước đối với người lao động và đối với CTNN sau CPH 7.1. Chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (104).DOC