Khóa luận Một số vấn đề về tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển và thực tiễn tiến hành quá trình này ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI TRÊN

 THẾ GIỚI VÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 3

I. Khái niệm tự do hoá thương mại, trình tự tiến hành và những nội dung chính của quá trình này

1. Khái niệm 3

2. Trình tự tiến hành 4

3. Nội dung chính của tự do hoá thương mại 6

II. Cơ sở thực tiễn của xu thế tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển 10

1. Toàn cầu hoá, khu vực hoá, trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn, đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới 10

2. Thương mại là một trong những điều kiện tối cần thiết để các nước đang phát triển phát triển kinh tế

3. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở một số nước – bằng chứng hiển nhiên về sự cần thiết của tự do hoá thương mại. 13

4. Ảnh hưởng của cách mạng khoa học công nghệ đối với cạnh tranh trong nền kinh tế 14

III. Quá trình tự do hoá thương mại trên thế giới những năm gần đây - đặc biệt là tự do hoá thương mại ở khu vực châu Phi, châu Mỹ la tinh, châu Á 17

1. Khu vực châu Phi 20

2. Khu vực châu Mỹ la tinh 22

3. Khu vực châu Á nói chung và ASEAN nói riêng 26

CHƯƠNG II: THỰC TIỄN TIẾN HÀNH TỰ DO HOÁ THƯƠNG

 MẠI Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 33

I. Tầm quan trọng của tự do hoá thương mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 33

1. Trong lĩnh vực ngoại thương 33

2. Trong lĩnh vực đầu tư quốc tế 34

3. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ 35

II. Bối cảnh kinh tế của Việt Nam - Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tự do hoá thương mại

 35

1. Bối cảnh kinh tế của Việt Nam 35

2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tự do hoá thương mại 39

III. Tình hình thực hiện tự do hoá thương mại ở Việt Nam 41

1. Những cải cách về chính sách kinh tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập 41

2. Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. 48

IV. Tự do hoá thương mại - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam 57

1. Tác động của tự do hoá thương mại tới quá trình mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam 57

2. Những vấn đề Việt Nam cần giải quyết để tiến hành tự do hoá thương mại có hiệu quả. 61

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO

 HIỆU QUẢ VÀ ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH TỰ DO

 HOÁ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 63

1. Các biện pháp vĩ mô 63

2. Các biện pháp vi mô về hoạt động ở các doanh nghiệp trong quá trình tự do hoá thương mại hiện nay

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT 77

KẾT LUẬN 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc78 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển và thực tiễn tiến hành quá trình này ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu tấn gạo, xếp sau Thái Lan, vượt cả Mỹ. Và trên thực tế khả năng xuất khẩu của ngành nông nghiệp còn rất lớn, mà hiện tại còn chưa khai thác hết. Thời gian tới trong tương lai, với chương trình nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đề ra, Việt Nam có khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông sản chế biến, các loại hoa quả tươi. Như vậy, có thể nói rằng tham gia tích cực vào trao đổi quốc tế là điều kiện không thể thiếu để mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế của Việt Nam hoạt động có hiệu quả và phát triển. Trong lĩnh vực đầu tư quốc tế: Từ năm 1987 khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài cùng với chế độ chính sách thông thoáng hơn, tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có nhiều cải thiện rõ rệt. Cho đến nay, nước ta đã nhận được vốn đầu tư nước ngoài từ hơn 50 nước trên thế giới, kể cả dưới dạng nguồn vốn FDI và ODA. Nguồn vốn này góp phần làm gia tăng nguồn dự trữ ngoại tệ, đồng thời là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam 1988-1990 (3 năm) 1991-1995 (5 năm) 1996 1997 1998 1999 Tổng số Số dự án đầu tư 211 1401 366 330 260 274 2842 Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) 1783 20413 8836 4500 4059 1477 41068 Nguồn: Kinh tế thế giới 1998 – 1999, đặc điểm và triển vọng. Kinh tế thế giới 1999 – 2000, đặc điểm và triển vọng. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành bộ phận quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Doanh thu xuất khẩu của bộ phận kinh tế có vốn FDI ngày càng tăng cao: thời kỳ 1988 – 1991 là 52 triệu USD, năm 1996 là 786 triệu USD, và năm 2001, con số này vào khoảng 1,5 tỷ USD. Đồng thời, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng ta nhận được còn giúp phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, du lịch, hàng không… Bên cạnh đó, tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP và nguồn thu ngân sách ngày một tăng. Nhờ nguồn vốn này, chúng ta có thêm 25 vạn chỗ làm, góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam. Và một tác động không thể thiếu, đó là nó mang vào nền kinh tế chúng ta những phong cách kinh doanh mới trên thế giới, những kinh nghiệm quản lý và cả cách nhìn nhận mới. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ Tầm quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam còn được nhân lên gấp bội, bởi nó luôn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. Nhờ thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài khá lớn và chủ yếu được chuyển vào dưới dạng máy móc, thiết bị, nên trình độ công nghệ của nước ta đã được nâng lên đáng kể. Đặc biệt là tronglĩnh vực bưu chính viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất. Sự phát triển nhanh chóng của Việt Nam về các lĩnh vực cần có trình độ khoa học công nghệ cao trong thời gian qua chính là nhờ có các chính sách tự do hoá thương mại. Lợi dụng vị thế là một nước đi sau, chúng ta có thể đi tắt đón đầu ứng dụng các thành tựu khoa học trên thế giới một cách nhanh chóng và có chọn lọc, để tiến tới phát triển một hạ tầng khoa học kỹ thuật công nghệ riêng cho mình. Bối cảnh kinh tế của Việt Nam – Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tự do hoá thương mại Bối cảnh kinh tế của Việt Nam Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12-1986) đã xác định đường lối đổi mới kinh tế với nội dung cơ bản là phát triển sản xuất hàng hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, dưới sự quản lý của nhà nước bằng cơ chế chính sách, pháp luật và các công cụ khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên phải đến năm 1989, khi Liên Xô tan rã, kinh tế Việt Nam khủng hoảng trầm trọng do mất đi sự ủng hộ của nước bạn và mất đi một khu vực thị trường gồm cả những nước xã hội chủ nghĩa khác, chính sách cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mới thực sự tạo nên những biến chuyển mới đối với nền kinh tế đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6-1991) tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm đường lối đổi mới kinh tế, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000. Sau hai kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm, đến cuối giai đoạn 1991-1995, nền kinh tế nước ta đã có những thành tựu nhất định và tạo được những tiền đề cần thiết đi vào thời kỳ phát triển mới. Sản xuất đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Trước đây toàn bộ tích luỹ và một phần tiêu dùng phải bù đắp bằng vay và viện trợ nước ngoài, đặc biệt là các nguồn viện trợ từ Liên Xô, nay đã không còn nữa. Bằng những cải cách nỗ lực của mọi tầng lóp nhân dân, từ năm 1991 chúng ta không những đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành được một phần để tích luỹ. Năm 1991, tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế là 10,1% đã tăng lên gần gấp đôi năm 1995. Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng mà còn từng bước đẩy lùi, kiểm soát được lạm phát trong điều kiện phải đối phó với nhiều khó khăn gay gắt. Quá trình tăng trưởng kinh tế này là nhờ chính sách kinh tế và hệ thống luật pháp đã được hình thành và củng cố, tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư tăng lên đáng kể trong tất cả các lĩnh vực. Lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và cả dịch vụ đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đạt tốc độ phát triển cao nhờ vào chính sách đổi mới. Song song với các lĩnh vực đó là các ngành thương mại, du lịch và các dịch vụ tài chính. Thực tế giúp chúng ta nhận thấy rằng công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới giúp cho nền kinh tế nước ta có được những nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, cải thiện xã hội, giải quyết được những gánh nặng khó khăn và sự bất ổn định kinh tế. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cả nhân dân Việt Nam đều hiểu rằng hội nhập quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, phải tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo hướng toàn cầu hoá nền kinh tế quốc gia trên cơ sở chuẩn bị các điều kiện thuận lợi, phát huy và làm giàu thêm giá trị tinh hoa dân tộc và tăng cường nội lực quốc gia một cách toàn diện, trên tất cả các mặt. Và kết quả của những nỗ lực cải cách, đổi mới không ngừng là những thành công đáng kể trong nhiều lĩnh vực được thể hiện ở các mặt sau đây: Sau cơn sốc xảy ra năm 1991-1992 do sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, ngoại thương Việt Nam đã từng bước phục hồi mở rộng thị trường ở các châu lục. Đứng trước khó khăn do việc mất gần hết các thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, chúng ta đã tìm ra những giải pháp để tháo gỡ và đưa nền ngoại thương phát triển vượt bậc. Đến nay, chúng ta đã phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn tại thị trường các châu lục. Sau một quá trình khai thác thị trường, phát huy năng lực sản xuất trong nước, Việt Nam đã có được các mặt hàng chủ yếu để xuất khẩu: dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc, than đá, cao su, lạc nhân, chè, thiếc. Trong đó có gạo là mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan) và cà phê đứng thứ ba. Thời kỳ 1991-1995 kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình hàng năm 20%, cơ cấu thị trường và mặt hàng cũng có sự biến đổi tích cực. Cơ cấu hàng xuất khẩu tiếp tục thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng hàng qua chế biến từ 25% năm 1994 lên 30% năm 1996, giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu là nguyên liệu chưa qua chế biến. Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhóm máy móc thiết bị và giảm nhóm hàng tiêu dùng. Đó là những biểu hiện tích cực ban đầu của một đường lối kinh tế đúng đắn, mở cửa trong sự hoà hợp với điều kiện riêng có của Việt Nam. Một lĩnh vực khác thể hiện rõ nét kết quả của chính sách cải cách, mở cửa nền kinh tế là đầu tư nước ngoài tăng nhanh và vững chắc. Đến cuối năm 1997, số vốn đầu tư vào các dự án đã lên tới hơn 32 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện là 12,3 tỷ USD. Tốc độ tăng trung bình hàng năm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 50%. Đồng thời các dự án FDI tạo thêm việc làm góp phần nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công nghệ, đáng kể nhất là đã góp phần đưa một số ngành của Việt Nam như bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá dầu, lắp ráp ôtô, khách sạn; sản xuất hàng tiêu dùng và thực phẩm chất lượng cao tiến kịp trình độ công nghệ thế giới. Đặc biệt là sự có mặt của một số tập đoàn lớn trên thế giới trong một số lĩnh vực như dầu khí, ôtô, hàng tiêu dùng, điện tử đã tạo nên sức cạnh tranh mới ngay tại thị trường Việt Nam và tạo thuận lợi để hàng Việt Nam thâm nhập vào các lĩnh vực này trên thị trường thế giới. Trước những thành tựu kinh tế của Việt Nam, các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB đã có những ưu đãi đối với chúng ta, các thủ tục giải ngân ODA thuận lợi hơn. Điều này cho phép chúng ta có thể sớm khôi phục, nâng cấp những cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với nền kinh tế đạt tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời từng bước hội nhập với hệ thống thanh toán quốc tế tạo thuận lợi cho các quan hệ ngoại thương. Song song với cải cách kinh tế, Việt Nam cũng chú trọng phát triển các mối quan hệ với các trung tâm và các cường quốc kinh tế trên thế giới. Việc bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ ngày 11/07/1995 đã mở ra một sự thay đổi trong quan hệ giữa hai nước. Nhờ đó trao đổi hàng hoá đã được khôi phục và tăng mạnh. Năm 1996 trị giá hàng xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ 300 triệu USD. Bên cạnh đó, việc một hiệp định thương mại Việt-Mỹ bao gồm cả quy chế tối huệ quốc được ký ngày 13/07/2000 càng tạo điều kiện để mở ra một bước nhảy vọt mới trong quan hệ giữa hai nước. Với việc ký kết hiệp định khung hợp tác kinh tế giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam, EU sẽ giúp Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp về kỹ thuật, tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU, tăng ODA cho Việt Nam. Trên thực tế, một số ngành công nghiệp như may mặc, da giầy, giấy của Việt Nam phát triển được một phần là nhờ có vốn đầu tư và thị trường của châu Âu. Thực hiện phương châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, tiền tới đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng, chúng ta đã tích cực tham gia các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Biểu hiện là Việt Nam đã gia nhập AFTA, tham gia vào APEC và đang chuẩn bị để trở thành thành viên chính thức của WTO. Tóm lại, Việt Nam đang tiếp tục cải thiện vị thế của mình trên trường quốc tế tạo mọi thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, kết quả của khả năng nhận thức chính xác rằng quá trình liên kết khu vực và quốc tế hoá là một tất yếu của thời đại. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tự do hoá thương mại Mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là nhằm tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi hơn cho việc khai thác tốt nhất các tiềm năng nội lực để phát triển đất nước, đưa nền kinh tế Việt Nam và các hoạt động của doanh nghiệp tiếp cận dần các chuẩn mực quốc tế, nâng cao sức mạnh và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, hàng hoá và các DNNN. Quan điểm đó đã được khẳng định rõ trong các kỳ đại hội và hội nghị của Đảng, chính phủ Việt Nam, với các nội dung chính như sau: Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất lấy đường lối mở cửa làm sọi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình đổi mới. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam phải phù hợp với tư tưởng chỉ đạo chiến lược về chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Về điểm này, Đại hội VIII nêu rõ: “Trong hoàn cảnh mới, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường quốc tế”. Đồng thời việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là băng chứng pháp lý rõ rệt nhất về việc thực hiện đường lối mở cửa, từng bước tham gia vào tự do hoá thương mại ở nước ta. Chủ trương đó càng được khẳng định rõ hơn khi một trong những mục tiêu và quan điểm phát triển chiến lược của Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX là “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.” Văn kiện đại hội IX đã nêu rõ con đường phát triển kinh tế của chúng ta là “tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực h iện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương.” Một đường lối nữa vẫn được Đảng và Nhà nước ta duy trì, đó là tiếp tục đổi mới theo hướng xoá bỏ bao cấp và độc quyền nhà nước trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhiều nghị định của chính phủ cho phép các doanh nghiệp có quyền đăng ký kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu nếu đủ điều kiện theo quy định của Luật doanh nghiệp và các doanh nghiệp có thể tự do xuất nhập khẩu hàng hoá trừ những hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất hoặc nhập khẩu, đồng thời vẫn phải chịu sự điều tiết của thuế quan. Ngoài ra, đường lối của Đảng và Nhà nước vẫn luôn nhấn mạnh việc thực hiện đa dạng hoá các hình thức hoạt động kinh tế đối ngoại, đa phương hoá các quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, tôn trọng quyền tự lựa chọn chế độ chính trị xã hội của mỗi bên. Quan điểm này được thể hiện trên hai mặt. Một mặt, tích cực phát triển các hình thức quan hệ tiềm năng như hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp, tài trợ phát triển, du lịch quốc tế, hợp tác khoa học kỹ thuật, tài chính quôc tế. Mặt khác, tích cực cải tạo nền kinh tế để có thể nhanh chóng gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC và tương lai là WTO. Những nguyên tắc mà Đảng và Nhà nước ta luôn giữ vững khi tiến hành hội nhập kinh tế toàn cầu đó là: - Hội nhập quốc tế nhưng giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Hội nhập phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc của dân tộc; - Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, cốt lõi là dành thị trường,vốn, công nghệ và kỹ thuật; phải tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ và tập quán quốc tế, trên cơ sở “có đi có lại”, các nước kém phát triển hơn phải được đối xử thuận lợi hơn; - Hội nhập quốc tế là nhằm mục tiêu phát triển, phục vụ đổi mới thành công, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài; - Hội nhập phù hợp với chủ trương “phát triển kinh tế đối ngoại theo xu hướng xây dựng hệ thống kinh tế mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt cả nước, gắn với kinh tế và thị trường thế giới, thể hiện cả trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý...góp phần khơi dậy và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Có thể nói quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta như trên là kết quả của một quá trình thay đổi nhận thức sâu sắc về mối tương quan giữa chính trị và kinh tế trong quản lý kinh tế ở nước ta. Các vấn đề kinh tế hơn lúc nào hết đang được gắn kết rất chặt chẽ với các vấn đề chính trị. Hội nhập kinh tế quốc tế xét cho cùng phải là nhằm mục tiêu phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh. Vì vậy, đường lối của Đảng và Nhà nước ta không những nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía các nhà lãnh đạo mà của cả đông đảo các tầng lớp nhân dân. III. Tình hình thực hiện tự do hoá thương mại ở Việt Nam Những cải cách về chính sách kinh tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Như chúng ta đã từng khẳng định trong các phần trên, để nâng cao sức cạnh tranh cuả nền kinh tế và nâng cao vị thế của mình trên diễn đàn quốc tế thì bất kỳ một quốc gia nào cũng không thể đứng ngoài xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới – tức là phải hội nhập vào nền kinh tế quốc tế phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện nay. Hội nhập tức là phải thích nghi, phải đề ra các chuẩn mực, chính sách phù hợp với luật chơi chung; cùng tham gia vào các tổ chức có tầm cỡ quốc tế hoặc khu vực như WTO, APEC, ASEAN v.v... mà điều kiện đầu tiên để hội nhập thành công là phải cải cách chính sách thương mại. Việt Nam đã gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (1995). Chính phủ đã cam kết loại bỏ hầu hết các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với các nước thành viên trong hiệp hội trong vòng một thập kỷ. Việt Nam đã gia nhập APEC, đã có chương trình " hành động quốc gia " thực hiện thương mại mở và tự do trong khu vực APEC bằng cách : Giảm dần thuế quan, bảo đảm hệ thống, chế độ thuế quan của nước mình luôn được công bố rõ ràng. Việt Nam cũng rất muốn được gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), là tổ chức đòi hỏi các nước thành viên phải cam kết đơn giản hoá việc kiểm soát nhập khẩu và giảm hơn nữa mức bảo hộ nhập khẩu. Chúng ta đã có những nỗ lực rất lớn trong việc cải cách chính sách thương mại nhằm tiến đến tự do hoá hệ thống thương mại của Việt Nam. Nội dung cụ thể như sau: Chính sách tài chính: Phải khẳng định rằng cải tổ chính sách thuế là một phần quan trọng trong cải cách chính sách tài chính. Theo thực tế và nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các nước đang phát triển nói chung đều tiến hành cải cách thuế theo hướng chung là giảm việc dựa vào thuế sản xuất và tăng tỷ lệ thu từ thuế tiêu dùng và thuế thu nhập. Và con đường cải cách đó cũng phù hợp với nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Nó còn tạo điều kiện dễ dàng hơn trong quá trình chuyển sang hệ thống thuế thường gặp ở các nước phát triển – trong đó thuế trực thu và thuế tiêu dùng là chủ yếu. Từ năm 1995, Việt Nam đã thực hiện thêm nhiều cải cách trong chính sách thuế. Một số loại thuế được đưa vào cùng với việc sửa đổi các luật thuế hiện hành và điều chỉnh những mức thuế không còn phù hợp. Vào kỳ họp Quốc hội khoá IX, Việt Nam đã thông qua hai luật thuế quan trọng: Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Mục đích của thuế VAT là tránh thu nhập trùng lặp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đảm bảo nguồn thu ngân sách. Đó chính là lý do tại sao các nước ASEAN đã tiến hành cải cách chính sách theo hướng này từ những năm 80 với VAT là một trong những loại thuế đóng vại trò quan trọng bậc nhất. Hiện nay ở nước ta, việc thực hiện thuế VAT đã dần từng bước ổn định, sau nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Một trong những lo ngại của các nhà chức trách là liệu việc áp dụng thuế VAT có thể bù đắp được một phần nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm do thực hiện các nghĩa vụ về AFTA hay không. Chỉ có thực tiễn kết quả áp dụng VAT trong tương lai mới có thể giải đáp được vấn đề đó và từ đó chúng ta sẽ xác định đường đi phù hợp hơn cho quá trình cải cách lâu dài. Luật thuế thứ hai cũng có vai trò rất quan trọng - đó là Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Luật này được ban hành nhằm mục đích thay thế thuế lợi tức. Theo luật mới này, tất cả các doanh nghiệp không thuộc đối tượng của Luật Đầu tư nước ngoài đều được áp dụng một mức thuế chung. Ngoài ra còn có những mức thuế ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đây là một bước cải cách đúng đắn nhằm bảo vệ quyền lợi của người đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Chính sách tỷ giá hối đoái Một trong những nhân tố khẳng định tầm quan trọng của việc cải cách chính sách tỷ giá hối đoái là cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, mà hậu quả của nó đối với nền kinh tế các nước châu á nói chung là rất nặng nề. Khủng hoảng đã làm cho đồng nội tệ của đa số các quốc gia trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng đô la Mỹ. Kết quả là hàng xuất khẩu của các nước này trở nên rẻ hơn rất nhiều và có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Theo các nhà nghiên cứu, từ 2/1992 đến tháng 3/1998 năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu giảm đi rất nhiều so với các đối tác, cụ thể là suy giảm 24% so với Philipin; 34% so với Thái Lan và Malaixia; 45% so với Hàn Quốc; và 74% so với Indonexia. Trước tình thế đó, Việt Nam buộc phải có những điều chỉnh thích hợp về tỷ giá giữa đồng nội tệ so với đồng đô la Mỹ, với mức điều chỉnh là xấp xỉ 14%. Nhờ đó năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với các nước châu á khác chỉ giảm 14 – 15%. Trên thực tế, Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá bằng cách tuyên bố một tỷ giá chính thức của Ngân hàng nhà nước với một biên độ giao động được thay đổi tuỳ theo thực trạng phát triển kinh tế của đất nước. Những năm đầu thập kỷ 90, biên độ giao động chỉ ở mức 0,5%; năm 1996 tăng lên 1% do cầu về ngoại tệ, sang đầu năm 1997 tăng lên 5%. Tiếp đó, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, biên độ giao động của tỷ giá đồng Việt Nam lại được nới lỏng – lên tới 10%, và sau khi các nền kinh tế trong khu vực đã dần ổn định, vào quý III năm 1998, biên độ giao động giảm xuống còn 7%. Một cơ chế điều tiết như vậy là còn chưa phù hợp với việc tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Yêu cầu thực hiện một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt đã trở nên tất yếu. Do nền kinh tế Việt Nam còn ở giai đoạn yếu kém, dễ bị tổn thương, chúng ta không thể tiến hành cải cách bằng các “liệu pháp sốc”, mà phải tiến hành từng bước để vừa đảm bảo được sự ổn định cần thiết vừa tránh được những lãng phí không đáng có về tài nguyên. Trong đó vai trò quản lý ngoại hối của chính phủ là rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với quá trình cải cách. Bước đầu tiên của quá trình cải cách là đầu năm 1999, Việt Nam đưa ra một quy định mới về việc công bố tỷ giá và quy tắc xác định tỷ giá của các tổ chức kinh doanh ngoại tệ. Theo đó, tỷ giá công bố của đồng Việt Nam là tỷ giá giao dịch trong ngày trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với biên độ giao độ giao động là 0,1%. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách chính sách tỷ giá hối đoái vì nó đã bước đầu phản ánh tín hiệu của thị trường ngoại tệ. Một thành tựu trong quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam là đã kiểm soát được mức lạm phát. Tuy nhiên còn một vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết là tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Sau một thời gian nỗ lực tiến hành cải cách, tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu của nước ta được cải thiện đáng kể (năm 1997 chỉ tăng 4% trong khi đó năm 1996 tăng 37%, thậm chí năm 1998 đã giảm 0,8%, từ năm 1999 tăng nhẹ với tốc độ xấp xỉ 1%.) Cùng lúc đó xuất khẩu tăng mạnh, đặc biệt là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta là giầy dép và hàng dệt may được phục hồi trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những dấu hiệu đó chưa thể làm chúng ta yên lòng vì đó còn là kết quả đạt được nhờ áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu hoặc lệnh cấm nhập khẩu đối với một số mặt hàng để bảo hộ sản xuất trong nước. Việc áp dụng các biện pháp nhập khẩu tuy được coi là hợp lý đối với nền kinh tế một nước đang phát triển, nhưng nó chỉ mang tính tạm thời. Hiện tại, hệ thống tài chính của nước ta cong chua có quan hệ mật thiết với thị trường tài chính khu vực và thế giới, nên có thể áp dụng kiểm soát ngoại hối để điều tiết sự chu chuyển các dòng vốn. Trong tương lai, khi thị trường tài chính đã phát triển hơn, nhất thiết phải kiết hợp điều tiết tỷ giá ngoại hối với kiểm soát ngoại hối để có thể đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, hạn chế mức thâm hụt ngân sách. Chính sách tiền tệ – tín dụng Không ai có thể phủ định vai trò vô cùng quan trọng của hệ thống ngân hàng trong việc huy động và cung cấp nguồn vốn cần thiết cho quá trình phát triển nền kinh tế. Qua hoạt động ngân hàng, Việt Nam đã thu hút được một lượng tín dụng khá lớn vào đầu những năm 90. Song nguồn vốn này chủ yếu được phân bổ vào các doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước. Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN và từng bước thực hiện các cam kết theo AFTA, tình hình phát triển kinh tế nước ta có nhiều biến động. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp xấu đi rất nhiều, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Để cải thiện tình hình này, các ngân hàng tiếp tục tăng nguồn tín dụng cấp cho khu vực kinh tế này, dẫn tới tốc độ gia tăng tín dụng đã đạt mức đáng chú ý vào cuối năm 1998 (với mức gia tăng tín dụng của năm đó lên tới hơn 20%). Dĩ nhiên, hậu quả của sự gia tăng này là nguồn vốn đầu tư cho các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trở nên nhỏ bé. Mặt khác, cuộc khủng hoảng khiến chính phủ Việt Nam phải điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam, dẫn đến việc suy giảm tạm thời lượng tín dụng huy động được thông qua các khoản tiền gửi bằng đồng nội tệ, trong khi đó lại làm tăng các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ. Trong thời kỳ này, để mở rộng tín dụng với hy vọng thúc đẩy phát triển kinh tế, ngân hàng Việt Nam đã áp dụng chính sách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% xuống 7% và giảm lãi suất cho vay. Nhưng do chính sách lãi suất chưa được hợp lý, cộng với lạm phát gia tăng và thực tế sản xuất chưa được cải thiện đã làm gia tăng số nợ khê đọng trong các ngân hàng, kể cả bằng ngoại tệ và nội tệ. Trước tình hình đó, nhằm nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ – tín dụng đối với quá trình mở cửa nền kinh tế, chính phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương cải cách hệ thống ngân hàng. Trước hết đó là việc xây dựng một khuôn khổ pháplý an toàn, tạo nên một sân chơi bình đẳng cho tất cả các ngân hàng để duy trì lòng tin của nhân dân, với mục tiêu hiệu quả là trên hết. Bên cạnh đó, việc tiến hành cơ cấu lại các ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, xử lý các ngân hàng yếu kém, đồng thời khắc phụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung khoa luan tot nghiep.doc
  • docMuc luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
  • docTrang bia.doc
Tài liệu liên quan