Khóa luận Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

 Trang

 

Lời mở đầu 1

Chương I: Các loại hình dịch vụ của ngân hàng thương mại

I. Khái niệm về ngân hàng thương mại 3

1. Khái niệm 3

2. Các chức năng của ngân hàng thương mại 4

II. Quá trình phát triển của dịch vụ ngân hàng 6

1. Tổng quan dịch vụ ngân hàng trong các mốc lịch sử 6

2. Cuộc cách mạng dịch vụ ngân hàng thập niên 90 7

3. Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại 9

III. Các loại hình dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại 11

1. Dịch vụ tín thác 11

2. Dịch vụ chuyển tiền 12

3. Dịch vụ nhờ thu 12

4. Dịch vụ phát hành thư tín dụng 13

5. Dịch vụ bảo lãnh 14

6. Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ 15

7. Nhận xét chung 17

 

Chương II: Hoàn thiện các dịch vụ của ngân hàng thương mại Việt Nam

I. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 21

1. Hệ thống tổ chức ngân hàng 21

2. Sự phát triển của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua 23

3. Xu hướng phát triển 24

II. Đa dạng hoá quy mô và các hình thức thực hiện dịch vụ để nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại 27

1. Sự cần thiết phải đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng thương mại 27

2. Phương hướng hoàn thiện dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 32

 III. Thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới 43

1. Khó khăn từ bên trong nền kinh tế 43

2. Khả năng biến động của nền kinh tế thế giới gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại 44

3. Thách thức đặt ra từ Hiệp định thương mại Việt-Mỹ 45

 

Chương III: Những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

I. Định hướng chung 49

II. Những kiến nghị chung đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước 52

1. Về phía Chính phủ 52

2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 56

3. Về tổ chức triển khai, thực hiện 58

III. Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam 58

1. Hoạch định và lựa chọn chiến lược đa dạng hoá phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng 58

2. Cấu trúc lại bộ máy tổ chức 59

3. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng 59

4. Triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mớ 60

5. Tăng cường công tác thị trường, quảng cáo và marketing 61

6. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng 61

IV. Những kiến nghị cụ thể về hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng thương mại Việt Nam trước tác động của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ 62

1. Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng theo Hiệp định thương mạiViệt-Mỹ 62

a. Các cam kết về hình thức pháp lý của tổ chức tín dụng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam 62

b. Các cam kết về loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ (bao gồm các tổ chức tín dụng ) được hoạt động kinh doanh tại Việt Nam 63

c. Cam kết về lộ trình thực hiện các dịch ngân hàng và tài chính cho phía Hoa Kỳ được hoạt động tại Việt Nam 65

d. Nhận xét 66

2. Tác động của Hiệp định đối với hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam và kiến nghị 68

Lời kết

doc28 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh từ hai ngành nghề trở lên; xí nghiệp áp dụng kinh doanh đa dạng, tham gia vào hoạt động sản xuất và tiêu thụ nhiều loại hàng hoá và dịch vụ. Trước tiên cần chọn phương hướng da dạng hoá, và chọn loại nào để đa dạng hoá thì tương đối hữu hiệu hơn. Kinh doanh đa dạng hoá không chỉ hạn chế ở chỗ mở rộng chủng loại sản phẩm mà còn gồm cả mở rộng phạm vi sản xuất và thị trường. Mục đích của nó là để phân tán nguy cơ, tránh cho thị trường của một loại hàng hoá nào đó có biến động ảnh hưởng đến thu lợi và lợi dụng đầy đủ tiềm lực sản xuất và tiềm lực tiêu thụ của thị trường, tận dụng sản phẩm phụ và tiết kiệm chi phí tiêu thụ" Như vậy, đối với mỗi ngân hàng thương mại, đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ là việc ngân hàng kinh doanh nhiều hình thức dịch vụ khác nhau, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong toàn bộ các dịch vụ tài chính mà ngân hàng đó có thể cung cấp cho tất cả các đối tượng khách hàng trong nền kinh tế. Đồng thời, đa dạng hoá không chỉ hạn chế ở việc mở rộng các hình thức thực hiện dịch vụ, mà còn bao hàm cả mở rộng, phát triển dịch vụ về phạm vi, quy mô. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng cần duy trì mô hình hoạt động đa năng, phục vụ các loại hình dịch vụ cho tất cả các đối tượng trong nền kinh tế không chỉ để tăng thu nhập cho ngân hàng mà còn làm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Vì sao phải đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện các dịch vụ: Đa dạng hoá giúp các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Thứ nhất, đa dạng hoá giúp ngân hàng thương mại phân tán và giảm rủi ro. Một ngân hàng thương mại kinh doanh dịch vụ đa dạng sẽ phân tán được rủi ro và nâng cao được lợi nhuận của ngân hàng đó. Bởi vì, nếu theo các dịch vụ truyền thống và cổ điển, ngân hàng sẽ chỉ thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Do ngân hàng ở vào thế bị động sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, quản lý hoạt động tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoài ngân hàng: khách hàng, pháp luật, hiệu lực pháp chế của Nhà nước, mức độ phát triển của nền kinh tế .v.v. Thực tế đã có quá nhiều ngân hàng thương mại trên thế giới bị phá sản do đầu tư vốn mà không thu hồi được nợ. Chỉ với tỷ lệ nợ khó đòi vượt quá 4 - 5% tổng dư nợ đã làm cho các ngân hàng thương mại không còn lợi nhuận và mất dần vốn tự có. Vì vậy thực hiện kinh doanh mạnh và đa dạng các loại hình dịch vụ khác bên cạnh tín dụng là một phương sách hiệu quả nhất để phân tán bớt rủi ro, giữ vững sự ổn định của ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ các dịch vụ khác nhau, bổ sung cho nhau khi thị trường biến động sẽ giúp cho ngân hàng ổn định mức doanh lợi. Do vậy, ngày nay các ngân hàng thương mại đều cố gắng đa dạng hoá dịch vụ của mình, thực hiện câu châm ngôn: "đừng đặt tất cả trứng của bạn vào một cái rổ". Thứ hai, đa dạng hoá quy mô và các hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện đa dạng hoá, ngân hàng thương mại sẽ mở rộng thị trường và khách hàng, tạo khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều hình thức dịch vụ khác nhau, ngân hàng thương mại có thể khai thác những khoảng trống trên thị trường, kể cả những khoảng trống nhỏ, để tăng thêm thị phần. Mặt khác, đa dạng hoá sẽ giúp ngân hàng sử dụng được triệt để, có hiệu quả nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ; do vậy, giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho ngân hàng. Thứ ba, đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển. Các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại có mối quan hệ hữu cơ, có tác động qua lại với nhau tạo thành một thể thống nhất và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Huy động vốn tạo nguồn cho thực hiện nghiệp vụ tín dụng và phát triển dịch vụ; nhưng ngược lại, nghiệp vụ tín dụng và dịch vụ thực hiện tốt cũng tạo điều kiện để thu hút khách hàng với những nguồn tiền nhàn rỗi của họ. Kinh tế thị trường càng phát triển, các doanh nghiệp càng đa dạng hoá kinh doanh và nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng, tài chính ngày càng phong phú đa dạng. Điều đó đòi hỏi sự phục vụ của ngân hàng cũng phải đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Chỉ khi đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ, ngân hàng mới cung cấp được nhiều sản phẩm dịch vụ một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và nền kinh tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức "trọn gói" bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức đơn lẻ. Thứ tư, đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện có rất nhiều ngân hàng với các hình thức sở hữu, quy mô hoạt động khác nhau, nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và các tổ chức tài chính tín dụng cùng hoạt động, đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng thương mại. Ngân hàng nào muốn tồn tại, phát triển, đạt được lợi nhuận cao và tạo ra vị thế của mình trong cạnh, đều phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuận tiện các nhu cầu phong phú, đa dạng để thu hút được nhiều khách hàng. Muốn làm được điều này, cách tốt nhất là phải đa dạng hoá quy mô và hình thức để tự hoàn thiện các dịch vụ. Những ngân hàng hoạt động đơn điệu dễ bị phá sản hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hoặc giữ cho hoạt động của mình luôn ổn định. Mặt khác, phát triển theo hướng kinh doanh đa dạng là điều kiện quan trọng để mở rộng quy mô và mạng lưới ngân hàng trong chiến lược phát triển, cạnh tranh; vì nó cho phép các ngân hàng có thể mở rộng ảnh hưởng một cách vững chắc. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại hoạt động đa năng cũng gặp những khó khăn nhất định, đòi hỏi việc quản lý phức tạp hơn, nguồn vốn bị phân tán hơn. ngân hàng phải có đủ bộ máy cán bộ vận hành giỏi ở mỗi loại nghiệp vụ; đồng thời người lãnh đạo các ngân hàng phải am hiểu hết sức sâu sắc về kinh doanh và phải có năng lực chỉ đạo điều hành đồng bộ, hợp lý. Đây là một yêu cầu hết sức khó khăn, đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện về vốn để thực hiện đa dạng hoá dịch vụ. Nếu quản lý điều hành không tốt, thì chi phí cho việc đa dạng hoá có khi còn cao hơn thu nhập do đa dạng hoá mang lại. Mặt khác, trong môi trường kinh doanh đa năng, các khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng để giao dịch và sẽ xảy ra tình trang một khách hàng giao dịch với nhiều ngân hàng. Lúc đó, nếu không có thông tin kịp thời và chính xác thì rủi ro lại xảy ra cho bản thân các ngân hàng. Hiệu quả hoạt động kinh doanh cao sẽ tạo điều kiện tốt hơn để các ngân hàng thương mại hoàn thiện các dịch vụ. Một là, hiệu quả hoạt động cao, lợi nhuận nhiều, ngân hàng sẽ có điều kiện bổ sung nguồn vốn để thực hiện đa dạng hoá dịch vụ. Với hiệu quả hoạt động cao, ngân hàng hoàn toàn có điều kiện để lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp, lựa chọn triển khai những nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại để hướng đạo thị trường sử dụng. Hai là, trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, một ngân hàng hoạt động ổn định, chắc chắn, có hiệu quả cao sẽ tạo được lòng tin và thu hút khách hàng. Sản phẩm mới triển khai của ngân hàng đó sẽ dễ dàng được các khách hàng chấp nhận. Ba là, hoạt động có hiệu quả, mức lương cao, ổn định sẽ giúp cho ngân hàng thu hút được lao động có trình độ chuyên môn cao, khuyến khích họ làm việc nhiệt tình, tận tụy và có trách nhiệm với khách hàng. Đồng thời, ngân hàng có điều kiện phát triển chuyên môn hoá sâu, nâng cao kỹ năng từng nhóm nhân viên hoặc từng bộ phận và đó là một trong những điều kiện để thực hiện hoàn thiện các dịch vụ. Phương hướng hoàn thiện dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ với nâng cao hiệu quả hoạt động cho thấy đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng là giải pháp cơ bản, không thể thiếu để nâng cao hiệu quả hoạt động cho các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, mà kinh nghiệm của nhiều ngân hàng thương mại thành đạt trên thế giới đã cho thấy rõ điều đó. Sự đa dạng trong dịch vụ tài chính và chức năng của ngân hàng đã trở nên phổ biến trong các ngân hàng thương mại hiện đại, đến mức người ta đã gọi các ngân hàng đó là: "Bách hoá tài chính" (Financial Department Store) và khẩu hiệu quảng cáo: "Ngân hàng của bạn - một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch vụ" (Your bank - a full service Financial Institution) đã trở nên quen thuộc ở các nước phát triển. Từ ngày đổi mới đến nay, tuy đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện dịch vụ nhưng nhìn chung các ngân hàng thương mại ở nước ta mới chỉ đạt được những thành tựu bước đầu rất khiêm tốn so với yêu cầu của một ngân hàng thương mại hoạt động đa năng trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế Việt Nam đang được đổi mới phát triển theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng - tài chính của nền kinh tế và dân cư ngày càng tăng; mặt khác, để tiến kịp và hội nhập với hệ thống tài chính thế giới và để bản thân mình được tiếp tục tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại Việt Nam không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng tăng cường hoàn thiện các dịch vụ của mình. Đây là xu thế tất yếu, một đòi hỏi bức thiết của nền kinh tế và là lợi ích sống còn của bản thân mỗi ngân hàng. Nhận thức được xu thế và những thách thức trước mắt, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang tiếp tục tích cực đổi mới hoạt động, đầu tư cho việc mở rộng và tăng cường quy mô cũng như hình thức dịch vụ của mình theo phương hướng chủ yếu sau đây: Tăng nhanh tốc độ thanh toán: Hiện nay, tốc độ thanh toán cho khách hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn chậm so với các ngân hàng khác trên thế giới, chưa đáp ứng được nhu cầu chu chuyển vốn của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do tốc độ phát triển những cơ sở hạ tầng xã hội chủ yếu đã và đang diễn ra tương đối chậm. Hệ thống công nghệ của các ngân hàng Việt Nam chưa hiện đại, việc tổ chức thực hiện các dịch vụ chủ yếu vẫn là thủ công với chứng từ bằng giấy. Việc này không đáp ứng được nhu cầu về chất lượng phục vụ ngày càng tăng của các đối tượng khách hàng là cá nhân cũng như khách hàng là doanh nghiệp. Đối với các khách hàng là cá nhân, việc phải bỏ thời gian đến trụ sở ngân hàng thương mại mà mình có tài khoản, xếp hàng và chờ tới lượt được phục vẫn còn phổ biến. Tình trạng này không còn phù hợp với sự phát triển hiện nay của nền kinh tế cũng như xu hướng phát triển chung của công nghệ ngân hàng trên thế giới là giảm thiểu thời gian giao dịch cho khách hàng, tạo mọi điều kiện về thời gian và không gian để khách hàng thực hiện nhu cầu thanh toán của mình. Còn đối với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp thì yêu cầu về tốc độ thanh toán cũng ngày càng cao hơn. Để thực hiện xong một giao dịch, có khi doanh nghiệp phải chờ hai đến ba ngày để được báo có lên tài khoản của mình, trong khi đó, yêu cầu về tốc độ chu chuyển vốn của doanh nghiệp ngày càng cao, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nước ngoài. Tốc độ thanh toán chậm sẽ gây ra tình trạng làm đọng vốn của doanh nghiệp, cản trở sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng có nghĩa là doanh nghiệp bị ngân hàng chiếm dụng vốn trong một khoảng thời gian. Nếu tình trạng này không được mau chóng cải thiện thì các ngân hàng thương mại của Việt Nam sẽ mất dần tính cạnh tranh. Để cải thiện tình trạng trên, thời gian gần đây, một số ngân hàng thương mại Việt Nam đã bắt đầu lắp đặt các thiết bị công nghệ mới phục vụ cho việc thanh toán nhanh và thuận tiện hơn cho các đối tượng khách hàng của mình. Việc mở rộng mạng lưới máy rút tiền ATM, tham gia vào hệ thống thanh toán toàn cầu SWIFT, mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý tại các nước ở khắp các châu lục cũng cho thấy rõ các nỗ lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên thị trường thanh toán qua ngân hàng cũng đã bắt đầu xuất hiện việc cạnh tranh để tranh giành các đối tượng khách hàng lớn như các doanh nghiệp nước ngoài, các khách sạn 5 sao bằng chất lượng và tốc độ thanh toán, báo có, báo nợ trên tài khoản khách hàng một cách nhanh nhất. Đây là những tín hiệu tốt từ thị trường ngân hàng và còn tiếp tục được các ngân hàng chú trọng đầu tư. Cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp: Đây là một dịch vụ rất cần thiết cho cả phía doanh nghiệp và phía ngân hàng. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay còn thấp so với mặt bằng chung của nền kinh tế thế giới, mức độ giao lưu, hiểu biết và chuẩn hoá của nhiều doanh nghiệp còn kém, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Chính vì vậy, nhu cầu được tư vấn về các lĩnh vực chuyên môn khi tham gia vào buôn bán mậu dịch quốc tế là rất cần thiết. Ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian, là người xúc tiến thương mại quốc tế trên phương diện thanh toán, với các kỹ năng nghiệp vụ của mình, sẽ là những nhà tư vấn tốt cho doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán khi ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Thông qua đó, ngân hàng thu được một khoản phí bổ sung cho thu nhập của mình, đồng thời tạo điều kiện cho các dịch vụ khác của ngân hàng phát triển theo. Hiện nay, ở Việt Nam, các ngân hàng cũng tư vấn giúp các doanh nghiệp về bộ chứng từ gửi hàng để tránh gian lận và sai sót, tư vấn về việc lựa chọn ngân hàng thanh toán đảm bảo có uy tín bởi vì khi ngân hàng thanh toán bị giải thể hoặc phá sản trước khi kịp thanh toán tiền cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ khó có thể thu được tiền. Dịch vụ tư vấn của ngân hàng mang tính chuyên môn cao, đảm bảo tốt nhất cho người mua hoặc người bán là khách hàng của mình, chẳng hạn như các chuyên gia giỏi về lĩnh vực thanh toán quốc tế có thể tư vấn và giúp doanh nghiệp rất nhiều trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu như tư vấn về các điều khoản hợp đồng, lựa chọn phương thức thanh toán. Trong trường hợp áp dụng phương thức thanh toán thư tín dụng, ngân hàng có thể tư vấn về các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng. Các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng phải rõ ràng, dễ hiểu, bộ chứng từ yêu cầu xuất trình phải đơn giản, dễ lập. Trường hợp nội dung thư tín dụng mập mờ không rõ nghĩa hoặc có những điều khoản, điều kiện khó thực hiện, chứng từ xuất trình khó có khả năng đáp ứng được thì ngân hàng nhắc nhở người bán là khách hàng của mình liên hệ ngay với người mua để yêu cầu tu chỉnh. Ngoài ra, ngân hàng còn giúp doanh nghiệp lập bộ chứng từ phù hợp với thư tín dụng hoặc kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Dịch vụ tư vấn doanh nghiệp này hiện nay cũng đang được nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam chú trọng, đầu tư để phát triển, trong đó, chủ yếu là đầu tư để phát triển con người. Các ngân hàng đã và đang tiến hành đào tạo và đào tạo lại, không ngừng nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho các nhân viên làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động thanh toán và tư vấn, kèm theo đó là tăng cường tuyển dụng lao động có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao. Trước mắt, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phát triển loại hình dịch vụ này theo hướng chuyên môn hoá cao, mang tính chuyên nghiệp. Mở rộng hệ thống thanh toán tự động ATM: ATM (Automated Teller Machine) là loại máy rút tiền tự động, dùng để rút tiền hoặc chuyển khoản. Để sử dụng loại thiết bị này, người sử dụng cần phải có thẻ ATM. Việc sử dụng thẻ chỉ đơn giản là nhét thẻ vào máy, nhập mã số, màn hình ATM sẽ xin lệnh về số tiền rút và các thông tin khác về chuyển khoản. Trong nửa phút, mọi hoạt động chuyển khoản hoặc rút tiền ngay tại máy được hoàn thành. Hiện nay ở Việt Nam, ngoài các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có máy ATM hoạt động 24/24 giờ, trong số các ngân hàng thương mại nội địa thì đi đầu trong lĩnh vực này là Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VietComBank) với chiến dịch về loại hình ATM phát triển rầm rộ trong năm qua. Với thẻ ATM thông qua máy ATM, khách hàng của VCB có thể thực hiện các nghiệp vụ sau: Rút tiền mặt (Cash Withdraw) Gửi tiền vào tài khoản (Deposit) Vấn tin số dư trên tài khoản (Balance Inquiry) Chuyển tiền giữa các tài khoản (transfer) Thanh toán các loại hoá đơn dịch vụ (Billing) Nhận các thông tin cần thiết khác về hoạt động của chủ tài khoản cũng như hoạt động chung của ngân hàng (Banking service advertising) Máy ATM hiện nay không chỉ cho phép khách hàng sử dụng thẻ ATM của mình để thực hiện các nghiệp vụ trên mà còn có thể sử dụng một số thẻ khác như thẻ tín dụng, thẻ thông minh. Cùng với online-banking hay e-banking sẽ được đề cập ở phần tiếp theo, dịch vụ ATM là một trong hai dịch vụ ngân hàng đa tiện ích trên nền tảng công nghệ hiện đại, là hai sản phẩm dịch vụ đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế và mang tính chuẩn mực cao. Đây là những sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích công chúng mở rộng giao dịch ngân hàng, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả và cải thiện nền văn minh thanh toán, kích thích mạnh mẽ việc phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam. Không những thế, việc sử dụng thẻ ATM còn mang tính bảo đảm an toàn cao hơn thẻ tín dụng do trong trường hợp mất thẻ, tiền trong tài khoản của khách hàng vẫn được giữ an toàn bằng số mã PIN mà chỉ các chủ nhân thẻ biết và bằng thông báo của chủ thẻ tới ngân hàng. Hiện nay, VCB có 30 máy ATM triển khai tại nhiều địa điểm trung tâm, dự kiến tới cuối năm 2002 sẽ đưa thêm 70 máy vào hoạt động. Tăng cường dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế và nội địa: Những năm 96, 97 được xem như thời kỳ hoàng kim của thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam với doanh số thanh toán đạt trên 200 triệu USD/năm. Nhưng sau đó, sự sụt giảm của đầu tư nước ngoài và lượng du khách quốc tế đến Việt Nam đã khiến việc thanh toán bằng thẻ tín dụng giảm rõ rệt. Qua năm 2000, thị trường thẻ tín dụng đã bắt đầu phục hồi trở lại. Các ngân hàng thương mại thông báo doanh số thanh toán bằng thẻ tín dụng đang tăng lên và việc phát hành thẻ tín dụng của các tổ chức thẻ tín dụng quốc tế như Master Card, Visa .v.v. cũng rất lạc quan. Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện có khoảng mười ngân hàng, trong đó chủ yếu là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài như HSBC (Anh Quốc), ANZ (New Zealand), UOB (Singapore) nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Các ngân hàng này đều có máy rút tiền tự động hoạt động liên tục 24/24 giờ nên các chủ thẻ có thể rút tiền bất cứ khi nào họ cần. Trước đây, Việt Nam có bốn ngân hàng tham gia Hiệp hội Thẻ tín dụng quốc tế và thanh toán bằng thẻ là ngân hàng á Châu (ACB), ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (VCB), ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu (Eximbank) và ngân hàng liên doanh First Vina bank. Tuy nhiên, do những khó khăn cả khách quan và chủ quan, việc phát hành và thanh toán bằng thẻ tín dụng của First Vina Bank và Eximbank đã không triển khai được. Nhưng VCB và ACB đã tiến vào thị trường thẻ với những bước đi tuy có chậm hơn dự tính song rất vững chắc. Và cho đến giờ, VCB đang dẫn đầu trong số các ngân hàng cả về số lượng thẻ tín dụng đã phát hành cũng như thanh toán bằng thẻ. Tính riêng nửa đầu năm 2000,ngân hàng này đã phát hành thêm được 1500 thẻ tín dụng quốc tế mới và nâng doanh số thanh toán thẻ tín dụng của người nước ngoài ở Việt Nam lên 75 triệu USD, doanh số thu từ việc phát hành và thanh toán thẻ VCB của chính ngân hàng này phát hành (chủ yếu dành cho những người Việt Nam, người nước ngoài chiếm khoảng 10%) cũng đạt khoảng 20 triệu USD. Hiện giờ, VCB cũng đã triển khai dịch vụ thanh toán bằng thẻ qua mạng Internet, với mục đích phục vụ thanh toán cho dân cư trong nước, đồng thời, giới thiệu hàng hoá của Việt Nam với người nước ngoài và Việt Kiều. Với dịch vụ này, Việt Kiều có thể mua hàng hoá cho người thân ở trong nước và trả tiền ở nước ngoài. Trong khi đó, tính đến năm 2000, Ngân hàng á châu cũng đạt con số phát hành thẻ tín dụng là hơn 10000 thẻ, với doanh số dao động trong khoảng 1,3 đến 1,5 triệu USD/tháng. Cũng trong năm 2000, ACB đã phát hành được hơn 2000 đại lý thanh toán thẻ trên toàn quốc. Các ngân hàng đều tỏ ra lạc quan khi nhận định những năm tới doanh số thanh toán bằng thẻ tín dụng sẽ tiếp tục gia tăng. Một trong những lý do dẫn đến sự tăng này là do số lượng khách du lịch quốc tế Việt Nam đang có chiều hướng tăng. Ngoài ra, số lượng người Việt Nam đi du lịch nước ngoài hàng năm cũng đang tăng và không ít người trong số họ sở hữu thẻ tín dụng. Sự phục hồi của thẻ tín dụng quốc tế đã khuyến khích các ngân hàng trong nước mạnh dạn phát hành thẻ tín dụng nội địa thanh toán bằng tiền đồng, tiêu biểu như VCB và ACB là những ngân hàng đi đầu trong việc phát hành thẻ tín dụng của chính ngân hàng mình, đối tượng khách hàng mà họ nhắm đến là những dân cư có thu nhập ở mức trung lưu trở lên. Ngày nay, việc sử dụng thẻ tín dụng trên thế giới đã trở nên phổ biến và những tiện ích của thẻ tín dụng được mọi người thừa nhận. Song ở Việt Nam, để thay đổi thói quen dùng tiền mặt vốn đã tồn tại từ lâu trong dân cư, thời gian bốn năm năm hẳn chưa đủ. Hơn nữa, không phải tất cả các cửa hàng, siêu thị, các dịch vụ đều đã nhận thanh toán bằng thẻ. Cho dù các ngân hàng đã và đang nỗ lực mở rộng mạng lưới đại lý nhận thanh toán thẻ, nhất là tại các đô thị lớn thì nhiều chủ thẻ vẫn phải mất công sức lựa chọn những địa điểm mua sắm có nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Điều này cần được khắc phục thì mới thúc đẩy được thị trường thẻ tín dụng tiếp tục phát triển. Tiến tới dịch vụ ngân hàng điện tử e-banking: E-banking là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân hàng thông qua việc nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng. Tại các nước tiên tiến trên thế giới, từ hơn một thập kỷ gần đây, hàng loạt các ngân hàng đã bắt đầu cung ứng một chương trình phần mềm cho khách hàng nhằm giúp cho khách hàng có thể xem số dư tài khoản, đồng thời thực hiện một số lệnh thanh toán cho một số dịch vụ công cộng như tiền điện, tiền nước .v.v. Ngày nay, dịch vụ này đã trở nên khá quen thuộc với khách hàng vì tính tiện lợi và hiệu quả của nó; chẳng hạn như ở Mỹ, năm 1998 có 7 triệu hộ gia đình giao dịch với ngân hàng qua Internet, năm 2001 có khoảng 10 triệu và dự kiến năm 2003 con số này sẽ lên tới 60 triệu. Theo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam . E-banking có xu thế phát triển mạnh ngày càng mạnh bởi vì loại hình dịch vụ ngân hàng này có những ưu điểm cho cả khách hàng sử dụng dịch vụ và ngân hàng cung cấp dịch vụ: Đối với khách hàng, E-banking đem lại nhiều điểm tiện lợi: Thứ nhất, E-banking là một kênh quan trọng giúp cho khách hàng có thể thông tin liên lạc với ngân hàng nhanh hơn và hiệu quả hơn. Chỉ trong chốc lát, qua máy vi tính được nối mạng với ngân hàng, khách hàng có thể giao dịch trực tiếp với ngân hàng để kiểm tra số dư tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hoá đơn dịch vụ công cộng, thanh toán thẻ tín dụng, mua séc du lịch, kinh doanh ngoại hối, vay nợ, và kể cả kinh doanh chứng khoán với ngân hàng. Thứ hai, phí giao dịch E-banking hiện được đánh giá là mức thấp nhất so với các phương tiện giao dịch khác. Cụ thể như bảng so sánh sau đây (xem bảng trang sau) Nhân viên phục vụ Qua điện thoại ATM E-banking 1.07 USD 0.54 USD 0.27 USD 0.015 USD Nguồn: Kết quả khảo sát của Hãng Nghiên cứu Booz, Allen & Hamilton (1999) Bảng trên cho thấy giao dịch qua e-banking có thể giúp khách hàng giảm được 71.33% chi phí so với giao dịch cùng nhân viên phục vụ, giảm được 36% chi phí so với giao dịch qua điện thoại, và giảm được 18% chi phí so với giao dịch qua máy rút tiền tự động ATM. Rõ ràng, e-banking là sự lựa chọn rất ưu việt về mặt chi phí cho khách hàng. Thứ ba, E-banking đem lại sự tiện lợi từ trước tới nay chưa hề có cho khách hàng, nhất là đối với hộ cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nhiều khi đối tượng khách hàng này không có đủ nhân lực để đi đến văn phòng trực tiếp giao dịch với ngân hàng và E-banking sẽ là sự lựa chọn tối ưu. Còn đối với ngân hàng, là một giải pháp mang tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động, thậm chí dịch vụ ngân hàng điện tử có thể được coi là một kênh quan trọng làm thay công việc của một chi nhánh. Cùng với dịch vụ E-banking, ngân hàng có thể cắt giảm chi phí, trong khi đó lại giao dịch với khách hàng mọi lúc mọi nơi; qua đó, lưu giữ khách hàng hiện tại và thu hút khách hàng mới. Ngoài ra, thông qua dịch vụ E-banking, ngân hàng có thể thực hiện chiến lược mở rộng mạng lưới và qui mô hoạt động mà không cần mở thêm chi nhanh. Cuối cùng, Internet là một công cụ quảng cáo hiệu quả đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Tất cả những lợi ích này của Internet đã và đang khiến các ngân hàng không thể làm ngơ trước thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. Tại thị trường Việt Nam, việc sử dụng Internet đã bắt đầu từ 1997 nhưng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng qua mạng mới chỉ bắt đầu được triển khai bởi một số ngân hàng lớn trong thời gian gần đây. Chẳng hạn, ngân hàng thương mại á Châu (ACB) đã có một số gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuong 2.doc
  • docchuong 1.doc
  • docchuong 3.doc
  • docloi ket.doc
  • docloi mo dau.doc
  • docMuc luc.doc
  • doctµi liÖu tham kh¶o.doc
Tài liệu liên quan