Khóa luận Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ - Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU. 1

1. Lý do chọn đề tài. 1

2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề. 1

3. Mục đích nghiên cứu. 2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2

5. Phương pháp nghiên cứu. 2

6. Dự kiến đóng góp của đề tài. 3

7. Bố cục khóa luận. 3

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN. 4

1.1. Vài nét về tôn giáo. 4

1.1.1. Khái niệm tôn giáo. 4

1.1.2. Khái quát chung về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. 6

1.1.3. Các loại hình tôn giáo chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ. 9

1.2. Góc độ văn hóa của tôn giáo. 10

1.2.1. Phật giáo. 11

1.2.2. Thiên Chúa Giáo. 15

1.3. Giá trị văn hóa tôn giáo đối với việc khai thác và phát triển du lịch. 19

1.4. Văn hóa tâm linh và đặc điểm của loại hình du lịch văn hóa tâm linh. 21

1.5. Tiểu kết chương I. 23

CHƯƠNG II: DU LỊCH VÀ TÔN GIÁO QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ

Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ. 25

2.1. Nhu cầu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ. 25

2.2. Đánh giá chung về tiềm năng du lịch ở các đình, đền, chùa, miếu, nhà

thờ, các lễ hội tôn giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. 27

2.2.1. Tiềm năng. 27

2.2.2. Thực trạng. 35

2.2.2.1. Mặt được. 35

2.2.2.2. Những tồn tại. 39

2.2.3. Nguyên nhân. 41

2.2.3.1. Chưa nhìn nhận đúng tiềm năng của du lịch văn hóa tâm linh. 41

2.2.3.2. Chưa đầu tư thích đáng về mọi mặt. 42

2.2.3.3. Khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên một cách bừa bãi. 43

2.2.3.4. Chưa chú trọng công tác quảng bá, xúc tiến. 43

2.2.3.5. Chưa tạo được những sản phẩm du lịch độc đáo. 44

2.3. Tiểu kết chương II. 44

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM GẮN VĂN HÓA TÔN

GIÁO VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA

TÂM LINH Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ. 46

3.1. Quán triệt sâu sắc quan điểm đối mới của Đảng đối với vấn đề tôn giáo. 46

3.2. Những giải pháp chung. 48

3.2.1. Đưa du lịch đến các di tích, các lễ hội văn hóa tâm linh. 48

3.2.2. Xây dựng dự án Quốc gia về phát triển du lịch văn hóa tâm linh. 51

3.2.3. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về du lịch, quảng bá, xúc tiến

cho loại hình du lịch văn hóa tâm linh. 51

3.2.4. Học tập kinh nghiệm của một số nước. 53

3.3. Những giải pháp cụ thể. 55

3.3.1. Thành lập Ban chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh. 55

3.3.2. Thành lập các Công ty du lịch chuyên về du lịch văn hóa tâm linh với

đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp. 56

3.3.3. Thành lập Ban chuyên trách tiếp khách, hướng dẫn du khách tại các

điểm tham quan. 56

3.3.4. Giải quyết triệt để những vấn nạn tại các điểm du lịch. 57

3.3.5. Một số giải pháp khác. 57

3.4. Tiểu kết chương III. 58

KẾT LUẬN. . 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 61

PHỤ LỤC

pdf72 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4375 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ - Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và qua thực tiễn thì có thể thấy đặc điểm nổi bật của loại hình du lịch văn hóa tâm linh đó chính là sự kết hợp giữa du lịch (đi chơi) với tâm linh (đi cầu xin, lễ lạt). 1.5. Tiểu kết chƣơng I Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Các tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập vào Việt Nam rất sớm như Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo …. Nó tồn tại suốt một thời gian dài với lịch sử dân tộc. Theo thống kê hiện nay, Việt Nam có 19,4% dân số theo đạo với hơn 18 triệu người là tín đồ các tôn giáo. Số liệu này chưa phản ánh chính xác số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam vì việc xác định thế nào là một tín đồ tôn giáo vốn dĩ đã phức tạp lại chưa có sự thống nhất. Hơn nữa, người Việt Nam không giống người Phương Tây chỉ tham dự một hành vi tôn giáo. Một người Việt Nam có thể đi lễ nhà thờ, lễ chùa hoặc tham dự vào các hành vi tôn giáo khác nhưng nhiều khi lại không tự nhận là có đạo. Đến Việt Nam, người Phương Tây thường rất ngạc nhiên bởi ở đâu họ cũng bắt gặp nơi thờ tự với nhiều thần linh khác nhau mà tâm thức tôn giáo độc thần của họ không sao hiểu nổi. Từ gốc cây cổ thụ, hòn đá, hốc núi với hình thù kì dị đến khúc sông, ngọn suối… tất cả đều linh thiêng và có hồn. Trong nhà người Việt Nam, nơi trang trọng nhất đặt bàn thờ tổ tiên, bàn thờ Chúa, Phật hay các Mẫu, góc nhà, góc bếp có bàn thờ Thần Tài, Thần Bếp (Táo Quân), ngoài sân có cây hương thờ Thổ Địa góc vườn có Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 28 miếu thờ bà Cô, ông Mãnh, v.v... Điều đó phần nào nói lên nhu cầu tâm linh của người Việt và bầu không khí thấm đẫm hương vị tôn giáo nơi cõi hư và cõi thực hầu như không có ranh giới. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, các tôn giáo khác nhau đã có những ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam, trong đó ảnh hưởng lớn nhất là của Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Với đặc điểm nổi bật là tính đa nguyên dung hợp không mâu thuẫn kì thị tôn giáo, cũng không tồn tại thứ đức tin cực đoan, cuồng tín, tôn giáo Việt Nam gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, và ngày nay vẫn "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc". Tôn giáo cũng đã để lại một kho tàng giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú, đặc sắc, là nguồn tài nguyên vô giá đối với việc khai thác và phát triển du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 29 CHƢƠNG II. DU LỊCH VÀ TÔN GIÁO QUA KHẢO SÁT THỰC TẾ Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 2.1. Nhu cầu tôn giáo ở đồng bằng Bắc Bộ Đồng bằng Bắc bộ là một vùng đất chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển cả về kinh tế, văn hoá, lẫn quân sự của Việt Nam. Sau hàng triệu năm hình thành và hàng nghìn năm khám phá của người Việt, vùng đồng bằng Bắc Bộ dần được định hình cho đến ngày nay. Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hóa Đông Sơn, Thăng long – Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Đây cũng chính là nơi hai tôn giáo chủ yếu là Phật giáo và Thiên chúa giáo du nhập đầu tiên vào Việt Nam và phát triển rất mạnh mẽ. Nói tới văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu, nhà thờ Thiên Chúa giáo v.v…, có mặt ở hầu khắp các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài như chùa Hương, Chùa Bái Đính, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng, nhà thờ đá Phát Diệm v.v… Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, các di sản văn hóa vô thể của đồng bằng Bắc Bộ cũng khá đa dạng và phong phú. Những biểu hiện trên cho thấy người dân đồng bằng Bắc Bộ rất coi trọng đời sống tâm linh. Hầu như người dân nào cũng đã từng tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng như đi lễ chùa, lễ nhà thờ, tham gia các lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng. Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 30 Khảo sát nhu cầu tín ngưỡng của người dân trên phạm vi 5 tỉnh đồng bằng Bắc bộ là Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Nình Bình với số lượng phiếu phát ra 1000 phiếu/tỉnh, Câu hỏi chủ yếu là: “Ông, bà,… có bao giờ tham gia các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng không?”, chúng tôi thu được kết quả như sau: Tỉnh/Tp Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng Ít nhất 1 lần Chƣa bao giờ Hà Nội 223 402 311 64 Bắc Ninh 271 385 301 45 Hƣng Yên 195 355 350 100 Nam Định 230 390 300 80 Ninh Bình 245 310 363 82 Những người tham gia thường xuyên là những người tham gia tất cả các lễ hội, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng trong làng, trong vùng (ví dụ như người dân Bắc Ninh nhưng đầu năm vẫn đi lễ chùa Bái Đính hoặc người dân Hà Nội đi lễ hội chùa Hương), đi lễ chùa vào rằm, mùng một, và có thể lập cả điện thờ ở nhà; Những người thỉnh thoảng tham gia là những người chỉ đi các lễ hội lớn, đi lễ đầu năm; Những người tham gia ít nhất một lần là những người chỉ tham gia vài lần vào những dịp đặc biệt. Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 31 Còn đây là kết quả khảo sát tại một số điểm du lịch có gắn với các thánh tích nổi tiếng hoặc lễ hội tôn giáo lớn trong năm 2010: Thánh tích, lễ hội tôn giáo Tỉnh, TP Thời gian tổ chức Lƣợt ngƣời tham gia Chùa Hƣơng Hà Nội Mồng 6 tháng Giêng đến hết tháng 3 âm lịch 1.300.000 Chùa Bái Đính Ninh Bình Mồng 6 tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch 5.000.000 Phủ Giầy Nam Định Mông 3-8 tháng 3 âm lịch 500.000 Phủ Tây Hồ Hà Nội Mồng 1 tháng Giêng đến hết Giêng 600.000 Đền Trần Nam Định Đêm 14 tháng Giêng âm lịch 50.000 Từ các bảng khảo sát trên , ta nhận thấy nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đồng bằng Bắc bộ khá cao. Hầu như người dân nào cũng ít nhất một lần tham gia vào các hoạt động tôn giáo hay sinh hoạt tín ngưỡng như đi lễ chùa, lễ nhà thờ, đi lễ hội, đối với những nơi được cho là linh thiêng thì lượng người đến rất đông. Đặc biệt khoảng 10 năm trở lại đây, khi đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo càng phát triển mạnh mẽ vì người ta muốn đi cầu, xin, trả ơn,… để sức khỏe được dồi dào, làm ăn được thuận lợi, gia đình được hạnh phúc, con cái đỗ đạt,.... 2.2. Đánh giá chung về tiềm năng du lịch ở các đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ, các lễ hội tôn giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ 2.2.1. Tiềm năng Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng BắcBộ nói riêng có một hệ thống các đình, chùa, đền, miếu khá dày đặc, và cùng với nó là các lễ hội tôn giáo. Bên cạnh đó là một số công trình nhà thờ độc đáo. Đây không chỉ là các địa chỉ tôn Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 32 giáo, là nơi sinh hoạt của các tín đồ tôn giáo mà còn là các địa chỉ du lịch hấp dẫn. Việc phát triển du lịch tôn giáo là một nhu cầu đang nóng hiện nay bởi con người sống trong đời có 2 điều quan trọng là hạnh phúc và khổ đau. Mỗi con người đều có thế giới riêng: tâm và linh - đây là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hiện nay. Hiện nay, các nước Âu, Mỹ thường có xu hướng du lịch về phương Đông, trong đó có Việt Nam (bởi Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch tâm linh rất lớn). Với một khối lượng là hàng vạn các di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng (trong đó chủ yếu là các cơ sở sinh hoạt tôn giáo như đình, chùa, nhà thờ,…) và hàng chục vạn các cơ sở tôn giáo ở các làng (chưa được xếp hạng di tích), đồng bằng Bắc Bộ được coi là nơi có tiềm năng du lịch tâm linh cực kỳ dồi dào. Xin liệt kê cụ thể một số tỉnh: Hà Nội: Là một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam.. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử Thăng Long – Hà Nội đã tích hợp trong mình bao sự kiện lịch sử, văn hóa đã trở thành di sản, di tích vô giá cho chúng ta hôm nay. Thống kê sơ bộ cho thấy Hà Nội đã có trên 5000 di tích, chiếm tới 40% di tích của cả nước; gần 1000 di tích được cấp bằng di tích quốc gia, đậm đặc di tích, đa dạng không gian văn hóa… Với một vùng đất có nhiều các di tích, danh thắng lịch sử, đình chùa miếu mạo như Hoàng Thành Thăng Long; Cổ Loa, Đền Gióng, chùa Hương, chùa Tây Phương, làng cổ Ðường Lâm, Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Hàm Long... du lịch Hà Nội đang hướng tới loại hình du lịch văn hóa tâm linh là trọng yếu. Tiềm năng này được những người làm du lịch đánh giá cao và đặt hy vọng khách du lịch quốc tế đặc biệt là khách châu Âu lựa chọn Hà Nội là điểm đến nhiều hơn. Hải Dƣơng: Là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử và văn hiến. Nhiều thế kỷ trôi qua, các giá trị tiêu biểu đó được gìn giữ, bảo lưu qua hệ thống văn hoá vật thể, phi vật thể đặc sắc như di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán v.v. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 1098 di tích được phân bố ở hầu khắp các làng xã. Trong số đó, có 02 di tích là Côn Sơn và Kiếp Bạc được xếp hạng đặc biệt quan trọng của Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 33 quốc gia, 140 di tích xếp hạng quốc gia và 62 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Trước đây, có nhiều di tích bị xuống cấp, đổ nát, hoang tàn. Hiện nay, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của người dân, hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh đã được tu bổ, khôi phục và tôn tạo xứng đáng với tầm vóc của các danh nhân đất nước và các giá trị lịch sử, văn hóa, du lịch vốn có. Điển hình là khu di tích danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc, chùa Thanh Mai, đền Cao An Lạc, đền thờ thầy giáo Chu Văn An … ở Chí Linh; khu di tích danh thắng An Phụ ở Kinh Môn; cụm di tích thờ danh y Tuệ Tĩnh và Văn miếu Mao Điền ở Cẩm Giàng, đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang... Hàng năm, các di tích trên địa bàn tỉnh đã đón hàng chục vạn du khách thập phương về tham quan, chiêm bái. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, sự nhiệt tình công đức của nhân dân, hệ thống di tích lịch sử văn hoá của tỉnh Hải Dương (tiêu biểu nhất là khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc) đang được bảo tồn và phát huy tác dụng nhiều mặt, đặc biệt là giá trị đối với du lịch văn hóa tâm linh. Hƣng Yên: Lịch sử phát triển và sự giao thoa của các nền văn hoá nơi đây đã để lại cho Hưng Yên một kho tàng di sản hết sức có giá trị cho việc phát triển du lịch với trên 2000 di tích, trong đó có nhiều di tích được xây dựng từ thời Lý, Trần, đến nay nhiều di tích còn mang giá trị nguyên gốc độc đáo và hơn 500 lễ hội được tổ chức hằng năm, Hưng Yên cũng là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ có tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh rất dồi dào. Nổi bật là cụm di tích Phố Hiến (thành phố Hưng Yên) với Văn miếu, chùa Hiến, chùa Chuông, đền Trần, đền Mẫu… Quần thể kiến trúc nghệ thuật độc đáo với 128 di tích, trong đó có 17 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia với gần 100 bia ký, trên 11.200 hiện vật trong đó có 6.022 hiện vật có giá trị về lịch sử. Điều đặc biệt là các di tích phân bố ở khắp các phường, xã… tạo thành một quần thể di tích với nền kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Nhiều di tích lịch sử văn hoá trong quần thể di tích Phố Hiến còn bảo tồn, lưu giữ được tính nguyên gốc từ nghệ thuật kiến trúc, hoạ tiết, hoa văn đến đồ thờ tự. Các di tích đã được xếp hạng Quốc gia thể hiện đầy đủ các triều đại từ Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn. Trong mỗi triều đại đều để lại những Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 34 công trình văn hoá, kiến trúc mang dấu ấn độc đáo của thời đó như: đền Mây (thời Đinh), chùa Hiến (Thời Lý), đền Tân La, đền Kim Đằng (thời Lê), đền Thiên Hậu (thời Hậu Lê), đền Trần, đền Mẫu (thời Nguyễn)… Cụm di tích văn hoá, lịch sử, tâm linh Phố Hiến nổi bật là phong cách kiến trúc Việt Nam và phong cách kiến trúc Trung Hoa. Tại Phố Hiến hiện có tới 60 di tích lịch sử văn hoá… Những kiến trúc tôn giáo của người Việt gồm nhiều loại hình như: đền, chùa, đình, miếu… Trong đó có thể kể đến những công trình nổi tiếng như đền Trần thờ tướng quân Trần Hưng Đạo, đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át, chùa Chuông, chùa Hiến… Người Hoa sinh sống ở Phố Hiến cũng đã để lại nhiều công trình kiến trúc tôn giáo như Võ Miếu, Đền Mẫu… Quần thể di tích lịch sử đa dạng đã tạo nên hệ thống các lễ hội dân gian truyền thống phong phú. Mỗi lễ hội đều có bản sắc riêng gắn với tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân bản địa. Cũng như nhiều mền quê Bắc bộ khác, ở nhiều địa phương hiện còn lưu giữ được một số loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống độc đáo như: múa lân, múa rồng, múa tứ linh và những làn điệu dân ca có giá trị như: ca trù, hát trống quân, hát xẩm, hát chèo… Không chỉ nơi lư giữ một kho tang văn hóa quý hiếm mà Hưng Yên còn là điểm đến của loại hình du lịch tâm linh. Nam Ðịnh: Là vùng đất phát tích của vương triều Trần, một trong những triều đại hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 1.655 di tích lịch sử văn hóa, trong đó hơn 200 di tích đã được Nhà nước xếp hạng. Quần thể di tích này mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc và là nguồn tài nguyên du lịch tâm linh hấp dẫn, thu hút đông du khách. Trong đó nổi bật nhất là quần thể di tích văn hóa thời nhà Trần khá đa dạng và có sức lôi cuốn với du khách như: Phủ Dày, Chùa Cổ Lễ, Chùa Keo Hành Thiện, Cầu Ngói Chùa Lương,... Từng là nơi gia tộc nhà Trần chọn làm nơi cư trú, dấy nghiệp với làng Tức Mặc nổi tiếng là ngôi làng chỉ có một họ Trần, quê hương của các vua Trần, trên mảnh đất Nam Ðịnh đâu đâu cũng mang đậm dấu ấn văn hóa của triều đại này. Ngoài quần thể di tích văn hóa nhà Trần tập trung tại khu vực thành phố Nam Ðịnh và huyện Mỹ Lộc còn có hàng trăm Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 35 di tích gồm đền, phủ, chùa miếu, lăng với các kiểu dáng kiến trúc đa dạng có liên quan đến tục thờ Ðức thánh Trần và các vua quan, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Một số di tích tiêu biểu của văn hóa thời nhà Trần tại Nam Ðịnh có khả năng khai thác, phát huy giá trị phục vụ phát triển du lịch, trước hết phải kể đến Khu di tích lịch sử văn hóa triều Trần trải rộng trên phạm vi các phường Lộc Vượng, Lộc Hạ (thành phố Nam Ðịnh) và một số xã Mỹ Thành, Mỹ Phúc, Mỹ Trung của huyện Mỹ Lộc bao gồm 45 di tích gắn với lịch sử vương Triều Trần. Các di tích: Ðền Trần, Chùa Tháp, Ðền Bảo Lộc, Ðền Cao Ðài... có giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Tại đây còn lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật lịch sử về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Ðại Việt thế kỷ 13. Xưa kia, nơi đây vốn là hành cung Thiên Trường từng được ví như kinh đô thứ hai thời Trần với các cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa (nơi dành cho các Thái Thượng Hoàng và các Vua đương triều ngự), cung Ðệ Nhất, Ðệ Nhị, Ðệ Tam, Ðệ Tứ (dành cho các Thái Hoàng thái hậu, các phi tần tôn nữ ở). Ngoài những di sản văn hóa vật thể, Nam Ðịnh còn có vốn văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, lễ hội khá phong phú mang đậm bản sắc nền văn minh lúa nước sông Hồng, là nền tảng cho việc hình thành những sản phẩm du lịch văn hóa phi vật thể, với khoảng 100 lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm tại các địa phương, trong đó có 58 lễ hội xuân và 42 lễ hội tổ chức vào dịp thu, đông. Việc tổ chức tốt các lễ hội có quy mô về không gian về thời gian như: Lễ hội Phủ Dày, Lễ hội Ðền Trần, Lễ Khai ấn đầu năm, Hội chợ Viềng mùa xuân... tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành khai thác phục vụ khách du lịch. Bắc Ninh: Được coi là nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, Bắc Ninh là một trong những vùng có nhiều di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt là các cơ sở tín ngưỡng, thờ tự của Phật giáo. Đáng kể đến, đó là thành cổ Luy Lâu, chùa Dâu, đình Đình Bảng, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Tam Sơn đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ, đền Đô, lăng các vua Lý, chùa Cổ Pháp chùa Dương Lôi, đến Lý Triều Thánh mẫu, đình Dương Lôi thờ tám vua Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 36 Lý, chùa Tiêu Sơn với toà nhà tổ thờ Quốc sư Vạn Hạnh… Không những là quê hương của chùa tháp, Bắc Ninh còn là vương quốc của lễ hội với nhiều loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian đặc sắc, tiêu biểu là Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Hầu như làng quê nào cũng có lễ hội. Hội được mở ra quanh năm, nhưng đậm đặc nhất là vào ba tháng xuân. Nhiều lễ hội lớn, thu hút nhiều quý khách trong vùng, trong nước và nước ngoài tới dự bởi sự đông vui náo nhiệt với nhiều hoạt động tâm linh và nghệ thuật dân gian đặc sắc, như lễ hội xem hoa mẫu đơn chùa Phật Tích, hội rước pháo Đồng Kỵ, hội kỷ niệm các vua Lý ở đền Đô, hội Dâu với trò “rước tứ Pháp”, hội chen làng Nga Hoàng, hội chạ “Tứ Yên” với tục kéo dây lấy lửa, hội rước nước ở đền Phả Lại v.v …Sầm uất và hấp dẫn nhất là lễ hội vùng Quan họ như hội Lim, hội làng Diềm, hội Hoà Đình, hội Ó, hội Bồ Sơn.v..v..với nhiều nghi thức rước sách, tế lễ uy nghiêm, cùng nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ dân gian phong phú, độc đáo, đặc biệt là sinh hoạt văn hoá giao lưu và ca hát Quan họ. Dó chính là tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa tâm linh ở nơi đây. Ninh Bình: Là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch văn hóa vì đây từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, nơi phát tích ba triều đại Đinh - Lê - Lý mà bằng chứng để lại là hàng loạt các đền chùa, đình đài, di tích lịch sử. Ninh Bình có rất nhiều điểm du lịch văn háo tâm linh rất nổi tiếng như: Khu di tích lịch sử văn hoá Cố đô Hoa Lư được công nhận là di tích đặc biệt quan trọng quốc gia với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ Vua Đinh, đền thờ và lăng mộ Vua Lê Đại Hành, nhà bia tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ, đền thờ Công chúa Phất Kim, miếu thờ Công chúa Phù Dung, đền thờ trần Quý Minh, phủ Khống, phủ Đột, động Hoa Sơn, động Hoa Lư, bia Câu Dền, sông Sào Khê, đền Vực Vông, phủ Đông Vương, phủ Vườn Thiên,v.v. Khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánh Nguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ Thần Cao Sơn…) và khu chùa Bái Đính mới với 5 toà lớn hội tụ nhiều kỷ lục Việt Nam dọc theo sườn núi. Ngoài ra còn có cụm Di tích tâm linh nho giáo: chùa Bích Động, chùa Nhất Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 37 Trụ, chùa Đồng Đắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Ngần Xuyên, chùa Non Nước v.v. Đặc biệt, Ninh Bình nổi tiếng với quần thể nhà thờ Phát Diệm với 9 nhà thờ có kiến trúc độc đáo kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, được đánh giá là nhà thờ độc đáo vá đẹp nhất Việt Nam, là kỳ quan Thiên Chúa giáo hấp dẫn nhiều du khách trong và ngoài nước. Vĩnh Phúc: Vĩnh Phúc còn có nhiều tiềm năng du lịch tâm linh chứa đựng tính nhân văn, cả văn hoá vật thể và phi vật thể với hàng nghìn di tích lịch sử văn hoá, căn cứ địa cách mạng. Theo thống kê của Sở Văn hoá - Thông tin hiện nay, toàn tỉnh có 967 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 92 di tích được xếp hạng quốc gia, 208 di tích được tỉnh xếp hạng. Đến Vĩnh Phúc, không thể không biết đến Đền thờ Hai Bà Trưng, khu danh thắng Tây Thiên thờ quốc mẫu Năng Thị Tiêu, khu du lịch tâm linh Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Tháp cổ Bình Sơn... Đặc biệt là Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, một trong 3 thiền viện tầm cỡ lớn nhất của Việt Nam, thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, được xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Thiền viện có diện tích rộng 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha là một công trình mang tầm cỡ quốc gia đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành cuối năm 2005, mỗi năm có hàng ngàn phật tử, du khách trong và ngoài nước hành hương về “cội nguồn Phật giáo Việt Nam” này để thắp hương khấn phật và thưởng ngoạn cảnh đẹp rừng núi Tây Thiên hơn là tìm lại chính mình. Hà Nam: Hà Nam hiện có 1269 di tích các loại: di tích khảo cổ, lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật và các danh lam thắng cảnh. Là một tỉnh nhỏ, tài nguyên du lịch tâm linh ở Hà Nam không phong phú như các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ khác nhưng Hà Nam lại giáp với nhiều tỉnh có tiềm năng du lịch lớn như Hà nội, Ninh Bình, Nam Định,… Hiện Hà Nam có các di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu như Đền Trần Thương, đình Văn Xá, đình Thọ Chương, Chùa Long Đọi Sơn, đền Lảnh Giang, đình Lũng Xuyên, Chùa bà Đanh, đền Trúc, đền Bà Lê Chân, Chùa Châu, Chùa Tiên, khu di tích Đinh Lê, khu văn hoá Liễu Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 38 Đôi, Nhà từ đường Nguyễn Khuyến, đình Cổ Viễn, đình Bồ Đề (Bình Lục)… Đặc biệt ở đât có một số lễ hội nổi tiếng như lễ tịch Điền ở làng Đọi Sơn, lễ đền Trần Thương Thái Bình: Theo thống kê, toàn tỉnh có 2.164 di tích, trong đó có 386 di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh và 91 di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Các di tích được phân bố tương đối tập trung và hình thành một số cụm thuận lợi cho phát triển du lịch, như cụm di tích trên địa bàn Thành phố Thái Bình và khu vực phụ cận; cụm di tích Đền Đồng Bằng trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ; cụm di tích Đền thờ các vua Trần huyện Hưng Hà; cụm di tích Chùa Keo (Vũ Thư)... Chỉ tính trên địa bàn huyện Hưng Hà - mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi phát tích hưng nghiệp nhà Trần hiện còn lưu giữ bảo tồn được 552 di tích, trong đó có 22 di tích được xếp hạng quốc gia, 60 di tích xếp hạng cấp tỉnh gắn liền với hàng trăm lễ hội văn hoá có quy mô khác nhau, trong đó có hai lễ hội có phạm vi lớn được cả nước biết đến là lễ hội Đền Tiên La và lễ hội Đền Trần. Là mảnh đất địa linh nhân kiệt anh hùng, trải qua chiều dài lịch sử dựng và giữ nước, Thái Bình còn gắn liền với những cái tên danh nhân lịch sử văn hóa, anh hùng kháng chiến như Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục Nương; Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung; Tướng quân Trần Thủ Độ; Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm; Nhà bác học Lê Quý Đôn; Tướng quân Trần Lãm; Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ; ông tổ nghề dệt Phạm Đôn Lễ; nhà cách mạng Nguyễn Đức Cảnh v.v.. mà hiện nhiều di tích thờ cúng nổi tiếng linh thiêng, đang thu hút du khách trong và ngoài nước về thăm viếng, là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Hải Phòng: Là thành phố hiện còn lưu giữ được gần 1000 di tích, nổi bật trong đó là Đền Nghè thờ nữ tướng Lê Chân, người có công lập lên trang ấp đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển của thành phố sau này, bà cũng là người đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứu nhất chống quân xâm lược nhà Đông Hán. Đình Hàng Kênh thờ anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Ngoài ra Hải Phòng còn có một số lễ hội nổi tiếng như hội Chọi trâu (Đồ Sơn). Đây không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn háo, là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín Khóa luận tốt nghiệp SV: Trần Thị Thêu – VHL201 39 ngưỡng của nhân dân địa phương mà còn là những địa chỉ du lịch tâm linh phục vụ nhu cầu của đông đảo du khách. Qua khảo sát cụ thể hệ thống đình chùa, đền, miếu, nhà thờ và các lễ hội ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, ta nhận thấy, đồng bằng Bắc bộ là một vùng rất giàu tiềm năng để phát triển loại hình du lịch tâm linh. Bà Nguyễn Thanh Hương, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường, Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nhận định, bên cạnh tài nguyên thiên nhiên, du lịch tâm linh gắn với nhiều di tích lịch sử, sự phát triển của Phật giáo cùng các tôn giáo, tín ngưỡng khác như: đền Đinh, đền Lê, Côn Sơn - Kiếp Bạc, chùa Dâu, chùa Keo, Phủ Giầy… và những di sản văn hóa phi vật thể như múa rối, chèo, quan họ… sẽ là sản phẩm du lịch chính của vùng Đồng bằng Sông Hồng. Nhận định về tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh của vùng Đồng bằng sông Hồng, Ông Lê Văn Minh, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch cũng cho rằng, tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh của vùng Đồng bằng sông Hồng rất to lớn bởi đây là nơi chứa đựng rất nhiều các di tích văn hóa lịch sử, các bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc cho phép phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Thêm vào đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có các trung tâm đô thị lớn (gồm Hà Nội, Hải Phòng) có các cửa khẩu quốc tế quan trọng về đường hàng không và đường thủy (như: sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi, cảng Hải Phòng...). Đây là những cửa ngõ quan trọng để thông thương với quốc tế và đón nhận khách du lịch. 2.2.2. Thực trạng 2.2.2.1. Mặt được Du lịch tín ngưỡng là một hình thức du lịch phát triển rất mạnh ở nhiều quốc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNghiên cứu tôn giáo ở đồng bằng Bắc bộ - Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch.pdf
Tài liệu liên quan