Khóa luận Phát triển ngành dịch vụ - Kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam

 

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGÀNH DỊCH VỤ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỊCH VỤ 4

1.1. Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ 4

1.2. Các loại hình dịch vụ 6

1.3.Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển

ngành dịch vụ 8

1.4.Vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại 11

CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ Ở TRUNG QUỐC – BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VƠI VIỆT NAM 18

2.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH - tiền đề phát triển

ngành dịch vụ hiện đại ở Trung Quốc 18

2.2.Chính sách và biện pháp phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc 21

2.3.Những thành tựu và những tồn tại trong phát triển lĩnh vực dịch vụ

ở TrungQuốc 25

2.4.Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ ở Trung Quốc 31

CHƯƠNG 3: PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM 35

3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ ở Việt Nam 35

3.2.Thời cơ và thách thức khi phát triển ngành dịch vụ trong nền kinh tế

hiện đại 39

3.3. Những nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành và

mở cửa lĩnh vực dịch vụ 49

CHƯƠNG 4.MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC DỊCH VỤ

Ở VIỆT NAM 57

4.1. Xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 58

4.2. Tiếp tục thực hiện công cuộc CNH, HĐH đất nước 60

4.3. Giảm tối đa tình trạng tham nhũng 61

4.4. Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh

của lĩnh vực dịch vụ 61

4.5.Hoàn chỉnh khung pháp lý trong lĩnh vực dịch vụ 63

4.6. Cải cách DNNN đặc biệt là các DNNN kinh doanh dịch vụ 64

4.7. Phát triển những lĩnh vực dịch vụ cơ sở hạ tầng then chốt 66

KẾT LUẬN 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

 

 

 

 

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển ngành dịch vụ - Kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Trung Quốc vẫn còn không ít những tồn tại đối với các ngành nghề dịch vụ: -Những thách thức về thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh Ngành dịch vụ của Trung Quốc, chủ yếu là tài chính, bảo hiểm, viễn thông, ngoại thương, văn hoá, giáo dục và y tế trong một thời gian dài trước đây do chính phủ độc quyền cung cấp, không có cơ chế và thể chế thị trường. Hơn 20 năm thực hiện cải cách, cho đến nay, cải cách trong những ngành này diễn ra chậm chạm, gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế. Vì vậy, hiện nay vẫn không có thể chế và cơ chế thị trường theo đúng nghĩa. Trong khi đó, WTO lại yêu cầu thể chế thị trường và cơ chế thị trường, các nước phát triển phương Tây đều có cơ chế và thể chế thị trường hoàn thiện. Tình hình này tạo nên sự chênh lệch lớn đối với hiện thực Trung Quốc. -Những thách thức đối với hệ thống và năng lực giám sát quản lý vĩ mô của nhà nước. Trật tự thị trường hiện nay tương đối hỗn loạn, còn nhiều hàng nhái, hàng kém chất lượng trên thị trường, trật tự tài chính cũng có vô vàn vấn đề, tỷ lệ tài sản xấu tương đối cao, độ tin cậy giảm, con số thua lỗ và tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp quốc doanh đã một thời gian giảm xuống, nhưng gần đây lại tăng lên; những vấn đề như sản xuất, xây dựng chồng chéo mặc dù đã giải quyết nhiều lần nhưng vẫn đang phát triển và lan tràn. Điều này làm tăng những khó khăn cho Trung Quốc trong điều tiết vĩ mô, cũng là thách thức mới đối với năng lực điều tiết vĩ mô. -Thách thức trong việc giành lấy nhân tài quản lý cao cấp. Cạnh tranh con người là cạnh tranh cơ bản nhất trong các cuộc cạnh tranh. Trung Quốc vốn thiếu những chuyên gia tổng hợp cao nhất, nhất là những chuyên gia tài năng trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, viễn thông. Sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc đều thực hiện chiến lược nhân tài tại chỗ, tuyển dụng những chuyên gia cao cấp của nước tiếp nhận đầu tư với đãi ngộ cao. Như vậy, chắc chắn sẽ nổ ra cuộc tranh giành chuyên gia tài năng. Hiện nay, các doanh nghiệp Trung Quốc khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về mức đãi ngộ, chắc chắn sẽ bị mất đi một số nhân tài ưu tú. -Thách thức trong việc tranh giành thị trường và tranh giành khách hàng có tiềm năng. Hiện nay, ngành ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm của Trung Quốc hầu hết đều thực hiện kinh doanh phân ngành, quản lý phân ngành, chủng loại nghiệp vụ đơn điệu, năng lực cung cấp dịch vụ tổng hợp cho xã hội và khách hàng kém. Còn trên thế giới hầu hết đều thực hiện kinh doanh liên ngành, ngân hàng đã tham gia vào bảo hiểm, chứng khoán, thậm chí cả những ngành phi tài chính, trở thành “siêu thị tài chính”, có chức năng dịch vụ và chức năng sáng tạo mạnh mẽ. Như vậy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, nghiệp vụ kinh doanh đồng Nhân dân tệ được mở rộng, rất có thể một bộ phận khách hàng có tiềm năng sẽ chuyển sang ngân hàng, bảo hiểm và các ngành có vốn đầu tư nước ngoài khác. Khách hàng có tiềm năng và chuyên gia cao cấp thường có mối liên hệ về mặt kinh doanh. Chuyên gia cao cấp chạy sang các công ty nước ngoài cũng có thể kéo theo một bộ phận khách hàng. Vì vậy, cuộc đấu tranh giành giật thị trường sẽ tương đối phức tạp. Nhằm khắc phục những khó khăn, đương đầu với những thách thức mới trong phát triển lĩnh vực dịch vụ, Trung Quốc đang thực hiện một số điều chỉnh trong thời gian tới. -Mở cửa hơn nữa ngành dịch vụ cho phép thương gia nước ngoài đầu tư vào các dịch vụ như thông tin, tiền tệ, bảo hiểm, thương mại, du lịch, văn hoá. Từ khi Trung Quốc mở cửa lĩnh vực này, những ngành độc quyền từng bước mở cửa cho nước ngoài, xuất hiện một loạt các doanh nghiệp liên doanh, thậm chí doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nhưng việc xoá bỏ độc quyền, mở cửa trong nước vẫn còn diễn ra chậm chạp, thậm chí còn quá ít, không tạo được môi trường cạnh tranh. Việc mở cửa thông thoáng và sâu rộng khắc phục sự lạc hậu của mở cửa trong nước, xoá bỏ dần độc quyền sẽ làm cho ngành dịch vụ của Trung Quốc phát triển nhanh chóng. -Sắp xếp lại nguồn tài nguyên, nâng cao hiệu quả kinh tế và tỉ lệ ngành dịch vụ chiếm trong GDP. Theo ước tính của tổ chuyên đề Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện, việc gia nhập WTO khiến cho tỷ lệ tăng trưởng bình quân từ năm 1998 đến năm 2010 tăng lên khoảng 1%, tỷ lệ thu lợi nhuận do tự do hoá mậu dịch nông nghiệp đem lại ước tính chiếm 2/3 tổng mức lợi nhuận, do vậy mức độ phát triển ngành dịch vụ cũng tăng lên tương ứng trong GDP. -Điều chỉnh cơ cấu ngành nghề trong nước, mở rộng không gian cho ngành dịch vụ phát triển. Theo thống kê, từ năm 1998 đến năm 2010 có khoảng 9,6 triệu sức lao động nông nghiệp chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ, ngành dệt và may mặc có thể tăng thêm 5,4 triệu cơ hội việc làm. Điều này làm cho sức lao động của Trung Quốc chuyển dịch từ ngành nông nghiệp chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện cho ngành dịch vụ phát triển. -Đi sâu cải cách thể chế, nhanh chóng hình thành thể chế thị trường và cơ chế thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh bằng chế độ. -Chế định và sửa đổi pháp luật, pháp quy và chính sách của ngành dịch vụ và kinh doanh dịch vụ quốc tế. Do các ngành dịch vụ Trung Quốc còn lạc hậu so với các nước phát triển, các bộ ngành, các doanh nghiệp cần được bảo hộ thích đáng chủ yếu bằng pháp luật, pháp quy và chính sách của nhà nước. Để đáp ứng được yêu cầu mở rộng độ mở cửa của ngành dịch vụ và kinh doanh dịch vụ quốc tế, đòi hỏi Trung Quốc phải nhanh chóng sửa đổi những pháp luật pháp quy đã lỗi thời và chế định lại những pháp luật pháp quy mới, đưa sự vận hành của ngành dịch vụ đi vào quỹ đạo của đất nước theo pháp luật. Pháp quy của ngành dịch vụ và kinh doanh dịch vụ Trung Quốc vừa phải phù hợp với quy tắc của WTO, vừa phải bảo hộ đúng những ngành nghề non trẻ của đất nước. 2.4.Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ ở Trung Quốc Từ những phân tích trên về quá trình phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau; -Phát triển dịch vụ phải dựa trên nền tảng phát triển hợp lý của các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Quá trình phát triển dịch vụ có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình CNH, HĐH. Chính quan hệ chặt chẽ giữa các ngành đã tạo nên nền tảng cho mối liên hệ tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc với phát triển dịch vụ chất lượng cao ở Trung Quốc. Sự phát triển mang tính giai đoạn của cơ cấu kinh tế là quy luật khách quan mà được áp dụng một cách chặt chẽ ở Trung Quốc. ở thập kỷ 80, công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng phát triển trước. Sau đó là sự phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, gia công lắp ráp được đẩy mạnh (từ năm 1985) và phát triển công nghiệp nặng thời kỳ 1995-2000, và kế đến là các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông,… Hiện nay, cơ cấu ngành của Trung Quốc đang ở vào giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh CNH. Trong thời gian từ kế hoạch 5 năm lần thứ 9 đến năm 2010, nhu cầu của xã hội đối với những sản phẩm vật chất doanh nghiệp có xu thế tăng lên, ngành công nghiệp và ngành xây dựng sẽ là động lực chủ yếu trong sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc. Dưới sự tác động của Cách mạng khoa học công nghệ mới trên phạm vi toàn cầu, việc hiện đại hoá ngành công nghiệp của Trung Quốc sẽ được thúc đẩy cùng với ngành nghề hoá nông nghiệp và xã hội hoá dịch vụ và thông tin hoá nền kinh tế quốc dân, đặt cơ sở kỹ thuật và kinh tế ngành vững chắc cho sự nghiệp xây dựng HĐH XHCN mang đặc sắc Trung Quốc. -áp dụng các mức độ mở cửa khác nhau với các loại hình dịch vụ khác nhau Mở cửa, cải cách kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài khiến ngành dịch vụ của Trung Quốc trở thành ngành phát triển với tốc độ nhanh nhất, có sức sống nhất trong những năm đầu thế kỷ 21. Trong đó ngành du lịch, ngành thông tin bưu điện, giao thông vận tải, bảo hiểm tiền tệ, văn hoá nghệ thuật, dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân, ngành dịch vụ kỹ thuật tổng hợp,… phát triển một cách mạnh mẽ. Việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ là cần thiết tuy nhiên cần có những chính sách khác nhau trong các loại hình khác nhau trong ngành dịch vụ cũng như xây dựng lộ trình mở cửa là việc làm vô cùng quan trọng. Theo thống kê của WTO, dịch vụ quốc tế bao gồm hơn 155 phân ngành nhỏ với 12 phân ngành lớn. Những lĩnh vực này có vai trò và địa vị khác nhau trong đó có một số lĩnh vực như tài chính và viễn thông liên quan đến an ninh kinh tế và an ninh thông tin của nhà nước, có những lĩnh vực như pháp luật liên quan đến chủ quyền quốc gia, và một số lĩnh vực dịch vụ tầm quan trọng thấp hơn. Vì vậy, mức độ mở cửa trong các lĩnh vực này không giống nhau. Ngay ở Mỹ được coi là nước phát triển tự do nhất, mở cửa nhất, cũng có một số lĩnh vực không mở cửa, hoặc đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc mở cửa. Để thích ứng với môi trường quốc tế, xét về mức độ mở cửa, Trung Quốc chia các lĩnh vực trong ngành dịch vụ ra thành ba loại lớn là mở cửa hoàn toàn, không mở cửa và mở cửa một nửa. Lĩnh vực mở cửa hoàn toàn hoặc tự do ở đây là những ngành không đưa ra những hạn chế đặc biệt trong điều kiện tuân thủ theo pháp luật và chính sách của Trung Quốc và nộp thuế theo quy định của pháp luật, như : sửa chữa ô tô, chụp ảnh sinh hoạt, thẩm mỹ viện… Lĩnh vực không mở cửa hay không tự do có nghĩa là từ chối mở cửa trong mọi điều kiện, như: pháp luật cơ cở, báo chí,… Lĩnh vực mở cửa một nửa hay nửa tự do là chỉ sự mở cửa nhưng có những hạn chế có tính chất đặc biệt. Hạn chế ở phương diện này bao gồm: hạ chế về khu vực, về khách hàng, về thời gian, về hình thức doanh nghiệp và về tỷ lệ cổ phần. Việc phân chia như trên và áp dụng những biện pháp khác nhau đối với các lĩnh vực trong ngành dịch vụ là nhằm đảm bảo tiến trình mở cửa có trật tự. -Phát triển dịch vụ phải dựa trên nội lực kinh tế trong nước vững mạnh kết hợp với thu hút nguồn nhân lực công nghệ cao Là một nước lớn, có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đông dân nhất thế giới hơn 1,2 tỷ người cùng 60 triệu ngoài Hoa và Hoa kiều sống ở nhiều nơi trên thế giới là nguồn nội lực vững chắc để phát triển các ngành dịch vụ thâm dụng trí thức. Ngoài ra, cho đến đầu thập kỷ 80, trước khi bắt đầu công cuộc cải cách, Trung Quốc đã có 30 năm thực hiện mô hình CNH theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung và tính cho đến hiện tại có hơn 25 phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển “chuyển thành nước CNH có tỷ lệ dân phi nông nghiệp, có nền công nghiệp hiện đại và ngành dịch vụ hiện đại”. Đặc biệt, trong quá trình mở cửa, người Hoa và Hoa Kiều đã có những đóng góp to lớn trong việc đưa vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý vào Trung Quốc. Người Hoa Kiều trên thế giới đang trải qua một thời gian dài cần cù lao động, từ chỗ chủ yếu là làm lao động và thương nghiệp, dần chuyển sang doanh nghiệp hoá, đa nguyên hoá và quốc tế hoá, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau hình thành một mạng lưới gọi là “kinh doanh mạng”. Đa số người Hoa và Hoa kiều có lòng yêu nước, có mối quan hệ chặt chẽ với quê hương. Vì vậy khi chính phủ Trung Quốc kêu gọi Hoa kiều đóng góp công sức xây dựng, phát triển đất nước, họ hưởng ứng nhiệt tình. Đây là nhân tố quan trọng trong quá trình thực hiện CNH đất nước, tăng trưởng kinh tế theo hướng hiện đại hoá lĩnh vực dịch vụ. -Ngành dịch vụ hiện đại phải được thực hiện trên nền tảng cơ chế thị trường và bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả. Trong những năm qua, với những nỗ lực không ngừng, Trung Quốc luôn cố gắng đi sâu vào cải cách thể chế, tạo lập thể chế thị trường và cơ chế thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh bằng chế độ. Cải cách chế độ quyền sở hữu trong lĩnh vực dịch vụ được chú ý. Thực hiện rộng rãi chế độ cổ phần và chế độ công ty hiện đại, đa nguyên hoá chủ thể và chế độ công ry hiện đại, đa nguyên hoá chủ thể quyền sở hữu, thu hút vốn nước ngoài tham gia vào liên doanh, coi trọng việc thu hút vốn từ Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao, vốn của tư nhân vào những ngành này, khuyến khích các doanh nghiệp lớn trong ngành sản xuất nông nghiệp và công nghiệp trong nước sở hữu cổ phần trong lĩnh vực thuộc ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, ngoại thương, tạo ra cục diện mới là nắm giữ chéo cổ phiếu, thâm nhập vào nhau, ràng buộc lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau, phá vỡ hoàn toàn sự độc quyền của nhà nước trong những ngành này. Phát triển ngành dịch vụ hiện đại phải luôn luôn gắn với thị trường hiện đại bởi sự ra đời của ngành dịch vụ hiện đại xuất phát từ yêu cầu của thị trường và nhờ có sự sôi động của những ngành dịch vụ mà kinh tế thị trường mới hoạt động hiệu quả. -Phát triển dịch vụ trong bối cảnh mới phải linh hoạt và phù hợp với bối cảnh quốc tế. Việc phát triển và hiện đại hoá ngành dịch vụ phải chú ý đến vấn đề lợi thế so sánh và tiềm năng kinh tế. Trong thời gian đầu, Trung Quốc tận dụng lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên lao động nhằm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các ngành dịch vụ. Sau đó, với những chính sách thích hợp nhằm phát triển những ngành dịch vụ khoa học công nghệ kỹ thuật cao, đi từ thử nghiệm và nhập khẩu công nghệ tiến đến hướng về xuất khẩu phát triển công nghệ cao, tận dụng nguồn đầu tư nước ngoài phát triển các ngành công nghiệp, cùng với sự kiểm soát chặt chẽ để vừa tăng năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp mà không bị phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. chương 3 thực trạng ngành dịch vụ ở Việt Nam 3.1.Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ ở Việt Nam 3.1.1.Tốc độ tự do hoá và mở cửa của nền kinh tế Đây là động lực quan trọng thúc đẩy CDCCKT ngành dịch vụ vì những lí do sau: Thứ nhất, quá trình tự do hoá và mở cửa của nền kinh tế tạo nên nhiều loại và ngành nghề dịch vụ mới, phong phú đa dạng và phù hợp với cơ chế thị trường và trình độ phát triển cao hơn như các dịch vụ Tài chính, Bảo hiểm, cho thuê Tài chính, cầm cố thế chấp, trả góp, các loại hình viễn thông mới như điện thoại di động, Internet, truyền hình vệ tinh, truyền hình kỹ thuật số, dịch vụ tư vấn đầu tư, pháp lý, kiểm toán, môi giới nhà đất,…Trong số những dịch vụ này, có những loại dịch vụ vốn rất hạn chế trước đây thì phát triển với tốc độ chóng mặt kể từ thập niên 1990 như viễn thông, Internet, môi giới, kinh doanh tài sản, kiểm toán, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Có dịch vụ chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường như bảo hiểm, cho thuê tài chính, tư vấn đầu tư, kiểm toán. dịch vụ xuất hiện trong nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao hơn và đời sống nhân dân được cải thiện như hệ thống truyền hình quốc tế và dịch vụ điện thoại di động. Thứ hai, quá trình tự do hoá và mở cửa nền kinh tế nâng cao hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của ngành dịch vụ. Việc xóa bỏ độc quyền nhà nước tạo điều kiện cho phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong nhiều lĩnh vực dịch vụ, tạo sự tham gia đông đảo của nhiều nhà cung cấp dịch vụ thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong những lĩnh vực được tự do hoá, giúp những lĩnh vực đó phát triển. Điều này cũng có nghĩa là gia tăng cạnh tranh trên thị trường cung cấp làm giảm giá thành, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các lĩnh vực dịch vụ. Ví dụ như việc xoá độc quyền nhà nước trong lĩnh vực thương mại khiến lĩnh vực này phát triển nhanh giúp cho việc phân phối hàng hoá đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và thuận lợi, tốt hơn, nhiều hơn, đa dạng hơn, đặc biệt tại các khu vực nông thôn hoặc những vùng xa xôi hẻo lánh. Quá trình tự do hoá và mở cửa nền kinh tế giúp những lĩnh vực dịch vụ mới xuất hiện góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế dịch vụ theo hướng hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường. Có được vậy vì nó giải phóng sức sản xuất của ngành dịch vụ qua 2 kênh chính là: -Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát huy sức sáng tạo để tạo ra nhiều lĩnh vực dịch vụ mới: +Việc du nhập các loại hình dịch vụ mới từ bên ngoài qua làn sóng FDI khi mở cửa lĩnh vực dịch vụ như kiểm toán, tư vấn, cho thuê tài chính… +Sáng tạo ra các loại hình dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc biệt xoá bỏ kiểm soát của nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ đã giải phóng sức sáng tạo cho nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. Nhờ vậy, nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời như môi giới nhà đất trong những năm qua khi người dân có nhu cầu mua bán nhà ở phát triển mạnh hay nghề viết ý tưởng quảng cáo khi các doanh nghiệp có nhu cầu quảng bá thương hiệu của mình. -Tạo điều kiện phát huy giải phóng các nguồn lực để tăng cường đầu tư và hiện đại hoá lĩnh vực dịch vụ. Điển hình nhờ quan hệ hợp tác liên doanh - đầu tư với các công ty nước ngoài, ngành viễn thông trong thời gian qua đã phát triển mạnh mẽ, sử dụng công nghệ hiện đại và ngang tầm thế giới. Trong lĩnh vực này, nước ta chuyển từ chỗ đưa vào sử dụng mạng nhắn tin đầu thập kỷ 1990 đã chuyển sang mạng điện thoại di động, từ chỗ sử dụng công nghệ kỹ thuật đồng bộ cổ điển đã chuyển sang sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Tuy nhiên cho đến nay, khu vực dịch vụ ở Việt Nam vẫn là nơi được bảo hộ và đóng cửa nhiều nhất chủ yếu là các dịch vụ cơ sở hạ tầng như: điện nước, hàng không, điện thoại,… 3.1.2.Trình độ phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế là nhân tố ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành dịch vụ của một nước. Đối với một nước được xếp vào diện nghèo như ở Việt Nam thì mức thu nhập thấp của người dân đã hạ chế nhu cầu sử dụng các loại hình dịch vụ cung cấp khiến chúng khó phát triển mạnh. Chẳng hạn như lĩnh vực hàng không với giá vé máy bay từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh khoảng 2 triệu đồng thì ít người dân đặc biệt người dân nông thôn sử dụng dịch vụ hoặc với người có thu nhập tháp khoảng 1000 USD/ năm (1,2 triệu tháng) thì khó có thể đi chơi xa. Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực dịch vụ. Cơ chế thị trường càng phát triển thì chủng loại thị trường càng phong phú càng tạo điều kiện cho các loại hình dịch vụ mới ra đời và lớn mạnh. Tuy vậy, nền kinh tế thị trường mới hình thành ở Việt Nam chưa phải là môi trường tốt thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ phát triển. Ví dụ như tư vấn đầu tư chứng khoán gắn với thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao và có nhiều người đầu tư. Mức độ và hình thức hoạt động của thị trường chứng khoán hiện nay chưa đạt được điều này. Mặc dù vậy, phát triển kinh tế ở nước ta những năm qua đã nâng cao được mức sống của người dân, từng bước hoàn thiện cơ thế thị trường, phát triển nhu cầu đối với dịch vụ mới, chất lượng cao hơn trong lĩnh vực dịch vụ dân sinh, có những nhu cầu mới xuất hiện như tư vấn du học. Mặt khác, nền kinh tế thị trường ngày một đòi hỏi cao hơn với số lượng và chất lượng ngành dịch vụ. Ví dụ dịch vụ bảo hiểm nhân thọ dành cho những người làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hay dịch vụ kiểm toán để đánh giá chất lượng nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Trình độ thấp ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực dịch vụ nhưng cần được khác phục bằng việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ, tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong nước và các nhà sản xuất nước ngoài, tranh thủ tiếp thu nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới. Một số thị phần dịch vụ trong nước cần được trao cho các công ty nước ngoài đủ năng lực khi các công ty trong nước chưa thể cung cấp được các loại hình dịch vụ này. Yếu tố quyết định chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ hiện đại, hiệu quả, đa dạng là là mở cửa và cải cách kinh tế khi trình độ vẫn còn thấp. 3.1.3.Sự đa dạng hóa của các thành phần kinh tế đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Chính sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân là một trong những nhân tốt chủ chốt thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, các hình thức dịch vụ được tạo ra hết sức đa dạng và phong phú, từ nhu cầu hình thành nên những cung ứng. Tuy vậy, không phải bất cứ dịch vụ nào cũng là đối tượng quan tâm của các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước mà chỉ là các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ hoặc trung bình. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển lĩnh vực dịch vụ tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân còn tồn tại nhiều hạn chế như: -Hạn chế về nguồn lực cho phát triển: đa số các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, bình quân vốn của mỗi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là 1,2 tỷ đồng khiến doanh nghiệp khó khăn khi mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đặc biệt là việc tiếp cận với vốn vay ngân hàng càng khó khăn khiến hiệu quả của hoạt động kinh doanh giảm xuống. -Phá vỡ cơ cấu kinh tế ngành vùng do phân bổ không đều. Tỷ trọng các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ ngày càng tăng trong khi đó tỷ trọng lĩnh vực sản xuất công nghiệp giảm dần. Tỷ trọng các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực dịch vụ gia tăng qua các giai đoạn: như giai đoạn 1991-1996 là 39%, giai đoạn 1997-1998 là 49%, giai đoạn 1999-2000 là 54%. Trong khi đó lĩnh vực công nghiệp thì tỷ trọng lại giảm qua các giai đoạn, giai đoạn 1991-1996 là 35%, giai đoạn 1997-1999 là 22%, giai đoạn 1999-2000 là 15%. Sở dĩ như vậy là do hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít, khả năng huy động vốn thấp. Trong khi đó, lĩnh vực thương mại dịch vụ cần lượng vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao nên đã thu hút được các doanh nghiệp tham gia đầu tư. Tình trạng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không chú trọng đầu tư vào sản xuất làm cho thị trường hàng hoá khan hiếm, gây bất lợi cho người tiêu dùng và cho xã hội nói chung. Việc phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ, trong khi đó dịch vụ phát triển mạnh ở những nơi tập trung đông dân cư, gây mất cân đối giữa các vùng trong quá trình phát triển. Ngoài ra kinh tế tư nhân còn một số yếu kém như khả năng tiếp cận thị trường kém, thiếu ý thức chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh,… Từ một xuất phát điểm thấp với mục tiêu đưa ngành dịch vụ phát triển lên một vị trí mới là thách thức và khó khăn vô cùng to lớn mà Việt Nam buộc phải đương đầu khi thực hiện tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới đang xuất hiện những biến đổi to lớn và sâu sắc nhờ thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới cùng quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hoá các ngành dịch vụ, Việt Nam hoàn toàn có thể đón nhận những cơ hội và những lợi ích để tạo ra những thay đổi trong cục diện nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, nhận thức rõ thực trạng nền kinh tế, tận dụng những thời cơ và đẩy lùi những thách thức là nhiệm vụ trước tiên và tiên quyết mà Việt Nam cần phải thực hiện. 3.2.Thời cơ và thách thức khi phát triển ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại Con đường duy nhất để phát triển ngành dịch vụ Việt Nam và cũng là một yêu cầu bắt buộc khi gia nhập WTO của Việt Nam là phải mở cửa ngành dịch vụ. Trong quá trình hội nhập kinh tế dịch vụ vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã có những nỗ lực nhằm mở cửa lĩnh vực dịch vụ. Trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có hiệu lực vào ngày 10/12/2001, Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết mở cửa 8 ngành dịch vụ sau theo lịch trình mở cửa dần dần và phạm vi kinh doanh có giới hạn và một số lĩnh vực chỉ cho phép liên doanh với đối tác Việt Nam và sử dụng nhân viên Việt Nam . Tại vòng đàm phán thứ 9 về việc gia nhập WTO, Việt Nam đã có bản chào hàng mới cam kết mở cửa khu vực dịch vụ theo lịch trình sớm hơn so với cam kết đặt được so với Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ trước, mở 11 nhóm dịch vụ bao gồm 92 phân ngành nhỏ. Ngày 9/10/2004, Việt Nam và EU chính thức ký kết Hiệp định song phương về Việt Nam gia nhập WTO trong đó Việt Nam mở cửa 8 lĩnh vực dịch vụ cho doanh nghiệp EU. Hiện Việt Nam đang đàm phán với Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và họ yêu cầu mở cửa khu vực dịch vụ theo lịch trình sớm hơn. 3.2.1.Thời cơ khi phát triển ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại Thứ nhất, mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ nhằm tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ một cách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam đặc biệt là cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng tiến bộ của xu thế thương mại quốc tế đảm bảo khai thác tối đa các tiềm năng lợi thế của đất nước, phát triển kinh tế một cách bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, kết hợp với bảo vệ và cải tạo môi trường. Thứ hai, trong khi xu hướng của những năm tới là FDI trên thế giới tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam với tư cách là một nước tiếp nhận FDI, có rất nhiều cơ hội để thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực này. Các dự án ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam có quy mô vốn đăng ký bình quân cao hơn gấp hai lần các dự án trong lĩnh vực sản xuất và cao gấp 4 lần các dự án nông - lâm nghiệp. 67% số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô trên 500 triệu USD là dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ, chủ yếu là dự án xây dựng khu đô thị mới, cao ốc, khách sạn, khu vui chơi, hạ tầng khu công nghiệp. Vốn đầu tư thu hút mới trong khoả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24793.doc
Tài liệu liên quan