Khóa luận Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ

Sau giải phóng miền Nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn chiến tranh và một số năm tiếp sau đó. Nhưng việc duy trì quá lâu một cơ chế bao cấp của Nhà nước như vậy đã nảy sinh mâu thuẫn, rối loạn sâu sắc trong việc phát triển kinh tế đất nước. Với cơ chế tập trung bao cấp, trong một thời gian dài, thị trường nói chung và Thị trường Ngoại hối (TTNH) nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành và phát triển. Cho đến năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các yếu tố thị trường mới được hình thành và phát triển.

 

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1799 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thay thế Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành theo Nghị định số 102/CP ngày 6/7/1963 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi Nghị định 161 ra đời, ngày 15/3/1989, NHNN Việt Nam có Thông tư số 33-NH/TT hướng dẫn thi hành. Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 và Thông tư 33 có thể nêu ra như sau: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Trung ương Việt Nam cho phép”. Như vậy, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của TTNH có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Tuy nhiên, về tỷ giá (yếu tố quan trọng nhất của TTNH) trong giai đoạn này vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của VND và thị trường tự do. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0,5%. Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một TTNH chính thức hoàn chỉnh hơn để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan với quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số 107- NH/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành Quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ (TTGDNT) đã được thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội lần lượt vào tháng 8 và tháng 11/1991. Việc thành lập hai TTGDNT là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của TTNH Việt Nam ngày nay. Thông qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Nếu như trước đó, tỷ giá chính thức VND được NHNN tính toán dựa trên cơ sở kinh tế mang tính chất tĩnh chưa phản ánh quan hệ cung cầu và các yếu tố thị trường khác thì từ khi hai Trung tâm ra đời, tỷ giá chính thức của VND được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch tại hai Trung tâm. Với lý do này, tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về cung cầu ngoại tệ trên TTNH, rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Từ đây, có thể nói TTNH có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do. Sau một thời gian đi vào hoạt động, hai TTGDNT đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, tạo ra phương thức kinh doanh giao dịch mang tính thị trường, góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nhu cầu phát triền kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai TTGDNT đã bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của toàn quốc gia, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra Quyết định số 203/QĐ-NH9 ngày 20/9/1994 về việc thành lập Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng và Quyết định số 203/QĐ-NH13 ngày 20/9/1994 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng (TTNTLNH), đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong quá hình thành và phát triển của TTNH Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế. TTNTLNH ra đời với mục đích nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các NHTM, đồng thời làm cơ sở triển khai TTNH hoàn chỉnh trong tương lai. Mặt khác, thông qua TTNTLNH, NHNN sử dụng Quỹ điều hoà ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện chính sách tỷ giá của quốc gia. Tham gia giao dịch trên TTNTLNH chỉ bao gồm các NHTM được phép kinh doanh ngoại hối và NHNN. Như vậy, NHNN đã không trực tiếp mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế; đồng thời các tổ chức và cá nhân muốn mua bán ngoại tệ phải giao dịch trực tiếp với NHTM, chứ không phải tại TTNTLNH. Để thực hiện các giao dịch trên TTNTLNH một cách nhanh chóng thì NHTM phải có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng tốt với NHNN. 2. Những kết quả đạt được 2.1. Về diễn biến tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá Có thể nói, tỷ giá là nột nhân tố đặc biệt quan trọng kích thích sự phát triển của TTNH. Tỷ giá cũng chính là chỉ số phản ánh trung thực nhất quan hệ cung- cầu về ngoại tệ trên TTNH. Thông qua công cụ tỷ giá, NHNN có thể nắm bắt chính xác tình hình thị trường để từ đó có những can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo hoạt động của TTNH luôn diễn ra ổn định, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán từ đó thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Từ cuối năm 1998 trở về trước, cơ chế điều hành tỷ giá được thực thi là hàng ngày NHNN công bố tỷ giá chính thức, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ chủ động quy định tỷ giá mua bán, trao đổi cụ thể của mình trong biên độ 5%, 7%, 10% so với tỷ giá chính thức của NHNN. Song từ đầu năm 1999, NHNN đã chính thức bỏ cơ chế điều hành tỷ giá theo kiểu bao cấp như trước đây, chuyển sang chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên thị TTNTLN, thay vì công bố tỷ giá chính thức như trước. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với USD không được vượt quá 0,1% so với tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Nhờ bước cải cách có ý nghĩa lớn này, năm 1999, thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, hiện tượng khan hiếm ngoại tệ không xuất hiện, tỷ giá VND/USD trên thị trường phi chính thức và chính thức có giai đoạn trùng nhau. Tuy nhiên, sang đến năm 2000, chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường ngày càng được nới rộng ra. Các NHTM luôn bán USD với giá kịch trần theo NHNN quy định. Khan hiếm ngoại tệ kéo dài. Nguyên nhân dẫn đến thị trường ngoại tệ bất ổn được giải thích là do dư cầu (nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh trong năm) nhưng nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu lại bị doanh nghiệp giữ lại một phần sau khi kết hối nhằm mục đích đầu cơ. Lãi suất huy động tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 khiến công chúng nhận thấy gửi bằng USD vừa có lợi hơn vừa tránh được sự biến động tỷ giá. Chính vì vậy, kiều hối chảy vào Việt Nam không được chuyển sang thành VND. Ngân hàng huy động vốn VND nhưng chưa giải ngân hết, do đó nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi này được các ngân hàng mua ngoại tệ đầu cơ. Đây chính là thực tế diễn ra phổ biến mà dường như NHNN không thể tìm ra phương cách hữu hiệu để ứng phó. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khi quyết định 289/2000/QĐ-NHNN7 điều chỉnh biên độ dao động tối đa của kỳ hạn một tháng so với tác động giao ngay từ 0,58% xuống 0,2% ra đời thì thị trường ngoại tệ có phần quay trở lại trạng thái tương đương 1999: tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống, tỷ giá NHNN công bố dao động nhỏ quanh mức 14.500 VND/USD. Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình tỷ giá hối đoái nhìn chung diễn biến khá ổn định. Trong năm 2001, tỷ giá giữa VND và USD có sự diễn biến không đồng đều chủ yếu do tác động của một số yếu tố khách quan, cụ thể: Trong 4 tháng đầu năm, tỷ giá tăng ở mức thấp (0,09%/tháng). Từ tháng 5 đến tháng 7, tỷ giá bình quân tăng 0,86%/tháng, riêng tháng 6, tỷ giá tăng tới 1,24%. Tỷ giá tăng mạnh trong những tháng giữa năm do đồng tiền của các nước trong khu vực và trên thế giới tiếp tục bị mất giá với USD, đã tạo ra sức ép giảm giá VND. Ngoài ra còn do những nguyên nhân khác như: Nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm trong khi nhu cầu mua ngoại tệ của các doanh nghiệp để thanh toán tiền hàng nhập khẩu tăng; lãi suất VND thời gian này giảm liên tục khiến nhiều người rút tiền gửi VND để mua USD dự trữ. Từ tháng 8 đến cuối năm, tỷ giá tăng ở mức thấp hơn những tháng giữa năm. Mức tăng bình quân 5 tháng cuối năm là 0,19%/tháng do tác động của FED liên tục cắt giảm lãi suất; các NHTM Việt Nam cũng liên tục cắt giảm lãi suất tiền gửi USD. Tính chung cả năm 2001, tỷ giá VND/USD tăng 3,9% (năm 2000 tăng 3,4%) Thị trường Tài chính Tiền tệ số 3/2003, trang 13. . Sang năm 2002, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt thông qua việc mở rộng biên độ giao dịch theo cả hai chiều tăng giảm (từ mức tăng một chiều không quá 0,10% lên ±0,25% kể từ tháng 7/2002). Sự nới rộng biên độ giao dịch trong mua bán ngoại tệ đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có quyền chủ động, linh hoạt hơn trong kinh doanh ngoại tệ. Tỷ giá giữa USD và VND trong năm 2002 chỉ tăng ở mức 0,1- 0,3%/tháng; cao nhất là tháng 4 tăng 0,4%. Tính chung, cả năm 2002, giá USD tăng 2,1%, thấp hơn 2 năm liền kề trước đó (năm 2000 tăng 3,4%, năm 2001 tăng 3,9%). Từ thực tế ấy có thể nhận xét giá trị đối ngoại của VND cũng giữ được ở thế ổn định mặc dù nền kinh tế thế giới chao đảo và giá vàng tăng đột biến: năm 2001 tăng 5%, năm 2002 tăng 19,4% so với năm 2000 (âm 1,7%) Thị trường Tài chính Tiền tệ số 3/2003, trang 13. . Bước sang năm 2003, giá USD trên thị trường ngoại hối quốc tế tiếp tục giảm làm giảm đi sức ép lên giá USD tại thị trường Việt Nam. 9 tháng đầu năm 2003, tỷ giá VND/USD có tăng nhưng ở mức rất thấp, tính chung 9 tháng chỉ tăng 1% thấp hơn so với tốc độ tăng 1,8% của chỉ số giá tiêu dùng, càng thấp xa so với tốc độ tăng 13,2% của giá vàng. Tốc độ tăng 1% của 9 tháng đầu năm 2003 cũng thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ hai năm trước (năm 2001 tăng 3,9%, năm 2002 tăng 2,1%). Dự đoán trong thời gian tới đồng USD vẫn lên giá so với đồng Việt Nam và giá USD năm 2003 khó tăng quá 1,6% Thời báo kinh tế số 170, 24/10/2003. . Để đạt kết quả khả quan trên là do cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái khá hiệu quả của NHNN Việt Nam. Đó chính là cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt theo hướng tự do hoá để đảm bảo tỷ giá phản ánh chính xác quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời để không ngừng nâng cao uy tín của Đồng Việt Nam nhằm từng bước làm cho Đồng Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi, góp phần ngăn chặn tình trạng đô la hoá nền kinh tế. Quá trình hội nhập thương mại quốc tế đang tiếp tục diễn ra theo chiều sâu và đang được hỗ trợ bởi những cam kết của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm thúc đẩy tự do hoá hơn nữa, huỷ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cản trở buôn bán hàng hoá, tự do hoá lĩnh vực dịch vụ, xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế, hoà nhập các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển vào một hệ thống đa phương. Việt Nam đang phải triển khai thực hiện những nội dung cam kết trong HĐTMVM, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, phải từng bước xoá bỏ những khác biệt trong chính sách giữa các ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Mỹ. Thực tế này đặt NHNN Việt Nam trước yêu cầu cải tiến cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, phù hợp với xu thế phát triển của TTNH quốc tế. 2.2. Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 1 Doanh số giao dịch trên TTNTLNH TTNTLNH bắt đầu hoạt động từ 15/10/1994. Thành viên của nó phải là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Các ngân hàng có điều kiện gặp gỡ, mua bán vốn lẫn nhau, giải quyết được tình trạng thừa, thiếu vốn tạm thời, tăng tốc độ chu chuyển vốn và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tổng khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường này tăng đều qua các năm. Năm 1997, doanh số giao dịch trên thị trường đạt 58 triệu USD, năm 1998 là 33 triệu USD, năm 1999 là 217 triệu USD, năm 2000 là trên 1 tỷ USD, năm 2001 là 1,2 tỷ USD và trong năm 2002 đạt mức bình quân 170 triệu USD/ tháng, trong đó, giao dịch giao ngay vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu còn giao dịch kỳ hạn và hoán đổi chiếm tỷ lệ rất ít trong doanh số giao dịch, cụ thể năm 2001 là 5,7% và năm 2002 là 4,3% Báo cáo thường niên 2001, 2002- NHNN. . 1 Các loại nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Nghiệp vụ giao dịch kinh doanh ngoại tệ là một tiêu chí hết sức quan trọng để đánh giá sự phát triển của TTNH nói chung và TTNTLNH nói riêng. TTNH càng phát triển thì các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối hiện đại như: giao dịch có kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền chọn ngày càng phát triển và được sử dụng rộng rãi. * Giao dịch ngoại hối giao ngay (SPOT): (Giao dịch ngoại hối giao ngay là giao dịch mua, bán một khối lượng ngoại tệ giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán). Hiện nay, đây vẫn là hình thức giao dịch chủ yếu và phổ biến trên TTNH Việt Nam (cũng như đối với các nước có TTNH kém phát triển). Điều này là một biểu hiện rõ nét sự non trẻ và kém phát triển của TTNH Việt Nam. Mặc dù là hình thức giao dịch truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số giao dịch trên thị trường nhưng giao dịch giao ngay trên TTNTLNH vẫn tồn tại nhiều hạn chế: Tính chất kinh doanh trong giao dịch thấp, mua bán thường một chiều, mua nhiều hơn bán, phương thức giao dịch còn rất cổ điển, sơ khai, có rất ít NHTM giao dịch thông qua hệ thống Reuter, hầu hết các giao dịch thông qua hệ thống công văn giấy tờ; Hình thức giao dịch bằng điện thoại- một hình thức giao dịch phổ biến trên TTNH quốc tế hầu như không được chấp nhận và sử dụng; Nhiều thủ tục rườm rà trong quy trình mua bán… Bên cạnh đó, mức chênh lệch tỷ giá quá thấp nên không khuyến khích các hoạt động thị trường, không tạo ra mức giá cạnh tranh. Các quy định về hạn chế khối lượng ngoại tệ giao ngay (mức tối thiểu) và hạn chế về mức chênh lệch giá chào bán và giá chào mua không kích thích các NHTM tham gia kinh doanh với mục đích lợi nhuận (mới chủ yếu tham gia để đáp ứng nhu cầu thanh toán). Hệ thống thanh toán bù trừ kém hoàn thiện cũng là yếu tố quan trọng hạn chế các giao dịch giao ngay. * Giao dịch ngoại hối kỳ hạn (FORWARD) Đây là hình thức giao dịch hiện đại, bước đầu được sử dụng trên TTNTLNH. Theo Quyết định số 17/1998/ QĐ- NHNN17 ngày 10/01/1998, giao dịch hối đoái kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện trong tương lai. Quy chế này cũng xác định tỷ giá có kỳ hạn là tỷ giá giao dịch do NHTM thương mại yết giá hoặc do hai bên tham gia thoả thuận với nhau, nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định giới hạn tỷ giá có kỳ hạn hiện hành của NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên nghiệp vụ này còn một số yếu tố hạn chế sự phát triển của nó: + Các quy định hạn chế về kỳ hạn của các hợp đồng: NHNN chỉ cho phép các hợp đồng có kỳ hạn từ 7 đến 180 ngày. Hạn chế về kỳ hạn tối thiểu là 7 ngày đã gây cản trở hoạt động trên thị trường và các giao dịch thương mại có liên quan, làm giảm tính linh hoạt trong việc quản lý luồng ngoại hối của các NHTM và các khách hàng của họ, dẫn đến tăng chi phí của các hoạt động kinh doanh ngoại hối. Tuy mức độ ảnh hưởng ít hơn so với hạn chế về kỳ hạn tối thiểu, hạn chế về kỳ hạn tối đa là 180 ngày cũng gây cản trở. Mặc dù các tín dụng thư thường có kỳ hạn từ 30- 60 ngày nhưng các công ty nhập khẩu vẫn ưa thích hạn chế rủi ro trên 180 ngày. ở các nước khác, công ty thường hạn chế rủi ro theo thời hạn hàng năm. + Hạn chế về mức chênh lệch tỷ giá giao dịch có kỳ hạn: Đối với một số kỳ hạn, mức chênh lệch về lãi suất là cố định theo quy định. Trong trường hợp mức chênh lệch lãi suất do NHNN quy định cao hơn so với lãi suất thực tế trên TTTT, các ngân hàng sẽ chọn không tham gia vào TTNH kỳ hạn, như vậy sẽ làm giảm mức vốn tổng thể của thị trường, gây thiệt hại cho các công ty tham gia vào giao dịch thương mại quốc tế. + Hạn chế về việc các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hợp đồng kỳ hạn: Một số doanh nghiệp Nhà nước thường né tránh sử dụng giao dịch kỳ hạn do có thành kiến, coi việc tham gia vào các giao dịch ngoại hối với tỷ giá cao hơn giao dịch giao ngay giống như việc đầu cơ. Một số doanh nghiệp lớn thường xuyên cần một khối lượng ngoại tệ lớn cũng không sử dụng hợp đồng kỳ hạn mà mua dần ngoại tệ trên thị trường giao ngay để tránh khó khăn về vốn nếu mua cùng một lúc lượng ngoại tệ lớn trên thị trường. Lượng ngoại tệ này lại được gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán không được hưởng lãi, do đó, chi phí cao hơn so với giao dịch kỳ hạn, bởi vì trong giao dịch kỳ hạn, doanh nghiệp vẫn được hưởng lãi đối với lượng tiền bằng Đồng Việt Nam. Ngoài ra, các cá nhân có thể tham gia giao dịch kỳ hạn như các doanh nghiệp, nhưng lại chưa được phép. * Giao dịch hoán đổi (SWAP) Giao dịch hoán đổi được thực hiện theo Quyết định số 17/1998/QĐ- NHNN17 của Thống đốc NHNN ngày 10/1/1998 kèm theo quy chế giao dịch hối đoái và Quyết định số 430/1997/QĐ- NHNN13 ngày 24/12/1997 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện giao dịch swap giữa NHNN với các NHTM và hiện nay đang áp dụng Quyết định số 893 và 894/2001/QĐ- NHNN ngày 17/7/2001 về việc thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối giữa NHNN với các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam cho các ngân hàng. Theo đó thì giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác, trong đó, kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Giao dịch hoán đổi là phương thức giao dịch tiên tiến của TTNH quốc tế nhưng hầu như không được các tổ chức tín dụng Việt Nam sử dụng giao dịch trên TTNTLNH. Và thực chất của giao dịch hoán đổi trên TTNH Việt Nam mới chỉ dừng ở việc NHNN sử dụng nó như là một giải pháp tình thế, như công cụ điều tiết lượng tiền cung ứng, chứ chưa được các tổ chức tín dụng sử dụng như một phương thức giao dịch với mục đích kinh doanh, phòng ngừa rủi ro trên TTNH. * Giao dịch quyền chọn (OPTION) Đây là phương thức giao dịch hiện đại trên TTNH quốc tế và mới đây đã được đưa vào sử dụng tại Việt Nam theo văn bản số 134/NHNN- QLNH ký ngày 12/2/2003 của NHNN Việt Nam quy định việc xem xét để có thể cho phép một số ngân hàng thực hiện thí điểm giao dịch này. Theo văn bản này, những ngân hàng được thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn phải hội tụ đầy đủ các điều kiện sau + Phải được Thống đốc NHNN cho phép bằng văn bản; + Được phép kinh doanh ngoại hối; + Có vốn tự có ít nhất là 200 tỷ VND; + Kinh doanh ngoại tệ có lãi trong 5 năm gần nhất; + Doanh số mua bán ngoại tệ/VND năm 2002 tối thiểu đạt 1tỷ USD; + Có đề án chi tiết và quy định của ngân hàng về quy trình giao dịch quyền chọn, trong đó gồm cả các biện pháp phòng ngừa rủi ro; + Trường hợp thanh toán ngoại tệ cho nước ngoài doanh nghiệp phải xuất trình chứng từ theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành. Do mới ở giai đoạn thí điểm nên có thể nói những quy định của NHNN đối với các ngân hàng xin thực hiện giao dịch quyền chọn khá khắt khe. Tính đến nay đã có 4 ngân hàng được thực hiện nghiệp vụ mới này là Eximbank, Ngân hàng Đầu tư- Phát triển Việt Nam, Citibank và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, trong thí điểm này, NHNN mới chỉ cho phép thực hiện giao dịch quyền lựa chọn tiền tệ- là quyền được mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ trong một khoảng thời gian hoặc thời điểm xác định trong tương lai với một tỷ giá thoả thuận ấn định tại thời điểm giao dịch. Một vấn đề cần đặc biệt quan tâm khi nghiên cứu về TTNH Việt Nam là sự tồn tại song song của thị trường ngoại tệ tự do (hay còn gọi là thị trường phi chính thức). Sự có mặt của hình thức kinh tế tự do (hay chợ đen) là một đặc trưng của Việt Nam. Hễ đã có một hình thức chính thức sẽ ngay lập tức tồn tại song song một hình thức phi chính thức, hoạt động vô cùng sôi nổi. Trên TTNH cũng diễn ra tình trạng tương tự. Đã có một thời việc chênh lệch tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá “chợ đen” làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách rất nhiều. Tuy đã từng bước giải quyết được vấn đề này (mà giải pháp nổi bật nhất là chế độ công bố tỷ giá hối đoái trung bình cộng thêm biên độ dao động kể từ ngày 25/02/1999) nhưng thị trường ngoại tệ tự do vẫn tồn tại và vẫn khá phát triển. Quả thực, tại Việt Nam hiện nay có rất nhiều điểm TTNH phi chính thức hoạt động suốt ngày đêm; tỷ giá trên thị trường này chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường đó, không có sự can thiệp hành chính nào hết. Theo một số chuyên gia, dung lượng của thị trường này vào khoảng 10% thị trường chung, một số khác đưa ra con số ước tính cao hơn, khoảng 20- 25%. Nghị định 63/1998/NĐ- CP ngày 17/08/1998 không công nhận sự tồn tại của loại thị trường này. Các quy định pháp luật buộc các điểm giao dịch trên thị trường tự do phải chuyển đổi thành các đại lý mua bán ngoại tệ cho các NHTM. Nhưng trên thực tế, cơ chế đại lý chỉ là hình thức, thuần tuý là cái vỏ bọc bên ngoài, các điểm giao dịch này tuy có bán ngoại tệ cho NHTM, nhưng với lượng tiền hết sức nhỏ, và vẫn chủ yếu thực hiện kinh doanh cho bản thân mình. Điều hành hoạt động ngoại hối Việt Nam còn không được phép bỏ quên một lượng ngoại tệ khá đặc biệt: kiều hối do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về. Đây là một trong những nguồn ngoại tệ lớn nhất của nước ta. Nếu như năm 1991 lượng kiều hối chuyển về nước là 35 triệu USD, năm 1992 là 136,6 triệu USD, năm 1997 là 400 triệu USD, thì từ năm 2000 đã vượt xa mức 1 tỷ USD, đạt 1,757 tỷ USD năm 2000, 1,82 tỷ USD năm 2001, 2,2 tỷ USD năm 2002 và 1,1 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2003 Tạp chí ngân hàng số 13/ 2003, trang 1 . Lượng kiếu hối đó là rất lớn, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biết sử dụng số tiền đó như thế nào, và có phương cách gì để giữ vững và nâng cao lượng tiền đó, điều này phụ thuộc chủ yếu vào chính sách quản lý ngoại hối của những nhà quản lý TTNH Việt Nam. 3. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường ngoại hối Việt Nam theo các cam kết trong HĐTMVM Như đã phân tích ở phần I.3: “Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ Việt Nam theo các cam kết trong HĐTMVM”, khi Việt Nam cam kết cho phép sự hiện diện của các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng- tài chính Hoa Kỳ trên TTTC Việt Nam điều đó có nghĩa là không chỉ có TTTT Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mà TTNH Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết. Khi các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng- tài chính Hoa Kỳ hay nói cách khác là các ngân hàng Hoa Kỳ tham gia vào TTNH Việt Nam, với một tiềm lực to lớn về tài chính và một trình độ quản lý, công nghệ tiên tiến trước hết họ sẽ gây sức ép cho các chủ thể tham gia vào TTNH Việt Nam, đó là NHNN, các NHTM và các công ty môi giới tiền tệ. Hơn nữa, việc các ngân hàng Hoa Kỳ được phép tiến hành kinh doanh các công cụ của TTNH như Spot, Swap, Forward, Option, Future theo các cam kết tại mục (h), (kii), (kiii) và (kiv) sẽ gây ảnh hưởng tới chính sách điều hành tỷ giá cũng như các quy định của NHNN đối với việc sử dụng các công cụ trên TTNH Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, khi TTNH Việt Nam mới ở dạng sơ khai, kém phát triển và còn chứa đựng khá nhiều hạn chế, khiếm khuyết thì những vấn đề kể trên “dường như” càng trở nên khó khăn gấp bội. Chính vì lý do này, để thực hiện tốt các cam kết trong HĐTMVM nhưng vẫn đảm bảo TTNH Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả, ổn định, góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của TTTC Việt Nam thì vấn đề đầu tiên được đặt ra là phải xây dựng được một TTNH hoàn thiện, bởi lẽ một TTNH hoàn thiện sẽ có sức chống đỡ mọi sức ép của đối thủ cạnh tranh, trong trường hợp này là các ngân hàng Hoa Kỳ, phát triển vững mạnh. Để làm được điều này thì chúng ta nhất thiết phải giải quyết được những hạn chế tồn tại của TTNH Việt Nam, đó là: Thứ nhất, cơ chế quản lý điều hành TTNH của NHNN cũng như của các nhà lãnh đạo còn nhiều yếu kém thể hiện ở những mặt sau: - Cơ chế điều hành tỷ giá còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với xu thế phát triển của TTNH quốc tế. Nói như vậy do, tỷ giá VND/USD chưa được tự do biến động để phản ánh quan hệ cung cầu, trong khi đó biên độ dao động lại quá hẹp (trước là +0,1%, n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD2.doc
Tài liệu liên quan