Khóa luận Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn - Quảng Ninh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài . 1

2. Mục tiêu nghiên cứu . 3

3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu . 3

4. Phương pháp nghiên cứu . 4

5. Đóng góp của khóa luận . 5

6. Bố cục của khóa luận . 5

Chương I: MẤY VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH BIỂN ĐẢO . 6

1.1. Khái niệm . 6

1.1.1. Biển . 6

1.1.2. Đảo . 7

1.1.3. Du lịch biển đảo . 9

1.2. Du lịch biển đảo ở Quảng Ninh . 9

1.3. Thuận lợi và khó khăn của việc khai thác du lịch biển đảo . 13

1.3.1. Thuận lợi . 13

1.3.2. Khó khăn . 13

Tiểu kết chương I . 15

Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH BIỂN ĐẢO Ở

VÂN ĐỒN . 16

2.1. Vài nét chung về Vân Đồn . 16

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển . 16

2.1.2. Vị trí địa lý . 19

2.1.3. Dân số . 19

2.1.4. Khí hậu . 19

2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên . 20

2.2.1. Địa hình . 20

2.2.2. Thủy văn . 22

2.2.3. Thế giới động vật . 24

2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn . 27

2.3.1. Tài nguyên du lịch vật thể . 27

2.3.2. Tài nguyên du lịch phi vật thể . 33

2.4. Cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất phục vụ du lịch . 37

2.4.1. Cơ sở hạ tầng . 37

2.4.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật . 39

2.5. Sản phẩm du lịch và thị trường khách . 46

2.5.1. Thị trường khách du lịch . 49

2.5.1.1. Thị trường khách du lịch quốc tế . 50

2.5.1.2. Thị trường khách du lịch nội địa . 50

2.6. Đánh giá chung . 53

2.6.1. ưu điểm . 53

2.6.2. Hạn chế . 54

Tiểu kết chương II . 54

Chương III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT

ĐỘNG DU LỊCH TRÊN HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN . 55

3.1. Định hướng phát triển du lịch . 55

3.1.1. Định hướng không gian phát triển và sản phẩm du lịch . 55

3.1.2. Định hướng đối với thị trường khách . 56

3.2. Một số khuyến nghị . 58

3.2.1. Khuyến nghị đối với Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch . 58

3.2.2. Khuyến nghị đối với tỉnh Quảng Ninh . 58

3.2.3. Khuyến nghị đối với huyện Vân Đồn . 59

3.2.4. Khuyến nghị với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn . 59

Tiểu kết chương III . 60

KẾT LUẬN . 61

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 63

PHIẾU HỎI . 66

PHỤ LỤC . 69

 

pdf86 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn - Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oài trong ngành giun đốt có sâu đất, giun tơ chính là nguồn hải sản ƣu thế của vùng quần đảo này, giá trị kinh tế cao, nguồn lợi lớn từ nhiều đời nay của cộng đồng địa phƣơng ( thƣờng gọi là Sá Sùng). Nguồn phát sinh dồi dào, trữ lƣợng lớn, phẩm chất cao, chủ yếu đối với các loài Sá Sùng, Bào Ngƣ, Hải Sâm, Cỏ Gai, Trai cho Ngọc, trên các bãi cát ngập triều, bãi bùn, thềm đá. San hô và rặng san hô ở vùng này tuy chƣa đến mức độ phong phú nhƣ ở một số vùng khác ở nƣớc ta, do những nguyên nhân địa chất biển, hải văn và môi trƣờng liên quan nhƣng vẫn có những đặc điểm riêng. Khảo sát sơ bộ cho thấy trong vùng có 66 loài san hô đỏ, 13 loài san hô sừng và thân mềm. Có một số loài san hô quý nhƣ Tám Tia, Hồng Sắc, đang ở thời kỳ phát triển. Trên thềm đảo ở tầm sâu trên 6m phía Đông Bắc đảo Ba Mùn, đảo Sậu, tập trung nhiều hơn. Thềm đảo phía nam gần Cửa Đối – Quan Lạn là nơi tập trung san hô sau phía Bắc và Đông Bắc.Tại khu vực hƣớng chính đông của đảo Ba Mùn cũng là khu vực tập trung san hô( có hơn 30 loài). Quần thể san hô trong vùng chƣa hình thành các bãi rạn rộng lớn, đang ở từng cụm nhỏ. Tuy nhiên có tới 70 loài san hô, phân bố khá tập trung ở một số khu vực. Các loài đáy biển bao gồm 13loài họ cá Mú, 12loài cá Khế và sau đó là các loài khác nhƣ Mập, Đuối, He, Kìm, Thu, Sơn, Căng...những loài cá trong vùng phân bố, nhóm cá nổi xa bờ, nhóm cá tầng đáy, nhóm cá trong các rạn và cụm san hô. Ngoài cá còn có những loại tôm, cua, thân mềm, da gai...Quần thể ốc cũng rất phong phú, đặc biệt một số loài ốc có giá trị cao chỉ có nhiều ở vùng này nhƣ ốc sao, ốc hƣơng, ốc đỏ, ốc đế. Về thực vật, Vân Đồn có hàng ngàn ha rừng với các loài gỗ quý, tiêu biểu nhƣ thiết đinh, lát hoa, kim giao, thông, tre, táu mật, lim xanh...Ngoài ra Vân Đồn còn có vƣờnquốc gia Bái Tử Long là nơi lƣu giữ nhiều hệ sinh thái biển điển hình với giá trị đa dạng sinh học cao. Thực vật ƣu thế ở đây gồm các loài thuộc họ Vang, Chè, Trâm. Thực vật rừng khá phong phú và đa dạng đến nay đã ghi nhận đƣợc 398 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 4 loài đƣợc ghi trong sách đỏ Việt Nam nhƣ Kim Giao, Ba Kích, Giác Đề và Thổ Phục Linh. Hệ động vật theo các ghi chép trƣớc đây Bái Tử Long có một hệ động vật có xƣơng sống rất phong phú và đa dạng nhƣng hiện nay đã bị suy giảm nghiêm trọng. Theo một số báo cáo thì lợn rừng và mang vẫn còn xuất hiện nhƣng những loài thú lớn nhƣ gấu thì không còn đƣợc phát hiện. Với sự đa dạng phong phú của các loài động thực vật đặc biệt với những khu rừng nguyên sinh nhiệt đới vẫn còn đƣợc bảo tồn nguyên vẹn trong vƣờn quốc gia, đây chính là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên quan trọng để phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng nhƣ du lịch sinh thái, du lịch tìm hiểu tự nhiên. 2.3. Tài nguyên du lịch văn hóa – nhân văn Vân Đồn đƣợc biết đến là vùng đất có lịch sử lâu đời, ngay từ thời tiền sử con ngƣời đã có mặt và sinh sống ở nơi đây. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những dấu ấn của ngƣời xƣa vẫn còn để lại qua các di chỉ khảo cổ học quan trọng. Theo thời gian những cƣ dân ấy vẫn gắn bó với mảnh đất này để xây dựng và phát triển. Lịch sử đã ghi nhận nơi đây đã từng có những thời kỳ kinh tế, thƣơng mại phát triển rực rỡ mà sự ra đời và phát triển thƣơng cảng Vân Đồn là một ví dụ. Chính vì vậy mà cho tới hôm nay Vân Đồn vẫn còn gìn giữ đƣợc một hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú, đây cũng là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng cho phát triển du lịch. 2.3.1. Tài nguyên du lịch vật thể Các đảo trong khu vực Vân Đồn còn lƣu giữ các giá trị văn hóa thuộc nền văn hóa Hạ Long. Cuối năm 1937 nhà khảo cổ học Thụy Điển An-Đéc-Xen và hai chị em nhà khảo cổ học ngƣời Pháp M.Co-Li-Na đã đi điền giã nhiều tháng đến các bãi biển, hang động trên các đảo Ngọc Vừng, Cống Đông, Cống Tây, Thoi Giếng, Soi Nhụ...Họ đã phát hiện ra nhiều hiện vật công cụ bằng đá của ngƣời nguyên thủy nhƣ: bàn mài, chày nghiền, mảnh tƣớc, vòng tay...Từ đó tới nay các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục khảo cổ khai quật và đã phát hiện thêm nhiều di chỉ khảo cổ trong khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có giá trị. Năm 1968 các nhà khảo cổ đó phát hiện ra hang Soi Nhụ tìm thấy vại sành, vỏ hà ốc có liên đại cách đây 4000 năm. Các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đã gọi các di chỉ này thuộc nền văn hóa Hạ Long có liên đại cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm. Các di tích thời tiền sử Hang Soi Nhụ: Nằm trên đảo Soi Nhụ thuộc xã Hạ Long huyện Vân Đồn nằm cách thị trấn Cái Rồng khoảng 4km về phía Bắc. Đây là một trong những di chỉ khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Năm 1938 lần đầu tiên hang động này đƣợc phát hiện bởi hai nhà khảo cổ học ngƣời Pháp. Với những di chỉ khảo cổ tìm đƣợc bao gồm các tàn tích thức ăn, công cụ lao động, đồ gốm...có thể khẳng định đây là một trong những ngôi nhà cổ của các cƣ dân văn hóa Hạ Long. Theo kết quả phân tích cacbon C14 các nhà khảo cổ đã đƣa ra niên đại cách ngày nay khoảng trên 14000 năm, điều này chứng tỏ hàng ngàn năm trƣớc mảnh đất này đó có cƣ dân sinh sống. Hang Soi Nhụ căn nhà cổ nhất của các cƣ dân văn hóa Hạ Long đã và sẽ là một trong những điểm tham quan nghiên cứu quan trọng của du lịch Vân Đồn cũng nhƣ của du lịch Quảng Ninh. Hang Hà Giắt: Hà Giắt là một thôn thuộc xã Đoàn Kết thuộc huyện Vân Đồn. Địa danh Hà Giắt có từ lâu đời do những ngƣời Việt gốc Hoa đặt tên với ý nghĩa là nhất, là một. Năm 1937 các nhà khảo cổ học ngƣời Pháp đã tới đây điều tra khai quật họ đã phiên âm Hà Giắt thành Hayart để gọi những bộ sƣu tập hiện vật ở đây. Sƣu tập Hayart hiện nay còn đƣợc lƣu giữ tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. Hà Giắt là một trong những địa điểm khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Bộ sƣu tập hiện vật ở hang Hà Gíăt hiện nay còn khoảng 70 hiện vật. Toàn bộ là đồ đẽo và công cụ có dấu vết sử dụng không qua chế tác. Hầu hết đồ đá trong bộ sƣu tập này đều làm bằng cuội grannít, đá có hạt thô lẫn trong những tinh thể trắng, vỏ cuội xù xì đã bị nƣớc phong hóa. Đây là đặc điểm chung của vùng biển Hạ Long. Về niên đại, di chỉ Hà Giắt có niên đại cách ngày nay khoảng 14000 năm vào khoảng trung kỳ đá mới, qua đây có thể thấy rằng ngƣời Hà Giắt và ngƣời Soi Nhụ cũng chung sống ở một thời kỳ mà các nhà khảo cổ học gọi chung thời kì này là văn hóa Soi Nhụ. Di chỉ Ngọc Vừng: Cách đây 5000 năm ngƣời nguyên thủy thuộc thời đại đá mới đã đến đây cƣ trú. Ngày nay dân cƣ địa phƣơng trong lúc làm vƣờn thƣờng bắt gặp rìu đá, bôn đá vừa có vai vừa có nấc, chì lƣới, bàn mài có rãnh, hòn kê là những di sản của ngƣời nguyên thủy đã sinh sống ở Ngọc Vừng. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ một ngƣời chủ lò thủy tinh trong vùng đã phát hiện ra các di chỉ đá mới Ngọc Vừng, các học giả khảo cổ Pháp đã tìm đến hòn đảo này. Căn cứ vào hình dáng độc đáo của những hiện vật thu lƣợn đƣợc trên đảo, họ đặt tên di chỉ đồ đá ở đây là “Nền văn hóa Danh-Dô- La”. Các di tích lịch sử, văn hóa Đình Quan Lạn: Là một công trình kiến trúc cổ có quy mô lớn và bậc nhất nhì hiện có ở Quảng Ninh. Đình đƣợc xây vào thời Lê tại bến Cái Làng – một trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn xƣa, gồm 9 gian. Đến thời Nguyễn nhân dân chuyển sang đất Quan Lạn để sinh sống thì đình cũng đƣợc chuyển theo và rút bớt đi còn 7 gian, lúc đầu đình đƣợc xây theo kiểu chữ “công”, gồm 5 gian 2 chái tiền đƣờng, 3 gian ống muống và một gian 2 chái hậu cung. Sau đó đƣợc rời về xóm Thái Hòa rồi xóm Nam, cuối cùng rời về xóm Đoài và đƣợc thu gọn nhƣ ngày nay. Hiên của Bái Đƣờng với những đầu bẩy đƣợc trạm rồng lộng lẫy. Mỗi đầu bẩy là một hình rồng khác nhau. Trong 5 đầu bẩy ở Đình Quan Lạn có một chiếc phía trái gian giữa, bức trạm rồng mang đậm phong cách thời Lê: mắt rồng xếch dài nhƣ mắt ngƣời, dấu bờm hình đao uốn vài đƣờng rồi vút thẳng về phía sau. Đầu lƣ là một bộ phận đỡ cho xà thân vững cũng đƣợc trạm trổ công phu. Mỗi đầu lƣ đƣợc trạm 3 mặt rồng, phải, trái và bên dƣới. Bên dƣới là ngƣời đến thăm đình ngẩng lên nhìn thấy, chính vì vậy đƣợc trạm trổ tỉ mỉ và đẹp mắt. Toàn bộ kiến trúc của đình tuy đồ sộ bề thế, nhƣng các đầu đao uốn cong hình rồng đã tạo cho đình một nét mềm mại uyển chuyển. Mái lợp ngói mũi hài, trên bờ nóc đắp nổi lƣỡng long chầu nguyệt, hệ thống vì kèo cột gỗ kiểu giá chiêng chồng rƣờng. Các mảng trạm khắc ở đây đƣợc nghệ nhân trạm thổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Đề tài trang trí chủ yếu là hình rồng, phƣợng và hoa lá đƣợc thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cuốn, con rƣờng, đầu bẩy, đầu dƣ, câu đầu, cửa võng mang đậm phong cách thời Lê. Toàn bộ hệ thống cột gỗ đƣợc làm bằng chất liệu gỗ Mần Lái một loại gỗ tốt nhất và chắc hơn cả gỗ lim, mọc từ núi đá trên đảo Ba Mùn (Vân Đồn). Đình Quan Lạn xây dựng để thờ thành Hoàng Làng và các vị Tiên Công có công khai lập ấp, lập lên xã Quan Lạn ngày nay và Trần Khánh Dƣ ngƣời có công lớn trong trận chỉ huy đánh tan đoàn quân lƣơng của Trƣơng Văn Hổ ở Vân Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng vào trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 nên đã đƣợc nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng của làng. Hiện nay còn lƣu giữ đƣợc ở đình là tƣợng Trần Khánh Dƣ, 18 sắc phong của triều Nguyễn phong cho Trần Khánh Dƣ, long ngai, khám thờ, cửa võng, hoành phi, câu đối. Chùa Quan Lạn: Nằm ngay bên trái đình Quan Lạn có tên chữ là Vân Quan tự. Tên Vân Quan đã thể hiện mối quan hệ giữa thƣơng cảng Vân Đồn và xã Quan Lạn ngày nay. Chùa có kiến trúc kiểu chữ “đinh”gồm 3 gian 2 chái tiền đƣờng và 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, phía trƣớc chùa là tam quan gác chuông. Hệ thống vì kèo cột gỗ theo kiểu giá chiêng chồng rƣờng, các con rƣờng, con đầu đều đƣợc trạm trổ hình hoa dây, hoa lá vân xoắn và hoa cúc mãn khai. Ngoài thờ Phật chùa Quan Lạn còn thờ mẫu Liễu Hạnh, một tín ngƣỡng bản địa và thờ cụ Hậu (ngƣời có công với dân làng). Hiện nay chùa còn lƣu giữ đầy đủ tƣợng phật có giá trị điêu khắc của thời Nguyễn, hoành phi, câu đối, sắc phong của vua Thành Thái (1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh và nhiều đồ tự khác bằng đồng và gỗ có giá trị. Chùa Lấm: Nằm trên sƣờn phía Tây đối diện với năm bến thuyền cổ dƣới chân đảo Cống Đông. Chùa xây trong lòng chảo ba bề có núi cao bao bọc, cửa chùa trông ra biển lớn, bãi cát trắng trải dài vài trăm mét. Nền chùa có hai cấp, cấp một hình gần vuông, cấp hai nhỏ hơn, cả hai cấp đều kè đá chắc chắn. Trên mặt cấp thứ hai còn 16 hòn đá kê cột, khoảng giữa của 4 hòn kè có một bệ sen bằng đá 3 tầng. Cả 3 tầng đƣợc trạm trổ đẹp mắt, các cánh sen mềm mại thu nhỏ dần từ dƣới lên trên, từ ngoài vào trong, tựa một búp Sen đang nở. Khu nhà tổ khá đồ sộ có dãy nhà trên và dãy nhà dƣới. Tƣờng gồm những tảng đá xếp chồng lên nhau, không hề có một chút vôi vữa, vẫn không bị xô lệch, mặt tƣờng vẫn phẳng phiu dù đã sáu, bảy chục năm trôi qua. Ngọn bảo tháp xây dựng chếch về phía Bắc đảo Cống Tây trên một khu đất bằng phẳng có ngọn đồi khá cao. Tháp xây hoàn toàn bằng gạch nung mặt ngoài của tháp đƣợc trang trí hinh rồng, phƣợng, hoa lá với dáng điệu uyển chuyển, sinh động. Ở trên mỗi bến thuyền có một giếng nƣớc ngọt, đó là giếng Hệu (hay giếng nàng Tiên) trên bến Cái Làng, giếng Rùa Vàng trên bãi Con Quy, giếng Đình trên bến Cái Cổng. Mỗi giếng gắn liền với một câu chuyện thần thoại và giếng nào cũng trong và ngọt, đầy nƣớc xung quanh. Đồn Canh Tiền Tiêu Tĩnh Hải: Không chỉ là một cảnh mậu dịch quan trọng mà Vân Đồn còn là mảnh đất tiền tiêu, là cửa ngõ của tổ quốc. Suốt trong thời kì phong kiến Vân Đồn đƣợc xem nhƣ là khu vực có vai trò quan trọng về mặt quân sự. Đến thời Nguyễn tuy không còn vai trò là một thƣơng cảng quan trọng nữa nhƣng việc buôn bán ở đây vẫn chƣa chấm dứt. Các thuyền buôn nƣớc ngoài vẫn qua lại đặc biệt là ngƣời Trung Quốc. Ở vào thời kì này hiện tƣợng cƣớp biển xảy ra thƣờng xuyên. Giặc biển có khi là dân đánh cá đi cƣớp các thuyền cá khác của dân, có khi là bọn lái buôn đến lén lút mua hàng quốc cấm, chúng luôn chống lại cả quân tuần tiễu của triều đình. Trƣớc hoàn cảnh đó nhà Nguyễn đã cho xây dựng một hệ thống đồn bảo sai quan lƣu giữ vừa để canh phòng mặt biển vừa để thu thuế các thuyền buôn qua lại. Hiện nay di tích đồn Canh Tĩnh Hải vẫn còn đƣợc lƣu giữ gần nhƣ nguyên vẹn trên đảo Ngọc Vừng. Nghè Trần Khánh Dƣ: Nằm ở xóm Thái Hòa xã Quan Lạn thờ phó tƣớng Trần Khánh Dƣ. Nghè đƣợc xây theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian tiền đƣờng và 2 gian hậu cung. Nghè Trần Khánh Dƣ và đình Quan Lạn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghè là nơi thờ chính Trần Khánh Dƣ, đình là nơi làm lễ tế thành hoàng Trần Khánh Dƣ trong mỗi dịp lễ hội. Các di tích Bến thuyền cổ Bến Cống Đông: Nằm trên đảo Cổng Đông – xã Thắng Lợi. Phía đông và phía tây của đảo là một khoảng dài hơn 10km là một bến thuyền cổ dài nhất trong các bến bãi. Bến này có bảy vụng to nhỏ ăn sâu vào đảo trở thành bến đỗ an toàn và tiện lợi. Hiện vật ở đây có số lƣợng nhiều và phong phú trong tất cả các bến. Trong số đó gốm men nâu thời Trần, gốm men ngọc Trung Quốc thời Nguyên và gốm thời Mạc. Bến Cái Làng: Nằm trên địa phận xã Quan Lạn. Suốt bờ vụng phía Đông, một khoảng dài tới 200m có rất nhiều mảnh đồ gốm các loại thuộc nhiều thời khác nhau. Ngƣời dân ở đây còn tìm thấy nhiều chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và một số tiền đồng thời Đƣờng. Trên núi còn có nhiều dấu tích nền nhà và một nền đình cổ, một giếng cổ. Bến Cống Cái: Nằm ở bờ tây đảo Vân Hải, nay thuộc xã Quan Lạn. Cửa vùng mở ra một con sông do đảo Vân Hải và núi Man chạy song song ngăn một dải nƣớc tạo thành. Bến này cách bến Cái Làng khoảng 2km, nƣớc sâu, kín gió thuận lợi cho thuyền bè neo đậu. Suốt bờ Bắc một dải dài hơn 100m là nơi tích tụ rất nhiều mảnh gốm các loại giống nhƣ ở Cái Làng. Bến Con Quy: Nay thuộc xã Minh Châu. Tại địa điểm này ngƣời ta cũng tìm thấy rất nhiều mảnh gốm nhƣ vò, hũ, các chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và tiền đồng Trung Quốc từ thời Đƣờng – Tống và tiền Việt các thời Lý, Trần, Lê mà nhiều hơn cả là tiền Tây Sơn. Bến Cái Cổng: Gồm hai vụng đƣợc gọi là Cổng Ông (phía Bắc) và Cổng Bà (phía Nam) thuộc đảo Trà Bản. Tại khu vực này cũng tìm thấy nhiều mảnh đồ gốm các thời Lý, Trần, Lê. Đặc biệt ngƣời ta tìm thấy một cây đèn nến bằng gốm, có men màu trắng ngà, rạn, phong cách Hán. Bến Cống Yên, Cống Hẹp; Nằm ở phía tây của đảo Ngọc Vừng. Tại đây cũng tìm thấy nhiều mảnh gốm trên dải bờ biển kéo dài hàng trăm một. Dấu vết và các công trình kiến trúc cổ Cùng với việc mở thƣơng cảng Vân Đồn, các triều đại phong kiến cũng cho xây dựng ở khu vực này nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, quân sự. Để đáp ứng nhu cầu tín ngƣỡng của nhân dân và các thuyền buôn và hơn nữa đảm bảo về mặt chủ quyền an ninh trong khu Thƣơng cảng cũng nhƣ an ninh quốc gia. Bắt đầu khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây là sự xuất hiện của một loạt các công trình kiến trúc tôn giáo nhƣ dấu tích ngọn bảo tháp, chùa vụng, Cây Quéo, chùa vụng Chuồng Bò, Chùa Lấm, 2.3.2. Tài nguyên du lịch phi vật thể Vân Đồn là nơi dân cƣ sinh sống khá đông đúc trong đó có nhiều ngƣời bản địa. Qua quá trình sinh sống ở đây họ đã sống tạo ra nhiều giá trị văn hóa mang tính địa vực nhƣ: canh tác lúa nƣớc trên đất dốc, đánh bắt chế biến thủy hải sản, sử dụng tài nguyên rừng, phong tục tập quán ăn sóng, nói gió. Cùng với sự chịu thƣơng, chịu khó lao động, phẩm chất chất phác của cƣ dân biển đã hình thành và bảo tồn tới ngày nay nhiều lễ hội và các hình thức nghệ thuật biểu diễn truyền thống nhƣ hội đình Quan Lạn với các trò chơi dân gian mang văn hóa biển nhƣ tế thần biển, đua thuyền và hò biển. Lễ hội Lễ hội đình Quan Lạn:(còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), là hội làng của ngƣời dân xã đảo Quan Lạn, một hòn đảo ở khu trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn. Lễ hội đƣợc tổ chức vào ngày 18 tháng 6 (âm lịch) hàng năm nhƣng hội kéo dài từ ngày 10 đến hết ngày 20 tháng 6. Lễ hội đình Quan Lạn vừa kỷ niệm chiến thắng giặc Nguyên Mông năm 1288 và chiến công của Trần Khánh Dƣ, một danh tƣớng của nhà Trần, vừa là ngày hội cầu đƣợc mùa của cƣ dân vùng biển. Hội đƣợc tổ chức trên bến đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi đình cổ trong số ít những ngôi đình còn giữ đƣợc cho đến ngày nay. Theo tục lệ ngày 10 tháng 6 “khóa làng”dân trong làng không đƣợc đi bất cứ đâu nhƣng những ngƣời làm ăn ở xa và khách thập phƣơng lại có thể về làng dự hội. Hội đình Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm 2 phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị đua thuyền. Thuyền đua thƣờng là thuyền đi biển trọng tải nặng, sáu tấn, rộng và sâu lòng, đƣợc hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền. Ngày 16 làm lễ nghinh thần, dâng lễ rƣớc bài vị của Trần Khánh Dƣ từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dƣới bến đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tƣng bừng , náo nhiệt. Ngày 18 tháng 6 vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thƣờng lúc này nƣớc triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên Văn áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh. Lính bên Võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình, quân chúng cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tƣớng mùa những đƣờng dao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tƣợng trƣng cho ba lần đánh thắng quân Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập trung trƣớc miếu, hai vị tƣớng vào tế, khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu. Lễ hội đình Quan Lạn mang dấu ấn của một hội làng truyền thống nhƣng đặc biệt hoành tráng thể hiện tinh thần thƣợng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nƣớc của những ngƣời dân vùng biển. Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Là vùng đất có truyền thống và lịch sử văn hóa lâu đời trên dƣới một vạn năm. Từ nền đồ đá mới với văn hóa Soi Nhụ và văn hóa Hạ Long đến thời kì kim khí con ngƣời đã liên tục quần cƣ ở vùng đất này. Vân Đồn là nơi có nhiều dân tộc chung sống xen kẽ với nhau. Nếu thống kê theo nguồn gốc thì hiện nay có tới hơn 7 dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có một nét đặc trƣng văn hóa truyền thống riêng song luôn có ảnh hƣởng qua lại với nhau. Nằm trong cùng khu vực địa lý là vùng biển Đông Bắc Việt Nam, Vân Đồn cũng là nơi hội tụ, tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng, trƣớc hết là vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, ở các huyện miền Đông của tỉnh Quảng Ninh, văn hóa nghệ thuật của ngƣời Việt cũng tiếp nhận những ảnh hƣởng của văn hóa các dân tộc thiểu số và của Trung Hoa. Tuy vậy do điều kiện đặc biệt về địa lý, những hoàn cảnh đặc thù về xã hội và lịch sử, vùng Vân Đồn đó hình thành và tồn tại những nếp sống văn hóa, những hình thái nghệ thuật dân gian, độc đáo nhất là ở vùng biển. Các vùng dân cƣ khác nhau ở Quảng Ninh thì có nhiều loại hình dân gian độc đáo, đặc sắc và mang sắc thái riêng. Trong các vùng dân cƣ của ngƣời Việt thì ngƣời dân chài trên biển có nhiều loại hình hát dân gian đặc sắc hơn cả. Đó là hát chèo đƣờng hay còn gọi là hò biển. Hàng ngày những ngƣời dân chài phải đối mặt với sóng gió, vật lộn với con cá, con tôm, cuộc sống đầy khó khăn vất vả nhƣng họ vẫn sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần rất đặc sắc nhƣ những câu hò biển, những lời nói đối đáp giao duyên. Những câu hò, lời hát đó đã làm cho họ thấy lạc quan hơn, yêu cuộc sống của mình hơn, quên đi những lo âu, vất vả đời thƣờng. Hát chèo đƣờng còn gọi là hát ví, hát véo, hát gái, hát đố, hát giảng, cũng có ngƣời gọi là hò biển. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Tống Khắc Hài (Quảng Ninh): “Giai điệu của lối hát này gần với giai điệu của Miền Trung nhƣng mềm mại, chậm chãi, mênh mang, trữ tình hơn”. Bắt đầu bài hát, sau tiếng “ơ”ngân rất dài là lời hát gần nhƣ trong “hát đúm”, tiết tấu chạm chãi, âm vực thấp, rất dễ hát, ai cũng có thể hát đƣợc. Hát chèo đƣờng là những cuộc hát đối đáp giao duyên thƣờng diễn ra rất tự nhiên trên vùng non nƣớc Hạ Long kỳ diệu, huyền ảo, thơ mộng, giữa các thuyền ngƣ dân với nhau. Chúng ta có thể thấy rất rõ cuộc sống ở nơi đây, ngƣ dân suốt đời lênh đênh trên thuyền, dƣới biển vật lộn với sóng, gió...Họ cƣới xin, sinh đẻ, giỗ tết, làm ăn...đều trên thuyền, chỉ khi họ chết mới đƣợc gửi xƣơng trên đảo. Quê hƣơng của họ không ở xã, ở huyện, ở phƣờng nào rõ rệt cả mà cứ theo con nƣớc, theo sóng gió, theo mùa vụ và tùy từng nghề (chài hay lƣới, cắm đăm hay thả câu), mà nay đây mai đó, đƣơng nhiên họ cũng thƣờng đi và sống quây quần theo gia đình, dòng họ. Hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ với rất nhiều hang hƣờm, nhiều vụng, nhiều áng khuất nẻo xa xa ngoài biển khơi...họ lấy đó làm mái nhà, làm tƣờng lũy che chắn, che chắn cho họ rất an toàn, không sợ bão tố, không sợ những đe dọa ở trên bờ. Cuộc sống lênh đênh nay đây mai đó, song mỗi gia đình một chiếc thuyền con, họ cảm thấy có nhu cầu làm quen, giao lƣu và kết bạn với các thuyền khác để cùng nhau trò chuyện và có thể giúp đỡ nhau giữa biển bao la rộng lớn này. Giữa vùng non nƣớc xanh biếc, những khi chung bến chung bờ, những khi buông neo chờ gió đợi nƣớc, những khi động biển, động trời, xin nhau miếng chầu, mời nhau chén nƣớc, nhất là khi chiều xuống trăng lên, ánh trăng rải vàng trên vịnh...Lúc này thuyền này hát gọi, thuyền kia đáp lời. Tiếng hát vang lên và ngân dài ẩn dấu lời tỏ tình bóng bẩy, thắm thiết chân tình. Dẫu có thể chẳng lên vợ lên chồng thì cũng có thể rãi bày cùng nhau qua câu hát, tâm sự tâm tƣ tình cảm với nhau, để rồi khỏi phụ lòng nhau. Nếu nhƣ hợp cảnh, hợp tình thì hát hỏi đối đáp, thử tài thử tình cho đến trăng đêm, rồi đến sáng ra mới đƣợc nhìn tỏ mặt nhân tình. Nhiều đôi thuyền hát hết đêm này qua đêm khác suốt một tuần trăng mới thật sự ngã lòng. Chính vì vậy chúng ta thấy rằng: Hát giao duyên trên biển là nhƣng khúc hát say dắm nhất. Say đắm, nồng nàn, thắm thiết trữ tình, vừa giàu âm điệu hình ảnh vừa mộc mạc, chân thành mà duyên dáng, rí rỏm trong lời hát: Ơ hò........ Trên mây xa Dƣới hòn Gà Chọi Anh hát câu này anh gọi nàng ra Những lời mình hát đêm qua Đêm nay hát nữa mau ra hát cùng Hát cho con gái bỏ chồng Đàn ông bỏ vợ, nạ dòng bỏ con... Xƣa kia dân chài không có làng xóm trên bờ, các con thuyền nhỏ bé lênh đênh chỉ quen nhau, thân thiết với nhau nhờ những lời ca tiếng hát. Phần lớn trai gái dân chài nên vợ nên chồng từ tiếng hát. Hát đã trở thành phƣơng tiện giao lƣu, một nhu cầu tình cảm hết sức quan trọng, nên hát chèo đƣờng có lời ca hết sức phong phú, đủ các cung bậc của tình yêu, có kín đáo duyên dáng lại có cả đam mê suồng sã, có sự chân thành thủy chung, lại có cả ghen tuông, giận hờn, có khép lép nhún nhƣờng, lại có cả chua ngoa quá quắt. 2.4. Cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất phục vụ du lịch 2.4.1. Cơ sở hạ tầng Một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của du lịch là cơ sở hạ tầng của khu vực. Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa nhất đối với du lịch bao gồm mạng lƣới và phƣơng tiện giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, mạng lƣới cấp điện, cấp nƣớc. 2.4.1.1. Mạng lƣới giao thông Mạng lƣới giao thông trên địa bàn huyện Vân Đồn trong những năm qua bƣớc đầu đƣợc đầu tƣ cả trên bộ lẫn dƣới biển, nhất là nâng cấp các bến cảng và các tuyến đƣờng giao thông liên thôn. Tuyến đƣờng tỉnh lộ 334 là trục giao thông chính. Các đƣờng liên xã nhƣ tuyến Đoàn Kết – Bình Dân – Đài Xuyên dài 15km đang đƣợc nâng cấp. Nhờ vốn của chƣơng trình biển Đông hải đảo, phƣơng tiện giao thông ở các đảo xa đã đƣợc nâng cấp. Xã đảo Ngọc Vừng mới đầu tƣ xây dựng đƣờng nhựa dài 7km từ cảng Cống Yên đến trung tâm xã, đƣờng dọc Quan Lạn – Minh Châu, đƣờng trục xã Bản Sen 15km và xã Thắng Lợi 5km đang đƣợc đầu tƣ sửa chữa, nâng cấp. Giao thông đƣờng thủy có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo giao lƣu, đi lại của nhân dân năm xã ngoài đảo (đảo xa nhất cách trung tâm huyện khoảng 30km), lƣu thông hàng hóa và học hành, khám chữa bệnh và sinh hoạt của dân cƣ. Hiện có bến cảng Cái Rồng có thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 500 tấn các bến cập tàu nhỏ ở các xã Quan Lạn, Minh Châu, Thắng Lợi, Ngọc Vừng. Bến cảng Bản Sen đang đƣợc xây dựng. 2.4.1.2 Mạng lƣới bƣu chính – viễn thông, thông tin liên lạc Huyện có hai cơ sở bƣu điện ở thị trấn Cái Rồng và xã đảo Quan Lạn, còn lại các xã đều có điện thoại và trạm dịch vụ điện thoại, bình quân 8 máy điện thoại trên 100 dân. Tuy nhiên thông tin liên lạc giữa các đảo còn nhiều khó khăn. 2.4.1.3. Mạng lƣới cấp điện Mạng lƣới điện quốc gia 35KV cùng với 9 trạm hạ thế phân phối điện mới chỉ cung cấp cho thị trấn Cái Rồng (90% dân cƣ đƣợc dùng điện) và 2 xã Đông Xá, Hạ Long (60-70% dân cƣ đƣợc dùng địên), đƣờng dây điện đến xã Đoàn Kết đang đƣợc đầu tƣ xây dựng. Tỉnh đã đầu tƣ cho các xã Quan Lạn, Minh Châu xây dựng trạm phát triển diezen, các xã đều đã có điện nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn, Quảng Ninh.pdf
Tài liệu liên quan