Khóa luận Vấn đề thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu vii

Chương I 1

Những vấn đề lý luận về thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán 1

1. Khái niệm chu chuyển vốn qua thị trường chứng khoán 1

1.1 Đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) 1

1.2 Tín dụng quốc tế 3

1.3 Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 3

1.4 Đầu tư gián tiếp (FPI) 4

1.4.1 Khái niệm 4

1.4.2 FPI trong mối quan hệ với những luồng vốn khác 5

2. Các mô hình phân tích nguồn FPI vào một quốc gia đang phát triển 6

2.1 Mô hình đầu tư - mô hình “kéo” 6

2.2 Mô hình thanh khoản đầu tư – mô hình “đẩy” 7

3. Tác động của dòng chu chuyển vốn đối với nền kinh tế 8

3.1 Những tác động tích cực của dòng luân chuyển vốn vào 8

3.2 Rủi ro của dòng luân chuyển vốn 9

3.2.1 Rủi ro tháo lui vốn với qui mô lớn 10

3.2.2 Rủi ro đầu tư không sinh lời 11

3.2.3 Rủi ro vĩ mô liên quan đến dòng vốn đầu tư vào 12

4. Những vấn đề đặt ra đối với việc thu hút và quản lý vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán 13

Chương II 15

Bài học Kinh nghiệm mang tính quốc tế về thu hút và quản lý dòng vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán 15

I. Vài nét về tình hình chu chuyển vốn trên thế giới 15

1. Chu chuyển vốn vào các nước thuộc khối APEC 15

2. Chu chuyển vốn vào các thị trường mới nổi 16

3. Chu chuyển vốn qua năm nước bị khủng hoảng ở Châu Á 18

II. Kinh nghiệm thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài của một số quốc gia cụ thể 21

1. Hàn Quốc 21

2. Indonesia 28

3. Thái Lan 31

III. Bài học kinh nghiệm 33

1. Bài học về quản lý vĩ mô 33

2. Bài học về các biện pháp kiểm soát vốn 35

3. Bài học về quản lý tài chính - chứng khoán để ổn định môi trường, thu hút và quản lý đầu tư 35

3.1 Vai trò của các cơ quan quản lý chứng khoán 35

3.2 Vai trò và cấu trúc các cơ quan quản lý trực tiếp 36

3.3 Vai trò của hợp tác trong quản lý 37

3.4 Vai trò của quá trình phòng ngừa rủi ro hệ thống 38

3.5 Quản lý rủi ro của các thành viên trên TTCK 39

3.6 Tầm quan trọng của công tác bảo vệ tài sản đầu tư của khách hàng 39

3.7 Tầm quan trọng của việc quản lý công ty chứng khoán 39

3.8 Sự cần thiết phải kiểm soát các nhà đầu tư quốc tế 40

3.9 Vai trò của các tổ chức quốc tế 40

Chương III 42

Thực trạng và giải pháp về thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam 42

I. Tổng quan 43

1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam – những tiền đề phát triển thị trường chứng khoán 43

1.1 Tình hình kinh tế vĩ mô 43

1.2 Tình hình thị trường tài chính 45

2. Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam 48

2.1 Sự ra đời của của Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) và Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Thành phố Hồ Chí Minh 48

2.2 Tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam 48

II. Thực trạng đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam 50

1. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn vào Việt Nam 50

2. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn đầu của TTCK Việt Nam 52

2.1 Cơ sở pháp lý và các hình thức tham gia vào TTCK Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài 52

2.1.1 Tham gia với hình thức mua cổ phần 52

2.1.2 Tham gia với tư cách là người mua, bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp 53

2.1.3 Tham gia với tư cách góp vốn liên doanh vào các công ty kinh doanh chứng khoán 54

2.2 Tình hình giao dịch của người nước ngoài trên TTCK 54

3. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK 59

3.1 Những điều kiện thuận lợi 60

3.1.1 Điều kiện chính trị ổn định 60

3.1.2 Tình hình kinh tế vĩ mô thuận lợi 60

3.1.3 Cải cách cơ cấu được chú trọng 61

3.1.4 Chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài đã rõ ràng 61

3.2 Những khó khăn 62

3.2.1 Những hạn chế vĩ mô 62

3.2.2 Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé về qui mô 62

3.2.3 Thông tin thiếu, không kịp thời và thiếu chính xác 63

3.2.4 Chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa nhất quán và chưa thông thoáng 63

3.2.5 Chi phí đầu tư cao 65

3.2.6 Thiếu tính chuyên nghiệp 66

III. Định hướng và giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK 67

1. Định hướng thu hút vốn ĐTNN qua TTCK 67

2. Những giải pháp cơ bản 68

2.1 Tạo môi trường vĩ mô thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài 68

2.2 Thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán 69

2.3 Cải thiện cơ cấu cung cấp thông tin cho người nước ngoài 69

2.4 Giảm chi phí giao dịch 70

2.5 Những kiến nghị về chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam 71

3. Hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán - một lối thoát cho tình trạng khó khăn trong thu hút vốn đầu tư qua TTCK Việt Nam 72

3.1 Khái niệm quỹ đầu tư 73

3.2 Hình thức quỹ đầu tư 74

3.3 Lợi ích của quỹ đầu tư 74

3.4 Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam 76

3.3.1 Vietnam Fund 76

3.3.2 Beta Vietnam & Beta Mekong Vietnam (Beta Vietnam Fund) 77

3.3.3 Templeton Vietnam Fund 78

3.3.4 Vietnam Enterprise Investment Ltd (VEIL) 78

3.3.5 Vietnam Opportunities Fund (VOF) 79

3.3.6 VietFund (VFM) 80

3.5 Giải pháp phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam 80

Kết luận 82

Danh mục tài liệu tham khảo 84

 

doc99 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vấn đề thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam trong bối cảnh tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á - Tập thể tác giả - NXB Thống kê, 1999. Nguồn: , “The 1997 crisis”, archieved library . Trong tháng 10 và tháng 11 năm 1997, TTCK thế giới tiếp tục bị tác động mạnh. Trong ngày thứ Hai, 27/10/1997, chỉ số Dow Jones của TTCK New York giảm tới mức kỷ lục 554 điểm, giảm 15%. Giao dịch chứng khoán đã phải đình trệ trong 1 giờ (vì theo qui định, chỉ số Dow Jones giảm 350 điểm thì thời gian tạm ngừng giao dịch là 1 giờ). Tiếp theo tình hình tồi tệ của TTCK New York, TTCK Hồng Kông đã phải chứng kiến một trận xuống dốc chưa từng có. Chỉ số Hang Seng giảm hơn 13%. TTCK của các nước vốn trụ được khá vững vàng sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á như New Zealand, Australia và Singapore cũng giảm với mức tương ứng là 12,4%, 7,2% và 7,6%. ở Nhật, chỉ số Nikkei giảm 5%. Các TTCK ở Châu Âu cũng bị suy sụp nặng nề: Đức giảm 13%, Anh giảm 9%, Pháp giảm 7% và Italia giảm 6% Nguồn: archived library, website đã dẫn. . III. Bài học kinh nghiệm 1. Bài học về quản lý vĩ mô Việc kết hợp chính sách một cách hợp lý sẽ giúp giám sát cả khối lượng và cơ cấu của luồng vốn vào. Nếu luồng vốn vào vượt quá mức cân bằng cần thiết thì các quốc gia tiếp nhận vốn sẽ rất dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, ngay cả khi tổng các dòng vốn vào ở trong mức cân bằng cần thiết thì cơ cấu của nó vẫn có những thành phần dễ bị ảnh hưởng (như các khoản vay ngắn hạn và nguồn FPI). Khi đó, khả năng biến động và tình trạng thoái lui vốn ở qui mô lớn vẫn dễ xảy ra. Do đó, cần duy trì sự cân bằng hợp lý giữa vốn vay ngân hàng, vốn FDI và FPI. Mô hình được khuyến khích là giảm bớt thị phần của vốn vay ngân hàng và tăng cường phát triển thị trường cổ phiếu và trái phiếu để có thị phần ngang bằng với vốn của ngân hàng. Để duy trì được khối lượng và cơ cấu dòng vốn đầu tư hợp lý, cần phải chú ý những điểm sau: Thứ nhất, phải phối hợp giữa các cơ quan khác nhau thuộc chính phủ đảm nhiệm chức năng giám sát FDI, FPI và các khoản vay ngân hàng. Ví dụ, những biện pháp cụ thể nhằm giảm luồng vốn vào ròng (như kiểm soát dòng vốn vào, thả nổi luồng vốn ra, giảm vay nợ chính thức…) có thể hiệu quả hơn nếu được kết hợp với chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt cũng như chính sách nâng tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Do thị trường tài chính ngày càng mang tính chất nhất thể hoá cao, nỗ lực của riêng một cơ quan sẽ trở nên vô nghĩa. Thứ hai, phải cải thiện tính minh bạch của thị trường. Hệ thống kế toán, kiểm toán và công bố thông tin hoàn thiện hơn sẽ giúp được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tốt hơn và từ đó giảm thiểu ảnh hưởng “tâm lý bầy đàn”, giúp thị trường chống lại được những cú sốc từ bên ngoài. Thứ ba, mặc dù tự do hoá và giảm quản lý là cần thiết để một quốc gia hội nhập nền tài chính quốc tế, nhất thiết phải chuẩn bị đủ các điều kiện trước khi tiến hành tự do hoá. Thứ tư, phải xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề và xây dựng một cơ chế hiệu quả để quản lý các dòng vốn theo nguyên tắc cùng có lợi. Cần phải tăng cường sự phối hợp quản lý trong các hoạt động liên quốc gia và liên thị trường, đặc biệt là trong giám sát mức độ công khai của các hoạt động giao dịch xuyên quốc gia. 2. Bài học về các biện pháp kiểm soát vốn Các bài học chính sách lớn sau đây được rút ra từ kinh nghiệm của các nền kinh tế bị khủng hoảng: Cần cân nhắc các vấn đề phát sinh, mặt lợi và hại khi áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn. Các biện pháp kiểm soát dòng vốn vào riêng lẻ, dù có được tổ chức chặt chẽ đến đâu, cũng không thể thay thế cho ổn định kinh tế vĩ mô và cải cách hệ thống tài chính. Điều này có thể thấy rõ trong trường hợp của Hàn Quốc. Kiểm soát dòng vốn vào nên được áp dụng tạm thời trên phạm vi rộng. Một thời gian sau, hiệu quả kiểm soát sẽ bị giảm dần do các đối tượng giao dịch sẽ tìm được cách né tránh thông qua các công cụ khác. Rõ ràng, khi thị trường tài chính luôn biến động trong phạm vi quốc và quốc tế, việc áp dụng một chính sách kiểm soát vốn cứng nhắc đôi khi lại gây tác dụng làm hạn chế hoặc thoát lui đầu tư, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với những nền kinh tế đang phát triển trong tình trạng thiếu vốn. Việc áp dụng các biện áp kiểm soát vốn ra tức thời có thể có tác dụng ngăn chặn chảy máu vốn nhưng nhất thiết phải kèm theo các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải cách tài chính, nếu không, về lâu dài sẽ làm ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Bài học về quản lý tài chính - chứng khoán để ổn định môi trường, thu hút và quản lý đầu tư 3.1 Vai trò của các cơ quan quản lý chứng khoán Có một điểm mà các chuyên gia đều nhất trí là các cơ chế quản lý truyền thống luôn không theo kịp phạm vi và bản chất thực sự của hoạt động tài chính. Sự phân biệt giữa các định chế ngày càng mờ nhạt, hệ thống tài chính quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và mối liên kết giữa các thị trường khác nhau ngày càng chặt chẽ. Vì vậy, khi thị trường tài chính nói chung có những biến đổi mạnh mẽ, môi trường quản lý chứng khoán phải được đổi mới cho phù hợp với tình hình. Các nhà quản lý chứng khoán luôn phải cân nhắc khung quản lý họ hoạt động có đủ khả năng và cơ chế phù hợp với các tập hợp mục tiêu rộng hơn và phức tạp hơn hay không. Cụ thể như sau: Thứ nhất, trong đánh giá và quản lý các rủi ro thị trường, các cơ quan phải đối phó với nhiều yếu tố có thể tác động tới hiệu quả hoạt động và thông tin của thị trường. Để thực hiện tốt chức năng của mình, các nhà quản lý phải đánh giá được bản chất các hoạt động xảy ra trên thị trường khác với môi trường quản lý truyền thống. Điều này giúp cho TTCK phản ứng kịp thời với những tác động tiêu cực mang tính dây chuyền từ thị trường tài chính quốc tế. Thứ hai, tất cả các cơ quan quản lý liên quan phải ý thức được lý do và nguồn gốc của các rủi ro có tính hệ thống trên thị truờng tài chính và phải hợp tác với nhau để bảo đảm an toàn cho thị trường. Thứ ba, các thị trường mới nổi phải vừa xây dựng thị trường trong nước vừa phải cạnh tranh quốc tế trong việc thu hút vốn và cung cấp các dịch vụ tài chính. Các thị trường này không thể có nhiều tiến triển ngay một lúc. Mặt khác, cái giá phải trả cho sự phát triển vội vàng có thể rất đắt, đôi khi dẫn tới sự sụp đổ của cả một nền tài chính. Do đó, các nhà quản lý vừa phải giám sát và tạo điều kiện cho ngành chứng khoán theo kịp xu hướng quốc tế, đồng thời xây dựng khuôn khổ chính sách về TTCK của nước mình nhằm đảm bảo một sự phát triển lành mạnh và bền vững. 3.2 Vai trò và cấu trúc các cơ quan quản lý trực tiếp Việc quản lý dòng chu chuyển vốn gắn liền với việc kiểm soát những tổ chức trung gian của các Tổ chức quản lý tuyến đầu, như các Sở giao dịch. Trong môi trường quản lý của các nước Châu á, cuộc Khủng hoảng 1997 đã chỉ ra rằng các Sở giao dịch đã không chỉ kém hiệu quả trong việc giám sát và cưỡng chế thi hành luật pháp mà còn thiếu chủ động trong việc chống lại hành vi vi phạm của thành viên. Sự suy sụp bất ngờ và nghiêm trọng của các trung gian trên thị trường chứng tỏ các cơ chế hoạt động hiện tại của các Sở giao dịch chưa đủ để giám sát tình hình tài chính của các thành viên. Trong lĩnh vực công bố thông tin công ty, các Sở giao dịch không đủ khả năng đánh giá chất lượng, mức độ đầy đủ và trung thực của thông tin. Tại những nước có nhiều Sở giao dịch, việc chia sẻ các thông tin liên quan tới các thành viên thị trường và các hoạt động giao dịch của họ còn nhiều hạn chế, làm giảm tính minh bạch của TTCK. Các tổ chức quản lý tuyến đầu có thể đóng góp vai trò quản lý trong việc đạt được các mục tiêu quản lý chứng khoán. Tuy nhiên trong hoàn cảnh thị trường còn đang căng thẳng, việc thiết lập cơ chế trao chức năng quản lý cho các tổ chức tự quản là không thích hợp. Điều quan trọng là khuyến khích họ có những biện pháp chủ động và phối hợp cùng với các cơ quan quản lý nhà nước. Trong một số trường hợp các cơ quan quản lý phải trực tiếp tham dự vào hoạt động của Sở giao dịch và Công ty thanh toán bù trừ, đặc biệt khi các lo ngại về rủi ro hệ thống tăng lên. 3.3 Vai trò của hợp tác trong quản lý Cần phải tăng cường sự phối hợp quản lý trong các hoạt động liên quốc gia và liên thị trường, đặc biệt là trong việc giám sát mức độ công khai của các hoạt động giao dịch xuyên quốc gia. Trong mỗi nước cũng phải có hợp tác giữa các cơ quan quản lý của các ngành khác nhau, với nguyên tắc ưu tiên hàng đầu là bảo đảm ổn định cho toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia. Các điều tra cho thấy ở một số nước việc phối hợp chính sách ngân hàng và chứng khoán gặp rất nhiều khó khăn, và đôi khi làm trì hoãn các hành động quản lý và làm cho việc thiết kế chính sách vội vàng. Hơn nữa, những khó khăn này sẽ làm tăng nguy cơ bất ổn định và sẽ có tác động tiêu cực lên thị trường. Một vấn đề nữa trong phối hợp quản lý là sự chồng chéo các quy định. Những qui định của bản thân ngành chứng khoán và những ngành hữu quan như ngân hàng đôi khi không có sự phối hợp đồng bộ. Chẳng hạn, các chính sách về TTCK đôi khi kiểm soát quá chặt chẽ hoạt động đầu tư của các ngân hàng. Về phía mình, các ngân hàng lại quản lý rủi ro quá độc đoán và khắt khe nhằm mục đích tránh rủi ro mà không quan tâm tới tác động tiêu cực đối với sự phát triển của ngành chứng khoán. Các nghiên cứu còn cho thấy có sự xung đột giữa mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách TTCK. Trong một số nước, các mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng đã loại bỏ các mục tiêu của quản lý chứng khoán. Một số thị trường đã bị đình chỉ bởi các cơ quan quản lý quốc gia cao hơn vì họ lo ngại các thị trường này sẽ làm ảnh hưởng tới môi trường vĩ mô hoặc đơn giản là không phù hợp trong một số trường hợp. 3.4 Vai trò của quá trình phòng ngừa rủi ro hệ thống Các cơ quan quản lý chứng khoán phải cân nhắc phương pháp để có thể kiểm soát và quản lý các nguyên nhân có thể gây rủi ro hệ thống cho thị trường mình để có cách đối phó chủ động và có phương pháp. Cụ thể có các vấn đề sau: Thứ nhất là việc xây dựng và thi hành các biện pháp quản lý dòng luân chuyển vốn, đặc biệt là vốn FPI, để có sự hợp tác và phối hợp với các cơ quan quản lý tại nước ngoài, cần có cơ chế tự động “ngắt mạch” dòng lưu chuyển vốn tại các thị trường trong nước khi có những biến cố lớn xảy ra. Các cơ quan quản lý tài chính phải thiết lập lực lượng đặc nhiệm liên ngành hoặc trong ngành mình để thanh tra các định chế tài chính. Thứ hai là khung pháp lý và các quy định phải tạo điều kiện cho các nhà quản lý can thiệp trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Mặt khác do yêu cầu phải giữ được lòng tin trên thị trường, nhất thiết phải có cơ chế quy định rõ mức độ của các biện pháp can thiệp. Ví dụ trong trường hợp thành viên thị trường bị đổ vỡ, luật phải quy định việc công bố thông tin kịp thời và chuyển giao tài sản và nợ nần và xác định rõ quyền của các bên đối tác. Thứ ba là khả năng những nhà quản lý có được các thông tin cần thiết và kịp thời để ra quyết định trong thời gian trước và trong khi xảy ra khủng hoảng. Để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và giám sát thị trường, cần phải có chương trình giám sát các mặt quan trọng của hệ thống có rủi ro cao - bao gồm cấu trúc, kiểm soát và quy trình giao dịch trên thị trường. 3.5 Quản lý rủi ro của các thành viên trên TTCK Người ta cũng nhắc nhiều đến sự thiếu hụt về quản lý rủi ro của các công ty, các trung gian tài chính và các thành viên thị trường, lý do là tại các quốc gia này thiếu vắng văn hoá quản lý rủi ro. Trong khi hầu hết mọi người đều tập trung vào rủi ro thị trường, bài học từ các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy phải nghiên cứu các vấn đề sâu hơn như kiểm soát nội bộ chặt chẽ, việc can thiệp của các quan chức quản lý cao cấp và một cơ cấu chịu trách nhiệm và hệ thống báo cáo - nhằm khuyến khích việc tính đến các rủi ro trong quá trình ra quyết định. 3.6 Tầm quan trọng của công tác bảo vệ tài sản đầu tư của khách hàng Mục tiêu lớn nhất của các quy định và cơ chế là bảo vệ tài sản khách hàng và sự ổn định thị trường. Kinh nghiệm một số nước cho thấy cần phải giữ vững lòng tin không chỉ ở hệ thống thanh toán bù trừ mà còn trong việc tách biệt tài sản khách hàng. Nếu không có cơ chế quản lý thích hợp, các tổ chức tài chính sẽ lợi dụng tài sản khách hàng để mưu lợi cho mình, ví dụ như sử dụng làm tài sản thế chấp để vay tiền mà không có uỷ quyền của khách hàng. 3.7 Tầm quan trọng của việc quản lý công ty chứng khoán Việc quản lý lỏng lẻo các công ty chứng khoán cũng là một nguyên nhân khủng hoảng. Với cơ cấu sở hữu công ty như hiện nay, các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư có thể tương đối dễ dàng vì các chủ sở hữu đồng thời là người quản lý công ty. Tuy nhiên tình hình vừa qua cho thấy cách làm như vậy khuyến khích việc vượt ra ngoài các quy định, dẫn đến việc các giám đốc không chịu tuân theo nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Rất nhiều công ty chỉ là công ty đại chúng về danh nghĩa, vì thực chất là do các gia đình kiểm soát. Để khôi phục lại lòng tin của nhà đầu tư, cần phải tăng cường việc công bố thông tin, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của tất cả mọi người tham gia quản lý, từ công chức cơ quan quản lý tới các giám đốc và nhân viên điều hành tại các công ty. 3.8 Sự cần thiết phải kiểm soát các nhà đầu tư quốc tế Cuộc khủng hoảng Đông á đã đặt ra câu hỏi về vấn đề quản lý nhà đầu tư quốc tế. Trước khi khủng hoảng xảy ra, người ta đã nêu lên những lo ngại về việc hoạt động của một số quỹ đầu tư nước ngoài, như quỹ phòng ngừa rủi ro (hedge fund), có thể gây ảnh hưởng tới TTCK. Đến nay, mặc dù không có kết luận về vai trò chính xác của các hedge fund trong cuộc khủng hoảng Đông á, các nhà quản lý vẫn nhấn mạnh yêu cầu xem xét lại cách thức quản lý các quỹ này. Việc quản lý tính thanh khoản của các tổ chức đầu tư quốc tế là lĩnh vực được đặc biệt quan tâm. Các nhà quản lý chỉ ra rằng, do một số lý do cạnh tranh, các tổ chức đầu tư quốc tế thường tham gia vào việc thanh toán nhanh trước khi đến hạn thanh toán chứng khoán (redemtion). Điều này đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ chuyển chứng khoán thành tiền mặt hơn, và gián tiếp khuyến khích họ thoái lui đầu tư khi cần nhiều vốn khả dụng. Một số quan điểm cho rằng việc khuyến khích chiến lược như vậy ở quy mô lớn sẽ gây ra những luồng tiền lớn rút ra khỏi TTCK trong thời gian ngắn. Trong trường hợp như vậy, nếu đặt ra được những giới hạn về nhu cầu vốn khả dụng của các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ có thể ổn định được các luồng vốn quốc tế. 3.9 Vai trò của các tổ chức quốc tế Đối với cuộc khủng hoảng tài chính 1997, nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống này hoàn toàn có thể dự báo và ngăn ngừa trước được bởi một tổ chức quản lý đa phương. Tuy nhiên, biện pháp can thiệp của tổ chức đa phương thì cần phải được cân nhắc kỹ do cũng có một số vấn đề như: trước khi trợ giúp tài chính, các cơ quan quản lý quốc gia không có trách nhiệm tuân theo khuyến nghị của các tổ chức nước ngoài. Hơn nữa, việc phê bình và khuyên bảo công khai có thể gây ra khủng hoảng lòng tin. Trong trường hợp nào cũng chưa thể nói các tổ chức quốc tế có khả năng dự đoán tốt hơn. Các ý kiến cho rằng việc xây dựng các nhóm làm việc đặc biệt, có khả năng thông qua các tổ chức tài chính chứng khoán quốc tế, có thể có ích trong việc tiêu chuẩn hoá và quản lý các luồng thông tin, liên lạc và hợp tác giữa các tổ chức đa phương. Trên đây là những bài học về quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK được rút ra từ kinh nghiệm của các quốc gia chịu tác động của Khủng hoảng 1997. Cuộc khủng hoảng 1997 xảy ra cuốn theo sự sụp đổ của nhiều TTCK vốn luôn được xem là vững chắc và phát triển nhất khu vực và trên thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia này là rất có ích đối với TTCK non trẻ của Việt Nam. Việc phân tích và tiếp thu những bài học này giúp chúng ta tự tin hơn khi mở cửa TTCK Việt Nam để tiếp nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích thực trạng của TTCK Việt Nam để kết hợp với những kinh nghiệm quốc tế đã có, xây dựng những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK. Chương III Thực trạng và giải pháp về thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK Việt Nam Với sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh vào tháng 7/2000, Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Tuy mới đang ở giai đoạn phát triển sơ khai nhưng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế tương đối vững chắc, TTCK đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài ngay từ khi mới thành lập. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK phải được đưa vào khuôn khổ ngay từ những bước đi ban đầu. Với một khoảng thời gian chưa dài, khối lượng vốn đầu tư chưa lớn trong mối tương quan với nguồn FDI, ODA hay tín dụng quốc tế, nhưng sự tham gia thị trường của nhà đầu tư nước ngoài đã làm phát sinh những vấn đề cần được nghiên cứu và phân tích để có những điều chỉnh phù hợp, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của hoạt động đầu tư quan trọng này trong thời gian tới. Trên nền tảng lý luận về đầu tư đã được trình bày chi tiết ở chương I, những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đã trải qua cuộc khủng hoảng Đông á 1997 được nêu lên ở chương II, chương III này đi sâu vào phân tích đầu tư nước ngoài qua TTCK trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam. Phần đầu chương III sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về kinh tế Việt Nam một thập kỷ vừa qua, khái quát sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam và cơ chế thu hút vốn ĐTNN qua thị trường trong thời kỳ ban đầu này. Phần tiếp theo sẽ nêu lên thực trạng ĐTNN trên thị trường với những số liệu cụ thể, từ đó thấy được những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút vốn ĐTNN qua TTCK. Phần cuối, cũng là phần trọng tâm của toàn bộ luận văn này, sẽ đưa ra những định hướng và khuyến nghị những giải pháp cho công tác thu hút và quản lý vốn ĐTNN qua TTCK Việt Nam. ở phần này, người viết không chỉ dừng lại ở những giải pháp chung chung mà mạnh dạn tập trung vào mô hình quỹ đầu tư chứng khoán như là một giải pháp chiến lược để thu hút vốn ĐTNN, đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn bộ TTCK Việt Nam. I. Tổng quan 1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam – những tiền đề phát triển thị trường chứng khoán Cũng giống như những thị trường khác trong nền tài chính như ngân hàng, hối đoái, thị trường tài chính ngắn hạn, dài hạn, thị trường bảo hiểm…, TTCK cần có những điều kiện kinh tế vĩ mô phát triển nhất định mới có thể hình thành và phát triển. Trình độ phát triển kinh tế vừa là tiền đề đồng thời cũng đặt ra yêu cầu phải hình thành TTCK. Do đó, để có cái nhìn thấu đáo về TTCK Việt Nam, trước hết chúng ta phải xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là thị trường tài chính trong hơn một thập kỷ qua. 1.1 Tình hình kinh tế vĩ mô Hơn một thập kỷ qua, nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1997 rất cao trung bình là 8,2%. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, tốc độ tăng trưởng năm 1998 giảm còn 6% và 4,8% năm 1999. Tuy nhiên, năm 2000 mức tăng trưởng đã vượt mức dự kiến đề ra và đạt 6,7%, mức tăng trưởng này được giữ vững tới nay. Lạm phát giảm từ mức độ 3 con số trong những năm 80 xuống mức 1 con số trong gần hết thập kỷ 90. (biểu đồ 4) Sau cuộc Khủng hoảng 1997, viễn cảnh kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong vòng 5 năm qua. Năm 2002, tăng trưởng GDP thực tế là 7%. Nền tảng kinh tế ổn định, những cải cách kịp thời cộng với niềm tin ngày càng tăng cao trong nền kinh tế, đó chính là những lý do căn bản dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh hơn. Sự tăng trưởng về tiết kiệm và đầu tư cho thấy sự phát triển khá bền vững và hợp lý của nền kinh tế. (biểu đồ 5) Nguồn: GSO (1999, trang 31) và IMF (2000, trang 3) Biểu đồ 4 - Tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam 1992-2002 Nguồn: GSO (1999) và IMF (2000) Biểu đồ 5 - Tình hình tiết kiệm và đầu tư 1991 - 1999 Về đầu tư nước ngoài, tính đến tháng 8/1997, Việt Nam có 2.663 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần 53 tỷ USD. Sau Khủng hoảng 1997, đầu tư vào Việt Nam giảm đáng kể. Tổng mức đầu tư của Việt Nam từ 29% GDP năm 1997 xuống còn 27% GDP năm 1999. Trước 1997, vốn đầu tư nước ngoài trung bình hàng năm đạt 2 tỷ USD nhưng năm 1998 giảm còn 800 triệu USD và năm 1999 còn 600 triệu USD. Đầu tư chỉ bắt đầu thực sự phục hồi vào năm 2000 Nguồn: Báo Đầu tư, www.vir.com.vn . Vốn đầu tư trong nước có nhiều biến chuyển tích cực. Niềm tin vững chắc của các nhà đầu tư đã đưa con số những doanh nghiệp đăng ký mới lên trên 50.000 trong năm 2001, 2002. Đến tháng 7/2002, vốn đầu tư tư nhân đã tăng lên 45% so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp nhỏ trong khu vực kinh này đạt 40 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 2,7 tỷ USD) năm 2002, đạt gần 9%GDP. Tổng đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp, vào khoảng mức 18% GDP năm 2002 Nguồn: Niên giám thống kê, 2002 .(biểu đồ 6) Nguồn: GSO (1999) và IMF (2000) Biểu đồ 6 - Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1998-2002 Tóm lại, điểm qua những chỉ số tăng trưởng cơ bản và tình hình đầu tư trong 10 năm qua, ta thấy được nền tảng khá bền vững của nền kinh tế cùng với triển vọng phát triển kinh tế sáng sủa. Trong bối cảnh đó, rõ ràng TTCK Việt Nam đang có những điều kiện thuận lợi để phát triển. 1.2 Tình hình thị trường tài chính Trong nền kinh tế thị trường, vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh phải được lấy từ những nguồn tiết kiệm nhỏ nhất của xã hội. Nếu thị trường tài chính phát triển chậm sẽ rất khó khăn cho việc huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế. Một thị trường tài chính hoàn chỉnh phải bao gồm hệ thống thị trường tiền tệ, chủ yếu thông qua hệ thống Ngân hàng, và hệ thống thị trường vốn, trong đó TTCK là một định chế giữ vai trò quan trọng. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể. Trong ngành ngân hàng, một hệ thống ngân hàng 2 cấp (cấp ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, và cấp các ngân hàng Thương mại, ngân hàng Đầu tư, Công ty tài chính và và các Quỹ tín dụng và Dịch vụ ngân hàng) đã hình thành và phát triển với những hình thức sở hữu khác nhau: nhà nước, tư nhân, tập thể, liên doanh và tư bản nước ngoài. Vốn hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, chủ yếu được cung cấp bởi hệ thống ngân hàng thương mại qua quan hệ tín dụng. Tín dụng ngắn hạn đã phát triển khá mạnh về cả cả số lượng và loại hình. Khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đã tăng lên 9-10 lần so với những năm đầu thực hiện Đổi mới Nguồn: “Thị trường chứng khoán Việt Nam – Mô hình và bước đi” – NXB Chính trị Quốc gia, 2000. T.S Nguyễn Sơn, T.S Nguyễn Quốc Việt . Thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập từ cuối năm 1993, đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại vay vốn lẫn nhau. Trong hệ thống thị trường này, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã giữ một vai trò quan trọng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập năm cuối 1994, trên cơ sở sát nhập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đã giúp cho nhà nước kiểm soát và tập trung được một phần lớn ngoại tệ và sử dụng đúng mục đích. Thị trường tín phiếu kho bạc cũng đã được tổ chức. Kho bạc Nhà nước thông qua ngân hàng nhà nước đã phát hành được nhiều đợt tín phiếu theo lãi suất thị trường kịp thời, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, hệ thống thị trường tài chính ngắn hạn (thị trường tiền tệ) của Việt Nam còn rất sơ khai và tẻ nhạt, chủ yếu mới hình thành được thị trường sơ cấp, chưa xác định được công cụ của thị trường tiền tệ, do đó chưa có thị trường thứ cấp, chưa có hoạt động mua đi bán lại. Thị trường chiết khấu và tái chiết khấu cũng đang ở dạng giản đơn và rất hạn chế, do chưa có các công cụ thương phiếu, hối phiếu. Các doanh nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng do TTCK còn hoạt động chưa hiệu quả. Khu vực ngân hàng phải đáp ứng cả nhu cầu cho vay ngắn hạn và dài hạn trong khi phần lớn nguồn huy động của các ngân hàng lại là ngắn hạn. Chính vì vậy trên bảng cân đối luôn xuất hiện nợ quá hạn. (xem biểu đồ 7) Nguồn: Báo cáo ngân hàng Nhà nước năm 2000 Biểu đồ 7 - Tình hình nợ quá hạn ngân hàng 1994 - 1999 Ngân hàng với bản chất kinh doanh “ăn chắc” không có khả năng huy động triệt để mọi nguồn vốn bằng tiền trong xã hội, nhất là những nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời, nhỏ bé. Theo thống kê, lượng tiền mặt trong dân cư chiếm từ 65%-70% tổng khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Nghĩa là trong xã hội luôn có một lượng tiền mặt khá lớn nằm ngoài quỹ đạo ngân hàng - đó là đối tượng huy động của TTCK. Về cơ bản, đến nay thị trường vốn thực thụ của Việt Nam chưa được hình thành. Đối với một quốc gia đang phát triển, đang hướng tới một nền kinh tế thị trường như Việt Nam hiện nay thì việc tạo ra được các công cụ của thị trường vốn, qua đó tổ chức được một thị trường vốn tập trung (như TTCK) là khâu then chốt trong giai đoạn đầu và cho cả quá trình phát triển sau đó. TTCK, với khả năng tạo ra được những “dòng chảy” tự do vào những “chỗ trũng” (

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLTN Trinh Khac Toan A9 K38C.doc
  • docBia KLTN Trinh Khac Toan A9 K38C.DOC
Tài liệu liên quan